Cái giá phải trả cho ân huệ
Sau khi Aomame bước vào, Đầu Trọc vòng ra sau lưng nàng nhanh nhẹn đóng cửa lại. Căn phòng tối om như mực. Rèm dày nặng che kín cửa sổ, đèn trong phòng thảy tắt hết. Một vài tia sáng lọt vào qua khe hẹp giữa các rèm cửa chỉ càng khiến bóng tối nổi bật hơn.
Như thể bước vào phòng chiếu phim hoặc nhà mô hình vũ trụ, cặp mắt nàng cần thời gian để thích ứng với bóng tối ấy. Thứ đầu tiên đập vào mắt nàng là mặt chiếc đồng hồ điện tử đặt trên cái bàn thấp. Những con số màu xanh hiển thị giờ lúc này: bảy giờ hai mươi phút tối. Phải mất thêm vài giây nữa nàng mới nhận ra có một cái giường lớn kê sát bức tường đối diện. Cái đồng hồ điện tử đặt trên đầu giường. So với phòng khách rộng rãi bên cạnh, gian phòng này nhỏ hơn một chút, nhưng so với phòng khách sạn bình thường thì vẫn lớn hơn nhiều.
Trên giường thù lù một đống đen sì, trông như hòn núi nhỏ. Aomame lại mất thêm một lúc nữa mới nhìn rõ được đường nét gồ ghề ấy phác nên hình dạng con người. Trong khoảng thời gian ấy, đường nét ấy hoàn toàn không nhúc nhích. Aomame không nhận ra được bất cứ dấu hiệu nào của sự sống, cũng không nghe thấy tiếng thở. Âm thanh duy nhất lọt vào tai nàng là tiếng gió nhè nhẹ thổi ra từ chiếc điều hòa nhiệt độ lắp sát trần nhà. Nhưng người kia chưa chết. Mỗi hành động của Đầu Trọc đều dựa trên tiền đề rằng đó là một người sống.
Người này tầm vóc rất cao lớn, chắc chắn là đàn ông. Nàng không chắc lắm, nhưng người đó hình như không phải đang quay mặt về phía này. Ông ta không đắp chăn mà nằm sấp trên tấm ga trải giường phẳng phiu, im lìm bất động, tựa như con thú lớn náu mình sâu trong hang, cố giữ cho thể lựa khỏi tiêu hao trong khi chờ vết thương hồi phục.
“Đến giờ rồi ạ,” Đầu Trọc gọi cái bóng ấy. Giọng y toát lên một vẻ căng thẳng nàng chưa từng nhận ra trước đó.
Không rõ người kia có nghe thấy tiếng gọi đó không. Ngọn núi nhỏ đen trùi trũi trên giường vẫn không nhúc nhích. Đầu Trọc đứng trước cửa, không đổi tư thế, lặng lẽ đợi. Trong phòng hết sức tĩnh lặng, cả tiếng nuốt nước bọt cũng nghe thấy rõ ràng. Ngay sau đó Aomame phát hiện ra, người vừa nuốt nước bọt ấy chính là nàng. Nàng nắm chặt túi thể thao bằng tay phải, nàng lặng lẽ chớ đợi với Đầu Trọc. Con số trên mặt đồng hồ điện tử biến thành 7:21, rồi 7:22, sau đó thành 7:23.
Lát sau, vật thể trên giường bắt đầu khẽ nhúc nhích, những cái rung nhè nhẹ rất khẽ, cuối cùng chuyển thành động tác rõ ràng. Có vẻ như vừa nãy người này ngủ say quá, hoặc đang chìm sâu trong trạng thái tương tự giấc ngủ. Cơ bắp hồi tỉnh, nửa thân trên chầm chậm nhổm lên, đồng thời, ý thức được tái hồi. Cái bóng ngồi thẳng dậy trên giường, chân xếp bằng. Đúng rồi, là đàn ông, Aomame nghĩ.
“Đến giờ rồi ạ,” Đầu Trọc nhắc lại.
Hơi thở dài của người kia vang lên. Đó như là tiếng thở hắt ra nặng nhọc chầm chậm vẳng lên từ dưới đáy giếng sâu. Ngay sau đó lại có tiếng hít vào thật sâu, tựa như cơn gió nóng lùa qua khu rừng, thô bạo mà hoang dã. Hai thứ âm thanh hoàn toàn khác nhau ấy không ngừng lặp đi lặp lại, xen giữa là những khoảng lặng kéo dài, như khoảng thời gian nghỉ giữa hai tiết mục sân khấu. Điều này khiến Aomame cảm thấy hoang mang. Nàng có cảm giác như mình vừa đặt chân vào một khu vực chưa từng nghe nói, chưa từng nhìn thấy bao giờ, tỉ như đáy một khe sâu dưới biển, hoặc bề mặt một tiểu hành tinh nào đó chưa biết tên. Một nơi nếu cố gắng hết sức cũng có thể đến được, nhưng một khi đã đến nơi thì chớ mong có trở về.
Mắt nàng không chịu thích ứng hoàn toàn với bóng tối. Giờ thì nàng có thể nhìn được đến một khoảng nhất định, nhưng xa hơn nữa thì không. Nàng chỉ thấy cái bóng mờ mờ của người ấy, còn ông ta đang xoay mặt về phía nào, hay đang nhìn gì, nàng không thể biết.
Nàng thấy rõ được rằng người này hết sức to cao, hai vai cơ hồ nhấp nhô lên xuống theo nhịp thở, lặng lẽ mà dữ dội. Đó không phải kiểu hít thở bình thường. Đó là kiểu hít thở đòi hỏi phải vận dụng toàn bộ cơ thể, một kiểu hít thở có mục đích và chức năng đặc biệt. Nàng hình dung được xương bả vai và cơ hoành của ông ta đang vận động dữ dội, không ngừng dãn ra rồi lại co vào. Người bình thường không thể nào hô hấp mạnh như thế. Đây rõ ràng là một phương pháp hô hấp đặc thù, phải trải qua khổ luyện trong thời gian dài mới có thể làm chủ được.
Đầu Trọc đứng cạnh Aomame, giữ nguyên tư thế, lưng thẳng cằm hơi khép vào trong. Nhịp hô hấp của y vừa ngắn vừa nhanh, tương phản với người đàn ông trên giường. Y tập trung toàn bộ tinh thần nhìn người đàn ông kia, đợi cho chuỗi thở sâu dữ dội ấy kết thúc. Đó dường như cũng là một trong những hoạt động thường nhật của người đàn ông này. Aomame cũng chỉ biết cùng Đầu Trọc đợi cho ông ta hoàn thành việc thở của mình. Hẳn đây là một bước mà ông ta cần phải tiến hành để có thể hoàn toàn tỉnh giấc.
Không lâu sau đó, tựa như một cỗ máy khổng lồ ngừng chạy, nhịp hô hấp đặc biệt từ từ dừng lại, khoảng thời gian giữa hai lần hít thở mỗi lúc một dài thêm. Cuối cùng, ông ta thở hắt ra một hơi dài, tựa như muốn xả hết mọi thứ ra. Im lặng sâu lắng một lần nữa phủ xuống căn phòng.
“Đến giờ rồi ạ,” Đầu Trọc nói lần thứ ba.
Người đàn ông chầm chậm chuyển động. Hình như ông ta đang hướng về phía Đầu Trọc.
“Anh có thể ra ngoài,” ông ta nói. Một giọng nam trung trầm ấm, rõ ràng, quả quyết và không có gì mập mờ. Cơ thể ông ta dường như đã hoàn toàn tỉnh táo.
Trong bóng tối, Đầu Trọc khẽ cúi người chào rồi bước ra khỏi phòng, không một động tác thừa, hệt như lúc bước vào. Cửa đóng lại, trong phòng chỉ còn Aomame và người đàn ông kia.
“Xin lỗi cô, tối thế này,” người đàn ông nói. Câu này hẳn là để nói với Aomame.
“Tôi không sao,” Aomame đáp.
“Chúng tôi buộc phải làm cho phòng này tối đi,” người đàn ông nói nhẹ nhàng, “Nhưng cô không cần lo lắng. Không hại gì đến cô đâu.”
Aomame gật đầu. Sực nhớ ra mình đang đứng trong bóng tối, nàng bèn lên tiếng: “Tôi hiểu.” Giọng nàng dường như cứng và cao hơn bình thường.
Người đàn ông trong bóng tối chăm chú nhìn Aomame một lúc. Nàng có cảm giác đang bị nhìn chằm chằm. Ánh mắt ấy thật chuẩn xác và tỉ mỉ. Ông ta không giống như đang “nhìn” vào nàng, mà như thể đang “soi” nàng thì đúng hơn. Người này cơ hồ có thể xăm soi từng xăng ti mét trên cơ thể nàng. Nàng có cảm giác trong chớp mắt đã bị ông ta lột sạch mọi thứ đang mặc trên người, khiến nàng trở nên lõa lồ. Nhưng ánh mắt đó không chỉ dừng lại trên da nàng, nó còn chạm đến cơ thịt, nội tạng và cả tử cung nàng nữa. Người đàn ông này có thể nhìn trong bóng tối! Nàng thầm nhủ. Ông ta đang soi vào những thứ mắt thường không thể thấy.
“Nhìn mọi thứ trong bóng tối thì lại càng rõ ràng hơn,” người đàn ông nói, như đọc thấu được nội tâm Aomame, “Nhưng nếu nấp trong bóng tối lâu quá thì khó mà trở lại thế giới sáng sủa trên mặt đất được. Cần phải nắm bắt thời cơ thích hợp để dừng.”
Nói xong, ông ta lại quan sát Aomame thêm một lúc nữa. Trong ánh mắt không có dấu vết gì của ham muốn tình dục. Ông ta chỉ đơn giản săm soi nàng như một vật thể khách quan, tựa như một hành khách đứng trên boong tàu nhìn chăm chú hình dạng của hòn đảo đang lướt dần qua bên cạnh. Nhưng đó không phải một vị khách bình thường. Ông ta muốn nhìn thấu mọi thứ trên hòn đảo ấy. Lộ ra trước ánh mắt sắc bén, không khoan nhượng ấy một lúc lâu, Aomame cảm nhận một cách sâu sắc những khuyết thiếu của thân thể mình. Bình thường nàng không bao giờ có cảm giác ấy. Ngoài kích cỡ bầu vú ra, nàng còn lấy làm tự hào về thân thể mình là khác. Ngày ngày nàng rèn luyện nó, giữ gìn vẻ đẹp của nó. Các cơ bắp nhẵn căng phân bố đều khắp toàn thân, không có một chút cơ thịt thừa nào. Nhưng trước ánh mắt săm soi của người đàn ông này, nàng lại bắt đầu có cảm giác cơ thể mình chẳng khác nào một cái túi thịt cũ kỹ rách rưới.
Người kia như thể đọc được suy nghĩ trong đầu Aomame, bèn ngừng lại không săm soi nàng nữa. Nàng cảm nhận được ánh mắt ấy thình lình mất đi sức mạnh. Cảm tưởng giống như ai đó đang dùng vòi cao su tưới nước thì có người ở trong bóng râm của toà nhà vặn van nước lại vậy.
“Xin lỗi, phiền cô vén rèm cửa lên một chút được không?” người đàn ông khẽ nói, “Tối thế này chắc cô không tiện làm việc.”
Aomame đặt túi thể thao xuống sàn nhà, bước tới cửa sổ, kéo sợi dây thừng nhỏ bên cạnh, mở cho tấm rèm dày nặng hé ra, sau đó kéo luôn tấm màn ren trắng bên trong. Khung cảnh Tokyo về đêm mang theo ánh sáng đổ vào trong phòng. Ánh đèn màu trên tháp Tokyo, đèn chiếu sáng trên đường cao tốc, đèn pha những chiếc xe hơi đang lao vùn vụt, đèn hắt ra từ cửa sổ các cao ốc, đèn neon đủ màu sắc trên nóc các tòa nhà, chúng hòa trộn vào nhau, hình thành nên thứ ánh sáng đặc hữu của đô thị lớn, soi tỏ căn phòng khách sạn. Tuy nhiên ánh sáng không mạnh lắm, Aomame chỉ nhìn ra cách bày biện nội thất trong phòng. Thứ ánh sáng ấy làm trong lòng Aomame dấy lên cảm giác hoài niệm. Đó là thứ ánh sáng đến từ thế giới của nàng. Aomame chợt nhận ra, mình cần những tia sáng ấy một cách bức thiết đến nhường nào. Nhưng chỉ một chút ánh sáng thế thôi dường như vẫn quá chói chang đối với mắt người kia. Ông ta ngồi khoanh chân trên giường, đưa đôi bàn tay to bè lên che kín mặt.
“Ông có sao không ạ?” Aomame hỏi.
“Không cần phải lo,” người đàn ông trả lời.
“Tôi kéo rèm lại một chút nhé?”
“Thế này được rồi. Võng mạc của tôi có vấn đề, phải mất một chút thời gian mới thích ứng được với ánh sáng. Lát nữa là lại bình thường thôi. Phiền cô ngồi xuống chỗ kia đợi một lúc được không?”
Võng mạc có vấn đề, Aomame thầm lặp lại. Những người võng mạc có vấn đề đa phần đều mấp mé nguy cơ bị mù hẳn. Nhưng vấn đề này tạm thời không làm nàng bận tâm. Aomame ở đây không phải để xử lí vấn đề thị lực của con người này.
Người đàn ông dùng hai bàn tay che mặt, để cặp mắt từ từ thích ứng với ánh sáng ngoài cửa sổ chiếu vào. Trong lúc chờ đợi, Aomame ngồi xuống sofa, nhìn thẳng vào đối phương. Lần này tới lượt nàng quan sát ông ta một cách kỹ càng.
Ông ta rất cao lớn. Không béo, mà chỉ to lớn. Người cao, khổ người rộng, tràn trề sức lực. Tuy trước đó đã nghe bà chủ nói người này cao lớn vạm vỡ, nhưng Aomame không ngờ đối phương lại cao to thế này. Nhưng, dĩ nhiên, chẳng có lý do gì mà giáo chủ một đoàn thể tôn giáo lại không thể là một người cao lớn. Aomame không khỏi hình dung cảnh những thiếu nữ mười tuổi bị người đàn ông cao lớn này cưỡng hiếp, gương mặt nàng bất giác nhăn lại. Rồi nàng lại tưởng tượng ra cảnh ông ta hoàn toàn lõa lồ, cưỡi lên người những cô bé nhỏ nhắn. Những cô bé ấy hẳn không thể nào kháng cự được. Không, dù là phụ nữ trưởng thành e cũng khó mà chống lại được.
Người đàn ông mặc quần có chun mỏng, chít eo, giống quần thể thao, bên trên mặc áo dài tay màu nhạt dài rộng, hơi bong bóng như lụa. Phía trước áo có một hàng cúc, nhưng người đàn ông để mở hai cúc áo trên cùng. Cả áo lẫn quần thể thao trông đều màu trắng, hoặc là màu kem sữa nhạt. Tuy không phải pyjama nhưng đó cũng là loại quần áo rộng rãi dễ chịu mặc trong nhà, hoặc rất hợp với bóng cây râm mát ở miền Nam nếu mặc đi ra ngoài. Đôi chân trần có vẻ rất to. Bờ vai rộng như vách đá của ông ta khiến người ta liên tưởng đến một tuyển thủ võ thuật dày dạn kinh nghiệm.
“Cám ơn cô đã tới đây,” đợi đến khi Aomame ngừng quan sát trong giây lát, người đàn ông cất tiếng.
“Đây là công việc của tôi. Chỉ cần có yêu cầu, tôi đi đâu cũng được,” Aomame nói bằng giọng đã loại bỏ mọi xúc cảm. Nhưng vừa nói vậy, nàng vừa có cảm giác mình chẳng khác nào một ả điếm xuất hiện bất cứ khi nào được gọi. Có lẽ do vừa nãy nàng bị ánh mắt sắc bén của ông ta lột trần trong bóng tối.
“Cô đã biết những gì về tôi rồi?” người đàn ông vẫn giơ hai tay lên che mặt, hỏi Aomame.
“Ông muốn hỏi, tôi đã biết những gì về ông rồi ư?”
“Đúng.”
“Tôi gần như chả biết gì cả,” Aomame cẩn thận chọn lựa từ ngữ, trả lời, “Đến tên ông là gì tôi cũng không biết. Tôi chỉ biết ông đứng đầu một đoàn thể tôn giáo ở Nagano hay Yamanashi gì đó. Cơ thể ông gặp phải một chút vấn đề, biết đâu tôi giúp được phần nào. Đấy, tôi chỉ biết có vậy thôi.”
Người đàn ông khẽ gật đầu mấy cái, nhích bàn tay ra, xoay mặt về phía Aomame. Giờ thì ông ta và Aomame nhìn thẳng vào nhau.
Tóc ông ta rất dài. Mái tóc rậm dày buông xuống tận vai, bên trong lẫn rất nhiều sợi bạc. Áng chừng người này tầm bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Mũi ông ta rất to, chiếm trọn một khoảng lớn trên khuôn mặt. Sống mũi cao vừa thẳng vừa dài, khiến người ta liên tưởng đến dãy núi Alps trong tấm lịch treo tường. Chân núi trải rộng, toát lên vẻ uy nghiêm. Nhìn gương mặt ông ta, thứ đầu tiên đập vào mắt chính là chiếc mũi ấy. Đối nghịch lại, đôi mắt ông ta lại hõm sâu xuống; thật khó mà nhìn rõ hai con ngươi ẩn sâu bên trong hốc mắt ấy đang nhìn thứ gì. Khuôn mặt ông ta rất xứng với thân hình, vừa dài vừa rộng. Râu ria cạo sạch sẽ, không có sẹo hay nốt ruồi nào. Nét mặt rất cân phân, toát lên một thứ khí chất trầm mặc mà trí tuệ, nhưng trong đó lại cũng ẩn chứa một thứ gì đó đặc dị, không tầm thường, một thứ gì đó không thể dễ dàng bỏ qua được.
Đó là kiểu gương mặt khiến người ta thoạt nhìn đã thấy chùn bước. Có lẽ tại cái mũi quá to, khiến cả gương mặt mất đi sự cân đối, có lẽ chính vì vậy mà người trông thấy nó cảm thấy bất an trong lòng. Nếu không thì có lẽ là bởi đôi mắt hõm sâu, phát ra những tia sáng lạnh lẽo tựa như dòng sông băng cổ đại kia. Cũng có khả năng nguyên nhân là cặp môi mỏng toát lên vẻ lạnh lùng tàn khốc, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể buông ra những lời không thể dự đoán.
“Còn gì nữa không?” người đàn ông hỏi.
“Ngoài ra tôi không nghe nói gì cả. Người ta chỉ bảo tôi chuẩn bị sẵn sàng, đến đây thực hiện bài tập co duỗi cơ bắp. Cơ bắp và các khớp xương là lĩnh vực chuyên môn của tôi. Không cần thiết phải biết quá nhiều về tính tình hay địa vị của đối phương làm gì.”
Giống như gái điếm vậy, Aomame thầm nghĩ.
“Tôi hiểu cô muốn nói gì,” người đàn ông nói bằng giọng trầm ấm, “Nhưng có lẽ vẫn cần phải nói rõ thêm với cô một chút về con người tôi.”
“Xin ông cứ nói.”
“Người ta gọi tôi là Lãnh Tụ. Nhưng tôi gần như chưa bao giờ lộ mặt trước công chúng. Dù ở trong giáo đoàn, mọi người cùng sống trong một mảnh đất, nhưng đại đa số tín đồ không biết hình dạng mặt mũi tôi ra sao.”
Aomame gật đầu.
“Nhưng hiện giờ tôi đã để cô nhìn rõ mặt mình. Cũng không thể bắt cô tiến hành trị liệu trong bóng tối hoặc phải bịt kín hai mắt lại, phải không? Ngoài ra còn vấn đề phép xã giao nữa.”
“Đây không phải là trị liệu,” Aomame bình tĩnh chỉ ra, “Mà chỉ là tiến hành các bài tập co duỗi cơ bắp. Tôi không có giấy phép thực hiện các thủ thuật y tế. Việc tôi làm chẳng qua chỉ là cưỡng ép co giãn một số cơ bắp thường ngày không sử dụng đến hoặc người bình thường hiếm khi dùng đến, phòng ngừa cơ năng của cơ thể bị giảm sút mà thôi.”
Người đàn ông hình như khẽ mỉm cười. Nhưng có thể đó chỉ là ảo giác, có lẽ ông ta chỉ co giật cơ mặt một chút.
“Tôi hoàn toàn hiểu ý cô. Tôi chỉ dùng từ ‘trị liệu’ cho tiện thôi. Cô không cần để ý. Điều tôi muốn nói là, giờ cô đang nhìn thấy thứ mà người bình thường không thể thấy được. Tôi mong cô hiểu điều ấy.”
“Vừa nãy ở phòng bên họ đã nhắc nhở tôi rồi, chuyện ngày hôm nay không thể nói ra ngoài.” Aomame nói, chỉ vào cánh cửa thông ra phòng khách. “Ông không cần lo, dù có nhìn thấy nghe thấy gì ở đây đi nữa, tôi sẽ tuyệt đối không tiết lộ ra ngoài đâu. Trong công việc, tôi tiếp xúc với thân thể rất nhiều người. Có lẽ thân thể ông tương đối đặc thù, nhưng đối với tôi thì ông chẳng qua chỉ là một trong rất nhiều người có vấn đề về cơ bắp thôi. Phần duy nhất ở ông mà tôi để tâm đến chỉ là cơ bắp.”
“Tôi nghe nói hồi nhỏ cô là tín đồ của Chứng nhân Jehovah.”
“Tôi trở thành tín đồ không phải do tôi tự chọn, mà là người ta bảo tôi. Hai việc này khác biệt rất lớn.”
“Chính xác, hai việc này khác biệt rất lớn,” người đàn ông nói, “Nhưng con người tuyệt đối không thể thoát khỏi những ấn tượng đã được cấy trồng vào óc từ khi còn nhỏ.”
“Dù xấu hay tốt,” Aomame nói.
“Giáo lý của Chứng nhân Jehovah khác biệt rất lớn so với giáo đoàn của chúng tôi. Nếu để tôi nhận xét, thì những tôn giáo này xây dựng dựa trên hạt nhân là thuyết tận thế hoặc ít hoặc nhiều đều là những thứ lừa đảo cả. Tôi cho rằng cái gọi là ‘tận thế’, bất luận trong tình huống nào, cũng đều là thứ chỉ thuộc về cá nhân. Nói thì nói vậy, nhưng Chứng nhân Jehovah đúng là một giáo đoàn ngoan cường đến độ người ta phải kinh ngạc. Lịch sử của họ không dài nhưng họ đã trải qua vô số lần khảo nghiệm, vậy mà vẫn vững vàng, không ngừng tăng thêm lượng tín đồ. Về mặt này thì có rất nhiều thứ đáng để chúng tôi học tập.”
“Có lẽ chẳng qua vì đầu óc họ quá hẹp hòi. Một nhóm càng nhỏ bé chật hẹp thì lại càng kiên cố khi kháng cự lại ngoại lực.”
“Có lẽ cô nói đúng,” người đàn ông nói. Đoạn ông ta ngừng lại giây lát. “Dù sao chăng nữa, hôm nay chúng ta ở đây không phải để thảo luận vấn đề tôn giáo.”
Aomame không nói gì.
“Tôi hy vọng cô hiểu được sự thực này: cơ thể tôi có rất nhiều thứ đặc biệt,” người đàn ông nói.
Aomame ngồi trên ghế, lẳng lặng chờ ông ta nói tiếp.
“Vừa nãy tôi nói với cô, mắt tôi không chịu được ánh sáng mạnh. Triệu chứng này xuất hiện mấy năm rồi. Trước đó thì không có vấn đề gì, nhưng đến một thời điểm nào đấy tự nhiên nó xuất hiện. Tôi không lộ diện trước công chúng chủ yếu cũng vì nguyên nhân này. Hầu như toàn bộ thời gian tôi ở trong phòng tối.”
“E là tôi không có khả năng giải quyết vấn đề thị lực của ông,” Aomame nói. “Tôi đã nói rồi, sở trường của tôi là phương diện cơ bắp.”
“Tôi rất hiểu. Tôi cũng tìm đến chuyên gia rồi. Đi khám ở mấy bác sĩ nhãn khoa nổi tiếng, xét nghiệm rất nhiều lần. Nhưng người nào cũng nói hiện nay không có biện pháp nào xử lý được. Võng mạc của tôi đã bị tổn thương, nhưng không rõ nguyên nhân. Bệnh tình giờ vẫn đang phát triển từ từ. Nếu nó tiếp tục phát triển thế này, có lẽ không bao lâu nữa tôi sẽ mù hẳn. Dĩ nhiên, đúng như cô nói, chuyện này không liên quan gì đến cơ bắp. Nhưng hãy cứ để tôi lần lượt liệt kê các vấn đề trên cơ thể mình từ trên xuống dưới đi. Rồi thì cô có thể giúp tôi việc gì, không thể giúp được việc gì, chuyện đó lát nữa hẵng tính.”
Aomame gật đầu.
“Kế đó là cơ bắp của tôi thường bị căng cứng,” người đàn ông nói. “Cứng đến nỗi không nhúc nhích được, cơ hồ như biến thành đá, kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Những lúc như thế, tôi chỉ có thể nằm yên bất động. Không đau đớn, chỉ là cơ bắp toàn thân cứng đờ ra không cử động được. Một ngón tay cũng không thể nhấc lên. Nhiều lắm tôi cũng chỉ có thể dùng ý chí để buộc nhãn cầu động đậy một chút. Chứng này thường cứ mỗi tháng lại phát một hai lần.”
“Trước khi bệnh phát có triệu chứng gì không?”
“Đầu tiên là chuột rút, cơ bắp co giật khắp cả. Tình trạng này kéo dài khoảng mười đến hai mươi phút. Sau đó như là có người gạt cầu dao vậy, các cơ bắp hoàn toàn cứng đờ. Vì vậy, trong khoảng mười đến hai mươi phút sau khi xuất hiện triệu chứng, tôi phải tìm một nơi nào đó có thể nằm xuống được. Tôi náu mình ở đó, như thuyền bè vào vịnh tránh bão, đợi trạng thái tê liệt từ từ trôi qua. Tuy cơ thể tê liệt nhưng ý thức của tôi lại hoàn toàn tỉnh táo. À không, thậm chí còn tỉnh táo hơn lúc bình thường nữa.”
“Có cảm giác đau đớn gì không?”
“Mọi cảm giác đều nhất loạt biến mất. Cô có lấy kim đâm tôi, tôi cũng không có cảm giác gì cả.”
“Căn bệnh này, ông đã khám bác sĩ chưa?”
“Tôi đã tìm đến đủ các bệnh viện uy tín, gặp rất nhiều bác sĩ. Nhưng rồi chỉ rõ được một điều: tôi đã mắc phải một quái bệnh trước đây chưa từng có tiền lệ, tri thức y học hiện đại không thể làm gì được. Trung y, nắn xương, xoa bóp, châm cứu, massage, ngâm suối nước nóng,… có bao nhiêu cách tôi thử hết rồi, nhưng đều không có hiệu quả gì rõ rệt.”
Aomame thoáng chau mày. “Công việc của tôi chỉ là kích hoạt cơ năng của thân thể bình thường. Còn chứng bệnh nghiêm trọng thế này, e là tôi không thể làm gì được.”
“Tôi rất hiểu. Có điều, tôi chỉ đang thử mọi cách có thể thực hiện. Dù phương pháp của cô không hiệu quả, tôi cũng đâu thể đổ trách nhiệm lên đầu cô. Cô chỉ cần làm đúng những gì bình thường cô vẫn làm là được rồi. Tôi muốn xem thân thể mình sẽ tiếp nhận nó như thế nào.”
Aomame mường tượng ra thân thể khổng lồ của người đàn ông này nằm yên bất động trong góc tối nào đó như loài động vật ngủ đông.
“Lần xuất hiện tình trạng tê liệt gần đây nhất là lúc nào vậy?”
“Cách đây mười ngày,” người đàn ông đáp. “Còn một việc nữa, cũng hơi khó nói, song tôi nghĩ tốt nhất vẫn nên nói trước với cô thì hơn.”
“Dù là việc gì, xin ông cứ nói ra.”
“Trong thời gian cơ bắp ở trạng thái chết giả ấy, tôi luôn cương cứng.”
Aomame nhíu mày sâu hơn nữa. “Có nghĩa là trong suốt mấy tiếng đồng hồ liền, cơ quan sinh dục của ông luôn dựng đứng lên?”
“Đúng thế.”
“Nhưng ông không có cảm giác gì?”
“Không có cảm giác,” người đàn ông nói, “Cũng không có ham muốn tình dục. Chỉ dựng đứng lên, như cục đá. Chẳng khác gì các cơ bắp khác.”
Aomame lắc đầu, cố buộc gương mặt mình trở lại trạng thái bình thường. “Về vấn đề này, tôi e cũng không giúp được gì. Việc này và lĩnh vực chuyên nghiệp của tôi cách nhau xa quá.”
“Điều này tôi khó mà mở miệng nói ra, mà có lẽ cô cũng không muốn nghe, nhưng cô có thể nghe tôi nói thêm mấy câu nữa không?”
“Mời ông cứ nói. Tôi sẽ giữ bí mật.”
“Trong khoảng thời gian ấy, tôi giao hợp với các cô gái.”
“Các cô gái?”
“Bên cạnh tôi có không chỉ một người đàn bà. Khi tôi rơi vào trạng thái ấy, bọn họ sẽ lần lượt cưỡi lên tôi để giao hợp với tôi. Tôi không có cảm giác gì, cũng không có khoái cảm. Nhưng tôi vẫn phóng tinh. Phóng tinh với từng người một.”
Aomame trầm ngâm.
Người đàn ông tiếp lời: “Tổng cộng có ba người, đều khoảng mười mấy tuổi. Có lẽ cô sẽ lấy làm khó hiểu tại sao bên cạnh tôi lại có những cô gái trẻ như thế, tại sao bọn họ phải giao hợp với tôi?”
“Có phải đó là… một phần của hành vi tôn giáo?”
Người đàn ông vẫn ngồi khoanh chân trên giường, hít vào một hơi dài. “Trạng thái tê liệt ấy của tôi được coi là một ân huệ của Trời cao, một thứ trạng thái thần thánh. Vì vậy, khi tôi lâm vào trạng thái đó, họ liền đến giao hợp với tôi, hy vọng có thể hoài thai, sinh ra người kế tục tôi.”
Aomame không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm vào người đàn ông đối diện. Ông ta cũng thôi không nói nữa.
“Ý ông là, mục đích của họ là mang thai? Hoài thai đứa con của ông trong trạng thái đó?” Aomame hỏi.
“Đúng thế.”
“Tức là, trong mấy tiếng đồng hồ rơi vào trạng thái tê liệt đó, ông giao hợp với ba cô gái, phóng tinh ba lần.”
“Đúng thế.”
Aomame không thể không ý thức được nàng đang rơi vào một tình thế phức tạp như thế nào. Ngay bây giờ nàng sẽ giết chết người đàn ông này, tiễn ông ta sang thế giới kia, còn ông ta lại đang thổ lộ bí mật kỳ quái của cơ thể mình với nàng.
“Tôi không hiểu lắm tính chất cụ thể của căn bệnh ông mắc phải là gì. Mỗi tháng ông rơi vào trạng thái tê liệt toàn thân khoảng một hai lần. Trong khoảng thời gian ấy có ba cô bạn gái trẻ tuổi đến giao hợp với ông. Xét từ góc độ thông thường, đây quả là chuyện không bình thường. Nhưng…”
“Không phải bạn gái,” người đàn ông ngắt lời nàng, “Họ giống như là các nữ tư tế bên cạnh tôi vậy. Giao hợp với tôi là một trong những chức trách của họ.”
“Chức trách?”
“Chính là việc cố gắng mang thai người kế tục tôi. Đó là nhiệm vụ được quy định cho họ.”
“Ai quy định vậy?” Aomame hỏi.
“Chuyện kể ra thì dài lắm,” người đàn ông nói. “Vấn đề là, vì vậy mà cơ thể tôi đang dần tiến đến bờ vực diệt vong.”
“Vậy họ đã có thai chưa?”
“Chưa người nào có thai cả. Chỉ sợ điều ấy là không thể, vì họ chưa có kinh nguyệt. Nhưng họ vẫn đang mong chờ kỳ tích do ân huệ Trời cao mang đến ấy.”
“Vẫn chưa người nào mang thai, vì họ chưa có kinh nguyệt,” Aomame nói, “Thế mà cơ thể ông thì đang tiến dần đến bờ vực hủy diệt.”
“Thời gian tôi bị tê liệt mỗi lúc một dài hơn, số lần cũng không ngừng tăng lên. Trạng thái tê liệt bắt đầu xuất hiện từ cách đây hơn mười năm. Mới đầu thì hai ba tháng một lần, giờ thành ra mỗi tháng một hai lần. Sau mỗi cơn tê liệt, khắp người tôi đau đớn và mệt mỏi cùng cực. Gần như suốt một tuần sau đó tôi toàn sống trong đau đớn và mệt mỏi. Toàn thân tôi như thể bị những mũi kim to tướng đâm vào. Đầu đau như búa bổ, thân thế yếu ớt chẳng còn chút sức lực. Rồi lại còn mất ngủ nữa. Có uống thuốc gì cũng không giảm được đau.”
Người đàn ông thở dài, sau đó tiếp tục: “Tuần thứ hai so với tuần đầu tiên sau khi phát bệnh thì khá hơn nhiều, nhưng cảm giác đau đớn vẫn không biến mất hẳn. Một ngày lại nhói lên mấy lần, như cơn sóng ập đến vậy. Tôi không thể thở được, các cơ quan nội tạng cũng không chịu làm việc nữa. Cảm giác lúc ấy như thể một cỗ máy không được tra dầu, các khớp xương khắp người kêu răng rắc. Thịt trên người tôi bị cắn xé, máu bị hút ra khỏi cơ thể. Nhưng cái thứ đang không ngừng xâm chiếm tôi ấy không phải tế bào ung thư, cũng không phải loại ký sinh trùng nào cả. Tôi đã xét nghiệm rất kỹ, nhưng rốt cuộc người ta không tìm được nguyên nhân. Họ nói cơ thể tôi cực kỳ khỏe mạnh, y học không thể giải thích cái thứ đang giày xéo tôi ấy là gì. Cách giải thích duy nhất là: Đây chính là cái giá tôi phải trả cho ân huệ của Trời cao đó.”
Người này có lẽ thực sự đang ở bên rìa vực sụp đổ, Aomame thầm nghĩ. Nhưng nàng gần như không nhận ra vẻ gì tiều tụy ở ông ta. Cơ thể ông ta rắn chắc cường tráng, như thể đã được rèn luyện để chịu đựng đau đớn. Nhưng Aomame vẫn cảm nhận được, cơ thể ông ta đang dần tiến về phía diệt vong. Người này đang có bệnh, nhưng mình không biết đó là bệnh gì. Có điều, dẫu mình không ra tay lúc này, sợ rằng ông ta cũng sẽ bị cơn đau đớn dữ dội giày vò, thân thể bị hủy hoại từng chút một, rồi cũng khó tránh khỏi cái chết.
“Không thể ngăn sự tiến triển của nó,” người đàn ông hình như đọc được suy nghĩ của Aomame, nói. “Mọi bộ phận của tôi đang bị ăn mòn, thân thể bị gặm rỗng, đón nhận cái chết đau đớn tột cùng. Còn bọn chúng thì chỉ vứt đi cái công cụ giao thông không dùng được nữa mà thôi.”
“Bọn chúng?” Aomame hỏi, “Bọn chúng là ai?”
“Là cái thứ đang ăn dần mòn cơ thể tôi,” người đàn ông nói. “Nhưng thôi, không nhắc chuyện này nữa. Giờ tôi chỉ hy vọng có thể giảm bớt được phần nào cơn đau thực tế trước mắt, một chút thôi cũng được. Mặc dù đó chỉ là trị ngọn chứ không trị gốc, nhưng đối với tôi cũng là hết sức cần thiết. Cảm giác đau đớn này thật không thể chịu đựng nổi. Thường thường… thỉnh thoảng, cảm giác ấy ăn sâu một cách đáng sợ, như thể nó được nối thẳng với trung tâm quả đất vậy. Ngoài tôi ra, trên đời này không ai có thể cảm nhận được nỗi đau đớn ấy. Nó tước đoạt đi của tôi rất nhiều thứ, đồng thời, để bù đắp lại, cũng mang đến cho tôi nhiều thứ. Thứ mà cảm giác đau đớn tột cùng ấy mang đến cho tôi là ân huệ lớn tột cùng. Có điều, dĩ nhiên cơn đau không vì thế mà giảm đi phần nào. Sự hủy hoại cũng không vì thế mà bị chặn đứng.”
Sau đó là một khoảng lặng dài.
Rốt cuộc, Aomame cũng lên tiếng được: “Dù không muốn tôi vẫn phải lặp lại một lần nữa… tôi nghĩ, đối với vấn đề ông đang gặp phải, về mặt kỹ thuật tôi thực sự lực bất tòng tâm. Đặc biệt, nếu đó là thứ để trả giá cho ân huệ mà ông nhận được.”
Lãnh Tụ ngồi thẳng dậy, nhìn Aomame chằm chằm bằng đôi mắt nhỏ trũng sâu lạnh lẽo như dòng sông băng, sau đó hé mở cặp môi mỏng dài.
“Không, chắc chắn cô có thể làm được điều gì đó. Một điều duy chỉ cô mới làm được.”
“Tôi cũng mong như thế.”
“Tôi không sai, và tôi biết điều ấy,” người đàn ông nói, “Tôi biết rất nhiều chuyện. Nếu cô không còn vấn đề gì nữa thì chúng ta bắt đầu thôi… bắt đầu làm công việc xưa nay cô vẫn làm.”
“Để tôi thử xem,” Aomame trả lời. Giọng nàng cứng đờ và trống rỗng. Làm cái việc xưa nay tôi vẫn làm, Aomame thầm nhủ.
“Khác như thế nào?”
Cặp môi Fukaeri vểnh lên thành một góc độ kỳ quái, rồi lập tức trở về nguyên trạng. “Không giải thích được.”
“Không cần giải thích,” Tengo nói. Nếu không giải thích thì không hiểu, vậy thì có giải thích thế nào cũng không hiểu được.
Lúc ra đến cửa, Tengo nhắc Fukaeri: “Khi anh gọi điện cho em, anh sẽ đợi đổ chuông ba tiếng rồi dập máy. Sau đó anh sẽ gọi lại lần nữa, lần này thì em hãy bắt máy. Hiểu chưa?”
“Biết rồi,” Fukaeri đáp, đoạn lặp lại. “Đợi đổ chuông ba tiếng, rồi dập máy, sau đó gọi lại, lần này thì bắt máy.” Nghe như thể cô đang vừa đọc vừa dịch vừa đọc to thành tiếng hàng chữ khắc trên tấm bia đá cổ.
“Chuyện này rất quan trọng, đừng quên đấy,” Tengo nói.
Fukaeri gật đầu hai lần.
Dạy xong hai tiết, Tengo liền quay lại phòng giáo viên thu dọn đồ đạc chuẩn bị về nhà. Cô lễ tân bước tới báo với anh: có một người họ Ushikawa muốn gặp anh. Trông cô như thể một người báo tin đầy thiện tâm phải mang tin dữ đến, nói với giọng áy náy, Tengo nhoẻn cười cám ơn cô. Không có lý do gì để trách móc người báo tin cả.
Ushikawa ngồi trong quán ăn tự phục vụ cạnh sảnh trước, uống cà phê sữa đợi Tengo. Tengo không thể tưởng tượng ra có thứ đồ uống nào ít hợp với Ushikawa hơn là món cà phê sữa này. Giữa đám học sinh trẻ trung tràn trề sinh lực, bộ dạng bất bình thường của Ushikawa lại càng thu hút sự chú ý. Chỉ là khu vực quanh chỗ y ngồi dường như có trọng lực, mật độ không khí và độ chiết xạ ánh sáng khác với phần còn lại của gian phòng. Ngay cả khi nhìn từ xa, y cũng giống như một tin tức chẳng hề tốt lành. Đang là giờ nghỉ, quán ăn đông nghịt, nhưng Ushikawa một mình chiếm cả cái bàn đủ chỗ cho sáu người song chẳng ai chịu qua ngồi ghép với y. Bằng bản năng tự nhiên, các học sinh thảy đều tránh Ushikawa, giống như lũ linh dương tránh bọn chó hoang.
Tengo mua cà phê ở quầy bar, đem đến ngồi xuống đối diện với Ushikawa. Hình như Ushikawa vừa ăn hết cái bánh mì kem. Giấy gói vo viên bỏ trên mặt bàn, khóe miệng vẫn còn dính vụn bánh mì. Bánh mì kem cũng là món ăn hoàn toàn không hợp với y chút nào.
“Lâu rồi không gặp, anh Kawana,” thấy Tengo, Ushikawa hơi nhấc mông lên chào hỏi. “Thật là ngại quá, lần nào cũng cứ không mời mà đến.”
Tengo không chào hỏi gì, đi thẳng vào chủ đề chính luôn: “Chắc ông đến vì câu trả lời của tôi? Câu trả lời cho đề nghị lần trước.”
“Vâng, là chuyện ấy đấy,” Ushikawa trả lời. “Nói đơn giản là thế.”
“Ông Ushikawa này, hôm nay có thể phiền ông nói cụ thể hơn một chút, thẳng thắn hơn một chút không? Rốt cuộc các ông muốn tôi làm gì? Để đáp lại khoảng tiền tài trợ ấy?”
Ushikawa cẩn thận đưa mắt nhìn quanh, nhưng gần chỗ họ không có lấy một bóng người. Trong quán, tiếng đám học sinh quá ồn ào đến nỗi chẳng cần lo cuộc nói chuyện của hai người bị ai nghe trộm.”
“Được rồi. Vậy tôi sẽ cho anh một món hời, nói thật mọi sự,” Ushikawa nhổm người qua mặt bàn, hạ thấp giọng xuống nói. “Tiền chẳng qua chỉ là cái cớ thôi. Với lại cũng chẳng phải món gì lớn lắm. Thứ quan trọng nhất khách hàng của tôi có thể cho anh là sự an toàn. Nói trắng ra, tức là anh sẽ không bị tổn hại. Chúng tôi bảo đảm.”
“Đổi lại thì sao?” Tengo hỏi.
“Đổi lại, tất cả những gì họ yêu cầu anh làm là im lặng và quên đi. Anh đã tham dự vào vụ việc này, nhưng anh không hiểu được ý đồ và nội tình bên trong. Anh chỉ là một tên lính quèn làm theo lệnh. Về chuyện này, họ không định trách móc gì anh. Vì vậy, anh chỉ cần quên hết mọi chuyện từng xảy ra là được. Coi như chưa từng xảy ra. Việc anh chấp bút Nhộng không khí sẽ không bị lọt ra ngoài xã hội. Anh và cuốn sách ấy trước đây không có quan hệ gì, sau này cũng không. Họ mong anh làm vậy. Việc này đối với anh chắc chỉ có lợi mà không có hại.”
“Tôi sẽ không bị tổn hại, có nghĩa là,” Tengo nói, “Trừ tôi ra, những người có liên can khác sẽ bị tổn hại?”
“Chuyện này thì, ừm, e là phải xét trường hợp cụ thể, ‘case by case’, như người Anh nói.” Ushikawa phát âm mấy chữ tiếng Anh rõ là rất khó khăn. “Tôi không phải là người có quyền quyết định nên không thể trả lời anh cụ thể. Song tôi nghĩ ít nhiều thì cũng cần tiến hành vài bước nào đó chứ, phải không?”
“Vả lại các vị còn có cánh tay vừa dài vừa mạnh.”
“Đúng thế, lần trước tôi nói với anh rồi, cánh tay rất dài, rất mạnh. Vậy, anh có thể cho tôi câu trả lời thế nào đây?”
“Câu trả lời của tôi là, tôi không thể nhận tiền của các vị được.”
Ushikawa không nói tiếng nào, đưa tay gỡ lấy kính, lấy khăn mùi soa trong túi ra cẩn thận lau sạch tròng kính, sau đó lại đeo lên, như muốn nói rằng những gì tai y nghe thấy dường như có mối liên hệ gì đó đến thị lực.
“Có nghĩa là, đề nghị của chúng tôi, ừm, bị cự tuyệt rồi, phải không?”
“Đúng thế.”
Qua mắt kính, Ushikawa nhìn Tengo với ánh mắt như đang nhìn một áng mây hình dạng kỳ quặc. “Vì sao vậy? Theo thiên kiến của tôi, đây là một cuộc mua bán không hề tệ chút nào.”
“Nói gì thì nói, chúng tôi coi như đã lên cùng một con thuyền, tôi không thể chỉ lo chạy tháo thân một mình được,” Tengo nói.
“Quái lạ thật,” Ushikawa dường như cảm thấy rất khó tin, nói, “Tôi chẳng thể hiểu nổi. Chắc tôi nói thế này là không nên, nhưng mấy người kia họ chẳng quan tâm gì tới anh đâu. Thật đấy. Họ chẳng qua chỉ quẳng cho anh ít tiền còm rồi lợi dụng anh thôi. Thế mà anh còn phải chịu đủ thứ liên lụy. Thế có khác gì coi người ta là thằng ngu đâu! Cho dù anh có nổi giận đùng đùng cũng là chuyện hết sức bình thường. Nếu là tôi thì chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình. Thế nhưng anh lại vẫn bảo vệ cho họ. ‘Tôi không thể chỉ lo chạy tháo thân một mình được’, lại còn nói thế đấy! Thuyền với chẳng thiếc. Tôi chẳng hiểu nổi. Anh bị làm sao vậy?”
“Một trong các lý do là một người đàn bà tên Yasuda Kyoko.”
Ushikawa cầm cốc cà phê sữa đã nguội ngắt lên, nhấp một ngụm như thể rất khó uống, đoạn hỏi: “Yasuda Kyoko?”
“Các vị biết chuyện của Yasuda Kyoko,” Tengo nói.
Ushikawa dường như chưa hiểu câu nói của Tengo, hồi lâu vẫn chỉ mở miệng. “Ôi chà, nói thật với anh, tôi không biết người đàn bà nào tên như thế cả. Tôi thề, tôi thật sự không biết, là ai thế?”
Tengo không nói không rằng, nhìn chằm chằm vào mặt Ushikawa một lúc lâu, nhưng không đọc ra được bất cứ điều gì.
“Là một người đàn bà tôi quen.”
“Người đàn bà này có mối thâm giao với anh?”
Tengo không trả lời. “Tôi muốn biết, rốt cuộc các vị đã làm gì cô ấy?”
“Làm gì? Làm sao có chuyện đó được? Chẳng làm gì cả,” Ushikawa nói. “Tôi nói thật đấy, anh xem, tôi vừa mới bảo anh tôi không biết người đàn bà đó là ai cơ mà. Anh liệu có thể làm gì một người anh không hề biết cơ chứ!”
“Nhưng ông đã nói, các vị đã thuê một ‘điều tra viên’ giỏi giang để điều tra tôi triệt để. Các vị thậm chí còn khám phá được việc tôi viết lại tác phẩm của Fukaeri. Về đời tư của tôi anh ta cũng biết lắm chuyện. Vì thế, tay điều tra viên ấy biết quan hệ giữa tôi và Yasuda Kyoko chẳng lẽ không phải là chuyện dĩ nhiên sao?”
“Đúng thế, chúng tôi đã thuê một điều tra viên rất giỏi, người đó đã tiến hành điều tra anh rất tỉ mỉ. Không chừng, như anh đã nói, anh ta biết được quan hệ giữa anh và cô Yasuda kia. Nhưng dù có thông tin như vậy thì nó cũng không được đưa đến chỗ tôi đâu.”
“Tôi có qua lại với người đàn bà tên là Yasuda Kyoko đấy,” Tengo nói, “Mỗi tuần gặp cô ấy một lần. Lén lút, bí mật. Vì cô ấy đã có gia đình. Nhưng, đột nhiên một ngày kia cô ấy không nói năng gì mà biến mất.”
Ushikawa dùng cái khăn mùi soa vừa lau kính khẽ quệt mồ hôi trên chóp mũi. “Vì vậy anh cho rằng sự mất tích của người đàn bà có chồng này có liên quan đến chúng tôi, theo cách này hay cách khác, phải không?”
“Có thể các vị đã cho chồng cô ấy biết chuyện chúng tôi hẹn hò.”
Ushikawa luống cuống vềnh môi lên. “Nhưng mà tại sao chúng tôi phải làm chuyện ấy cơ chứ?”
Tengo nắm chặt hai bàn tay đặt trên đầu gối. “Những lời ông nói qua điện thoại lần trước khiến tôi cứ băn khoăn nghĩ mãi.”
“Rốt cuộc tôi đã nói gì vậy?”
“Qua một độ tuổi nhất định, cuộc đời con người chẳng là gì ngoài một quá trình không ngừng mất mát. Những thứ rất quý giá với cuộc đời anh sẽ lần lượt tuột khỏi tay anh, như những chiếc răng lược gãy dần. Người anh yêu thương, hết người này đến người kia, dần dần biến mất không còn ở bên cạnh anh. Đại khái là vậy. Ông vẫn nhớ chứ?”
“Ừm, tôi nhớ. Đúng vậy, lần trước tôi đã nói những lời này. Nhưng anh Kawana à, tôi nói thế chẳng qua chỉ là nói chung chung thôi. Tôi muốn thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình về nỗi buồn và sự cô đơn của tuổi già, hoàn toàn không phải nhắm đến chị Yasuda nào đó.”
“Nhưng tôi thì lại nghe như đó là lời cảnh cáo dành cho tôi vậy.”
Ushikawa lắc đầu lia lịa. “Làm gì có. Cảnh cáo gì chứ, chỉ là một chút quan điểm nông cạn của riêng tôi thôi. Về việc của Yasuda, tôi xin thề, tôi thực sự không biết gì cả. Cô ấy đã mất tích rồi à?”
Tengo tiếp tục nói: “Ông còn nói thế này. Nếu tôi không nghe theo các vị thì có thể sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho những người xung quanh.”
“Ừm, đúng là tôi có nói như vậy.”
“Đây cũng không phải là cảnh cáo ư?”
Ushikawa cất khăn mùi soa vào túi áo, thở dài một tiếng. “Đúng thế, thoạt nghe có lẽ giống như đang cảnh cáo, nhưng đó cũng chỉ là nói chung chung thôi. Tôi bảo anh Kawana này, tôi hoàn toàn không biết gì về cô Yasuda cả. Thậm chí cả tên cô ấy cũng chưa từng nghe đến bao giờ. Tôi xin thề có đất có trời.”
Tengo quan sát gương mặt Ushikawa một lần nữa. Gã này có lẽ đúng là không biết gì về Yasuda Kyoko. Vẻ bối rối trên mặt gã đúng là có vẻ rất thật. Thế nhưng, anh ta không biết gì không nhất thiết có nghĩa là bọn họ chưa từng làm gì cô ấy. Biết đâu chỉ là gã này không được biết mà thôi.
“Anh Kawana, có lẽ tôi hơi lắm lời… nhưng có quan hệ tình ái với người đàn bà đã có chồng là chuyện nguy hiểm đấy. Anh là đàn ông độc thân, trẻ khỏe. Anh không phải mạo hiểm làm gì, các cô trẻ tuổi độc thân ngoài kia nhiều lắm cơ mà,” Ushikawa nói, khéo léo dùng đầu lưỡi liếm vụn bánh mì dính ở khóe miệng.
Tengo lặng thinh nhìn Ushikawa.
Ushikawa lại nói: “Đương nhiên, chuyện tình cảm nam nữ thì chẳng thể nào đem lý tính ra mà nói được. Chế độ một vợ một chồng hàm chứa rất nhiều mâu thuẫn. Tôi nói vậy chỉ là có ý tốt thôi… giả dụ người đàn bà kia đã bỏ anh đi, thôi thì anh cứ để cô ấy đi cũng tốt. Điều tôi muốn nói với anh là, trên đời có những chuyện mình không biết thì hơn. Chẳng hạn, chuyện mẹ anh cũng vậy. Biết được sự thực có khi còn làm anh tổn thương. Vả lại, một khi biết được sự thực, anh sẽ phải chịu trách nhiệm với nó.”
Tengo chau mày, nín thở trong khoảnh khắc. “Anh biết gì về mẹ tôi?”
Ushikawa khẽ liếm môi. “Ừm, tôi biết sơ sơ. Về chuyện này, điều tra viên đã điều tra hết sức kỹ lưỡng. Nếu anh muốn biết, chúng tôi có thể trao toàn bộ thông tin về mẹ anh cho anh. Theo tôi biết, hình như anh lớn lên mà hoàn toàn không hề biết gì về mẹ mình thì phải. Chỉ có điều trong đó không chừng có cả một số thông tin không vui vẻ gì đâu.”
“Ông Ushikawa,” Tengo nói, đẩy ghế ra sau, đứng lên. “Phiền ông về cho. Tôi không muốn nói chuyện với ông nữa. Từ nay về sau, mong ông đừng xuất hiện trước mặt tôi nữa. Dù tôi có bị tổn thương thế nào thì cũng tốt hơn là giao dịch với các vị. Tôi không cần tiền tài trợ của các vị, cũng không cần các vị bảo đảm an toàn. Tôi chỉ có một mong muốn, ấy là không bao giờ phải gặp lại ông nữa.”
Ushikawa hoàn toàn không phản ứng. Chắc y từng bị người khác nói vào mặt nhiều lời còn ghê gớm hơn thế. Sâu trong mắt y còn thấp thoáng sắc thái như thể đang mỉm cười.
“Tốt thôi,” Ushikawa nói. “Tóm lại, nghe được câu trả lời của anh là tốt rồi. Câu trả lời là không. Đề nghị bị cự tuyệt. Rõ ràng và dễ hiểu. Tôi sẽ báo lại với cấp trên đúng như thế, vì tôi chỉ là tên chạy vặt không đáng nhắc đến mà thôi. Huống hồ, đã chắc gì do câu trả lời là không mà anh sẽ gặp hại ngay tức khắc. Chẳng qua là không chừng anh sẽ gặp hại, tôi chỉ nói vậy thôi. Cũng có thể sẽ bình yên vô sự. Được vậy thì tốt quá. Không không, tôi không nói dối đâu, thực tâm tôi nghĩ vậy đấy. Vì tôi rất có thiện cảm với anh. Có điều, chắc anh không muốn tôi ôm mối thiện cảm này với anh một tí nào đúng không. Đành vậy, chẳng có cách nào cả. Một kẻ dớ dẩn chẳng biết từ đâu đến nói toàn những lời dớ dẩn đâu đâu, đến cả cái mã ngoài cũng chẳng ra thể thống gì. Tôi xưa nay vốn không phải loại được ai ưa. Nhưng đối với anh… có lẽ anh sẽ cảm thấy khó chịu… nhưng tôi rất có thiện cảm. Tôi rất mong anh có thể bình an và sớm thành công.”
Ushikawa vừa nói vừa chăm chú nhìn mười ngón tay mình. Những ngón tay vừa thô vừa ngắn. Y lật đi lật lại hai bàn tay, sau đó đứng dậy.
“Thôi, tôi xin phép cáo từ. À phải, có lẽ đây là lần cuối cùng tôi xuất hiện trước mặt anh. Ừm, tôi sẽ cố gắng làm như ý nguyện của anh. Chúc anh may mắn. Tạm biệt.”
Ushikawa cầm chiếc áo da cũ kỹ y để trên cái ghế bên cạnh lên, biến mất giữa đám đông trong quán ăn. Lúc y đi qua, đám học sinh nam nữ thảy đều tự nhiên tránh sang hai bên, mở lối cho y, như là trẻ con trong làng cố tránh ông ba bị đáng sợ vậy.
Tengo gọi từ điện thoại công cộng ở đại sảnh trường dự bị về nhà. Anh định để đổ chuông ba tiếng rồi gác máy, nhưng khi hồi chuông thứ hai vang lên, Fukaeri đã bắt máy.
“Không phải đã nói rồi sao, đổ chuông ba tiếng, sau đó gọi lại?” Tengo uể oải nói.
“Em quên,” Fukaeri hờ hững trả lời.
“Em đã nói sẽ nhớ kỹ không quên mà.”
“Em làm lại nhé,” Fukaeri hỏi.
“Không, không cần. Đằng nào em cũng bắt máy rồi. Lúc anh không có nhà, có chuyện gì đặc biệt không?”
“Không có điện thoại, cũng không có ai đến.”
“Vậy thì tốt. Anh hết giờ làm rồi, giờ về nhà đây.”
“Lúc nãy có một con quạ to lắm bay đến, kêu ngoài cửa sổ,” Fukaeri nói.
“Con quạ ấy ngày nào cũng chập tối là đến. Kệ nó. Như kiểu chào hỏi xã giao thôi. Chắc khoảng gần bảy giờ là anh về đến nhà.”
“Tốt nhất là nhanh nhanh một chút.”
“Tại sao?” Tengo hỏi.
“Người Tí Hon đang làm náo loạn.”
“Người Tí Hon đang làm náo loạn.” Tengo lặp lại câu nói của Fukaeri. “Em nói họ đang làm náo loạn ở nhà anh à?”
“Không phải. Ở nơi khác.”
“Ở nơi khác?”
“Một nơi rất xa.”
“Nhưng em nghe thấy.”
“Em nghe thấy.”
“Thế nghĩa là sao?” Tengo hỏi.
“Sắp có bien co xảy ra.”
“Bien co?” Tengo nói. Anh nghĩ một lúc mới hiểu đó là hai chữ “biến cố”. “Sắp có biến cố gì vậy?”
“Em cũng không biết.”
“Là biến cố do người Tí Hon gây ra à?”
Fukaeri lắc đầu. anh có thể cảm nhận được qua điện thoại. Ý là cô không biết.
“Tốt nhất là trở về trước khi có sấm.”
“Có sấm?”
“Nếu tàu điện ngừng chạy, chúng ta sẽ bị tách ra.”
Tengo ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Bầu trời hoàng hôn cuối mùa hạ yên bình tĩnh lặng, không thấy một gợn mây. “Không giống như sắp có sấm.”
“Nhìn bề ngoài không thể biết được.”
“Anh sẽ về nhanh,” Tengo nói.
“Tốt nhất là nhanh lên,” Fukaeri nói. Rồi lập tức gác máy.
Tengo ra khỏi cổng chính của trường, ngước mắt nhìn lên bầu trời chiều muộn quang đãng, sau đó vội vã rảo bước chân đi tới ga Yoyogi. Những lời Ushikawa nói lúc nãy không ngừng lặp đi lặp lại trong óc anh, như cuộn băng cát xét được đặt ở chế độ tự động phát lại.
Điều tôi muốn nói với anh là, trên đời có những chuyện mình không biết thì hơn. Chẳng hạn, chuyện mẹ anh cũng vậy. Biết được sự thực có khi còn làm anh tổn thương. Vả lại, một khi biết được sự thực, anh sẽ phải chịu trách nhiệm với nó.
Và Người Tí Hon đang náo loạn lên ở nơi nào đó. Dường như bọn họ có liên quan đến một biến cố đã được định sẵn là sẽ xảy ra. Lúc này bầu trời quang đãng sáng sủa, nhưng sự vật không thể chỉ nhìn bề ngoài mà biết được. Biết đâu sẽ có sấm nổ ầm ầm, mưa to như trút, tàu điện ngừng hoạt động. Cần phải mau chóng về nhà. Giọng Fukaeri toát lên một sức thuyết phục đến kỳ lạ.
“Chúng ta phải đồng lòng hợp sức,” cô nói.
Những cánh tay dài đang vươn ra từ một nơi nào đó. Chúng ta cần phải đồng lòng hợp sức. vì chúng ta là cặp song ca nam nữ mạnh nhất thế giới.
The Beat Goes On.