CHƯƠNG 1
TIẾNG NƯỚC XỐI ÀO ÀO dội vào tai Amy Cahill. Nếu nhắm mắt lại, con bé có thể hình dung mình đang đứng dưới một con thác tuyệt đẹp của vùng nhiệt đới. Nhưng thật không may, nó lại đang trốn trong một nhà vệ sinh của sân bay.
Bên trong căn buồng nhỏ tin hin, nó gập chân lại và giữ cái ba lô thăng bằng trên hai đầu gối. Tiếng dội nước toa-let, tiếng vòi nước chảy và tiếng những va-li có bánh xe được kéo lê theo những bước chân vội vàng. Sân bay Sydney của nước Úc là một nơi bận rộn.
Bận rộn là điều tốt. Sự bận rộn là chỗ để ẩn nấp. Nếu bạn muốn “cắt đuôi” kẻ theo dõi mình, thì nhà vệ sinh có thể cho bạn một cơ hội hoàn hảo, nếu bạn không ngại chuyện ngồi thu lu trong toa-let đến 15 phút.
Cắt đuôi. Mới vài tuần trước, cái từ đó chỉ có nghĩa là không để cho thằng em trai, Dan, đọc trộm nhật ký của nó. Còn bây giờ đó thực sự là cuộc sống thật. Quá thật với một đứa bé 14 tuổi.
Amy len lén nhìn ra ngoài căn phòng nhỏ. Một đám khách du lịch choai choai vừa vào nhà vệ sinh một lúc trước và đang tán dóc bằng tiếng Pháp trong khi rửa tay và làm điệu làm bộ trước tấm gương. “Allons-y”[1], tay hướng dẫn viên gào lên. Vừa nói chuyện và cười đùa, cả đám bọn họ vừa bắt đầu kéo va-li đi về phía cửa ra.
[1] “Đi thôi” - tiếng Pháp trong nguyên bản.
Đó là một cơ hội hoàn hảo. Amy chuồn ngay ra khỏi toa-let. Vừa mỉm cười với một cô bé người Pháp dễ thương, nó vừa lẩn vào trong nhóm. Đám phụ nữ đổ xô ra vào tất bật ở chỗ những cái cửa và đám khách du lịch bị rối tung lên bởi một bà người Úc dẫn theo bốn đứa con gái. Amy nhẹ nhàng lẻn vào giữa đám đông khi họ đi ra khỏi cửa.
Con bé để cho đám khách du lịch chắn giữa nó và cánh cổng đối diện. Ngay khi họ kéo đi hết về khu lấy hành lý, nó lủi ngay vào một quầy cà-phê. Nó đưa mắt rà khắp hành lang, tìm xem có người quen nào... hoặc người lạ mặt đáng ngờ này.
Mọi thứ trông đều bình thường. Vấn đề duy nhất nằm ở chỗ bình thường chưa chắc đã là tốt. Bởi vì một sự bình thường mới mẻ đồng nghĩa với việc bất cứ ai cũng có thể là mối đe dọa.
Mối đe dọa có phải là gia đình người Nhật mang những đôi giày “hàng độc” kia không? Hay là đám choai choai người Mỹ đeo ba lô, mặc áo thun đồng phục thi đấu có chữ “NGỬI RA MÀY RỒI NHÉ”? Còn người phụ nữ đứng tuổi đang tóp tép nhai bánh xốp, bà mẹ có cái xe nôi, người đàn ông đang dừng lại để gọi điện thoại di động kia thì sao?
Bất cứ ai trong số họ cũng có thể theo dõi nó và Dan, em trai nó. Bất kỳ ai trong số họ cũng có thể là người nhàCahill. Amy chưa bao giờ tưởng tượng được là có lúc cái họ của nó sẽ khiến nó thấy lạnh xương sống.
Kể từ khi di chúc của bà nó được công bố, nó đã bị săn đuổi hết từ lục địa này tới lục địa khác bởi chính... họ hàng của mình. Bà Grace Cahill của nó đã đặt ra một thách thức cho tất cả các chi họ của dòng họ Cahill - hoặc tham gia cuộc đua tìm 39 manh mối để trở thành người quyền lực nhất thế giới, hoặc ra đi với một triệu đôla. Amy và Dan đã chọn cuộc săn tìm. Không phải một triệu đô không hấp dẫn. Nhưng tụi nó biết bà muốn tụi nó chiến thắng.
Lúc đó hai đứa không hề biết là tụi nó sẽ dính vào chuyện gì.
Đôi khi Amy tự hỏi điều gì đáng sợ nhất trong chuyện săn tìm những manh mối. Có lẽ không phải là chuyện bị chôn sống, hoặc chuyện suýt bị một đoàn tàu lửa nghiền nát, hoặc bị nhốt trong lăng mộ của xác ướp. Thực tế, tất cả những chuyện đó đều đã xảy ra với nó... và nó vẫn sống sót. Có lẽ, đáng sợ nhất là điều này - trở nên nghi ngờ tất cả mọi người trên trái đất này. Amy và Dan đã phải trả giá đắt để học được rằng bất kỳ ai trong số họ cũng có thể là một kẻ chỉ điểm.
Không lẽ cả phần đời còn lại của nó cứ như thế này sao? Cứ phải ngoái lại sau lưng suốt hay sao? Giờ thì đừng có mà chửi em, Dan sẽ nói thế. Tuy thằng em nhỏ hơn đến 3 tuổi, nhưng Amy cần đến em trai như một chỗ giúp nó bấu víu vào đời thực. Amy rảo bước lên.
Cả đám đã dự kiến sẽ gặp nhau ởrạm trung chuyển của sân bay. Ngay khi chuyến bay từ Moscow đến đây hạ cánh, Amy, Dan và Nellie Gomez, au pair[2] của tụi nó, đã tách nhau ra. Thay vì hối hả đón taxi, tụi nó sẽ lang thang ở sân bay một chút, để cho kẻ nào đang theo dõi chúng bị “leo cây” chơi.
[2] Xem chú thích ở cuốn 1 - “Mê cung xương”.
Tụi nó đến Sydney theo một linh cảm. Khi ở Nga, hai chị em nó đã phát hiện ra cha mẹ chúng đã từng đi du lịch bằng hộ chiếu giả của Úc. Trong khi đi xuống theo hành lang đông đúc, Amy nghĩ về bức ảnh chụp cha mẹ mà Lucian Nataliya đã gửi cho chị em nó. Nó và Dan đã thay nhau giữ tấm ảnh, vì cả hai đứa đều muốn được nhìn ngắm nó. Kể từ khi cha mẹ tụi nó qua đời trong vụ cháy nhà, tất cả ảnh của họ cũng đã bị hủy hoại hết. Tất cả trừ một tấm, thế mà Dan lại làm mất nó hồi ở Paris.
Kể từ lúc thấy tấm ảnh đó, từng mảnh ký ức nhỏ cứ lần lượt ùa về với Amy. Nó bất chợt nhớ về những thứ ngốc nghếch, kiểu như họ đã cùng “ăn điểm tâm vào buổi tối” trong những tối thứ năm như thế nào, hay chuyện mẹ nó luôn mang theo bút dạ quang đủ màu trong ví để họ có thể vẽ lên miếng lót ly khi cả nhà đi ăn ở đâu đó. Hay chuyện có lần họ đã lấy nhôm làm thành đồ trang sức và... đội những cái vương miện đó đi vào hiệu tạp hóa như thế nào. Nó gần như quên mất mẹ nó là người ngớ ngẩn ra sao.
Tám năm trước, cha mẹ nó cũng đã từng đến sân bay này. Họ cũng đã đi dọc những hành lang này. Mẹ ơi, cha ơi... cha mẹ giờ đang ở đâu?
Có thể nó và Dan đã đi chệch hướng. Có thể chuyến hành trình này sẽ không dẫn đến một manh mối nào. Đâu có bằng chứng nào cho thấy là tụi nó sẽ tìm được. Nhưng trong khoảnh khắc nhìn thấy những tấm hộ chiếu đó, cả hai đứa đều biết đâu là nơi chúng sẽ tới tiếp theo. Thậm chí lúc đó tụi nó không cần phải nói với nhau một lời nào.
Mối liên lạc duy nhất của tụi nó ở Úc là người em họ của cha nó, Shepard Trent. Ông này lớn lên cùng cha của chúng, nên hai đứa luôn gọi ông là “chú”. Tụi nó biết ông sống ở Sydney. Thế nào cha mẹ tụi nó cũng qua thăm ông ấy khi họ đi du lịch tới đây. Chú Shep sẽ là điểm dừng chân tiếp theo của chúng.
Rắc rối duy nhất là tụi nó vẫn chưa liên lạc được với chú ấy. Điện thoại của ông đã bị cắt. Nellie đã xoay xở tìm ra được một địa chỉ từ trên Internet, nhưng chúng không có cách nào biết là địa chỉ này có thật hay không.
Amy đi tới điểm hẹn. Cả bọn đã thống nhất với nhau là dùng phương tiện công cộng sẽ tốt hơn taxi. Nếu muốn trà trộn, tụi nó nên lẩn vào những đám khách du lịch.
“Nè anh bạn, nướng một con chuột túi lên ăn chơi đi!”
Amy nhăn mặt khi cái giọng Úc “bồi” đập vào tai. Rồi nó sém té ngửa khi thấy Dan đội một chiếc mũ rộng vành kiểu Úc và diện một cái áo khoác kiểu dùng để đi trong vùng bán hoang mạc. Thằng nhóc còn quấn quanh cổ một con rắn giả làm bằng cao su.
“Em gọi thế này là trà trộn đó hả,” nó rít lên, giật cái mũ ra khỏi đầu thằng nhóc và nhét vào túi hông của cái ba lô đang đeo.
“Chớ em biết làm gì trong cửa hàng của sân bay đây?” Dan hỏi lại. “Em phải mua cái gì đó chớ. Chị có biết Úc là nơi có nhiều sinh vật chết người nhất trên thế giới không? Nhìn con rắn này nè - nó được gọi là tai-pan. Nọc độc của nó có thể giết, coi nào, khoảng hai ngàn con cừu. Hay là hai trăm con gì đó. Dù sao đi nữa, nếu chị bị những em bé này cắn một phát thì chị phải, coi nào, được máy bay chở tới bệnh viện chích thuốc giải độc gấp, còn không là chị sẽ chết một cách khủng khiếp ngay tại chỗ.” Để minh họa, Dan siết chặt lấy con rắn và bắt đầu phát ra những tiếng khò khè như bị bóp cổ, mắt nó trợn trừng và nín thở. “Aaaaaaa,” thằng nhóc la chói lói.
“Hai đứa đây rồi, đúng giờ ngay chóc. Đúng là một phép lạ đấy.” Nellie rảo bước tiến lại. Cô nàng hoàn toàn không để ý tới đôi mắt lồi ra, khuôn mặt đỏ gay và âm thanh như bị nghẹt thở của Dan. “Chị thích chỗ này rồi đó, mấy đứa thấy sao? Chị vừa ăn cái bánh lamington ngon nhất trần đời,” cô nàng vừa nói vừa liếm chỗ chocolate dính trên mấy ngón tay. “Ngày nào cũng được xực bánh rán.”
Đêm cuối cùng ở Moscow, Nellie đã tự tỉa mái tóc của mình bằng kéo cắt móng tay. Bây giờ những món tóc đen nhánh có móc lai màu bạch kim của cô nàng chĩa ra lua tua trên đầu như những dấu chấm cảm. Nellie lùa mấy ngón tay vào đó, làm cho mái tóc dựng đứng hết cả lên
Dan ngã lăn ra sàn, một chân co lại giật giật. “Chị đã mua vài tấm bưu thiếp,” Nellie vừa nói tiếp vừa bước ngang qua Dan để khoe với Amy. “Nước Úc đẹp thật. Chị tự hỏi không biết tụi mình có thời gian ra biển chơi không nữa.”
Dan lại giật nảy lên. “Bạch tuộc đốm xanh!” nó gào to. “Chết tươi ngay lập tức!”
“Ở đây có một chuyến xe buýt đưa chúng ta vào trung tâm Sydney,” Nellie vừa nói vừa mở ra một tấm bản đồ. “Tới đó, chúng ta có thể chuyển qua một xe buýt khác để tới chỗ chú của mấy đứa. Chị nghĩ đó là cách tốt nhất. Chị đã vẽ ra tuyến đường rồi.”
“Tuyệt,” Amy nói.
“Ngay cả một con thú mỏ vịt cũng có thể giết chị nếu chị không cẩn thận,” Dan đế thêm. “Cái chỗ này hay dã man.”
Cả bọn bước ra ngoài trời trong ánh nắng rực rỡ của nước Úc và xếp hàng lên xe buýt. Sau những đám mây xám xịt của nước Nga, cả bọn được chiêu đãi bằng những cơn gió mơn man và bầu trời xanh biếc.
Nellie giơ chiếc lồng nhốt Saladin lên ngang mặt mình và kêu grừ grừ với con mèo. “Chúc một ngày tốt lành, anh bạn,” cô nàng nói bằng giọng Úc, “chút nữa thôi, mày sẽ được ăn cá hồng, tao hứa đấy.”
Để đáp lại, con Saladin kêu “Meo” rõ to khi chiếc xe buýt dừng lại trong tiếng phanh xe rít lên rền rĩ. Tiếng mèo kêu làm một bà già ngồi phía trước tụi nó giật mình. Bà ta quay người lại. “Cái gì thế, cháu thân mến? Có phải là một loài chim kỳ quái nào đó của nước Úc không?” Bà giương đôi mắt cận thị nhìn lom lom vào chiếc lồng đựng con mèo trong lúc lục tìm khăn giấy trong ví cầm tay.
“Chỉ là con mèo thôi ạ,” Amy nói với vẻ biết lỗi. “Cháu đoán là nó đói.”
“Ồooo, bà yêu mèo lắm.” Bà ta kéo cái va-li màu đỏ có bánh xe trong khi hàng khách du lịch chậm chạp tiến lên phía
Amy nói nhỏ với Dan, “Chị hy vọng là chú Shep vẫn còn ở địa chỉ này. Không thì mình chả biết làm sao để tìm chú ấy.”
“Tụi mình chỉ cần lang thang ở mấy cái tiệm bán dụng cụ lướt sóng,” Dan nói. “Ở đó thế nào mình cũng sẽ tìm được chú ấy thôi.”
Shep là một tay lướt sóng lãng tử. Khi còn nhỏ, hai đứa đã từng gặp ông, nhưng Amy chỉ có một ký ức mờ nhạt về ông, còn Dan thì không nhớ chút xíu nào luôn. Ông không đến dự đám tang cha mẹ nó 7 năm trước. Nhưng hồi còn ở Boston, một trong những bộ sưu tập của Dan là những tấm bưu thiếp Shep đã gửi cho tụi nó trong nhiều năm, từ những nơi như Bali hoặc Oahu. Mặt trước những tấm bưu thiếp luôn có hình một con sóng lớn.
Cả bọn leo lên xe buýt và xếp gọn ba lô xuống dưới ghế ngồi. Bà già có cái va-li đỏ ngồi sau tụi nó và mở bản đồ ra khi xe buýt chuyển bánh. Tấm bản đồ đập vào phía sau đầu của Amy. “Ôi, xin lỗi cháu yêu,” bà già nói. “Bà vừa đập cả dãy núi Xanh vào cháu rồi.”
“Không sao đâu,” Amy đáp. “Bà đừng bận tâm.”
“Đúng là người Mỹ! Bà biết mà! Rất thân thiện. Bà đã đi du lịch tới thành phố Kansas một lần rồi. Thịt nướng ở đó thật ngon. Cháu có phải người ở Kansas không? Không à? Thật là đáng tiếc.” Bà già bắt đầu lẩm bẩm một mình trong khi xem xét tấm bản đồ. Cứ chốc chốc tấm bản đồ lại đập vào đầu Amy, nhưng nó không để ý tới nữa.
Khi xe buýt vào tới trung tâm thành phố, dòng xe cộ ùn ùn xung quanh, còn họ chầm chậm lướt qua hết khu nhà này đến khu nhà khác. Sự khác biệt thật đáng kinh ngạc so với Moscow. Ngoài đường mọi người bước đi bằng những bước chân dài khỏe khoắn như của các vận động viên, mặc những bộ quần áo mùa hè rực rỡ, tán gẫu và cười đùa với bạn bè. Mọi người ở Sydney đều có vẻ khỏe mạnh và hạnh phúc.
“Người ta gọi đây là xứ Oz[3] cũng đúng,” Dan nói. “Cứ như trong chuyện tưởng tượng ấy.”
[3] “Xứ Oz” - xứ sở thần tiên trong bộ phim Mỹ “The wizard of Oz” (Phù thủy xứ Oz) của đạo diễn Victor Fleming, công chiếu năm 1993.
Nellie dán mắt vào những điểm dừng khác nhau trên tấm bản đồ. Amy nhìn chăm chăm vào các ký hiệu.
“Chú Shep sống gần Darlinghurst đúng không?” Amy hỏi.
“Này bà chị, đừng có mà gọi em là “darling,”[4] Dan nói. “Đừng bao giờ. Đó là luật đấy.”
[4] “Darling” là cách gọi trìu mến một người thân yêu.
“Darlinghurst là một khu ở Sydney, thằng ngốc à,” Amy đáp.
“Thằng ngốc, cho phép. Darling, không cho phép.”
Bà già dễ mến ngồi sau tụi nó đứng dậy khi xe lăn bánh vào trạm dừng. Vừa kéo va-li, mở bản đồ, bà vừa vẫy chào tụi nó “Tạm biệt các cháu! Đi chơi vui nhé!”
“Chúc bà cũng thế!” Amy vẫy tay chào lại. Những cánh cửa xe rít lên khi đóng lại.
Nellie tham khảo bản đồ lần nữa. “Chúng ta đang ở gần Circular Quay5. Chỉ còn hai trạm dừng nữa trước khi mình chuyển xe.”
Amy chồm tới để nhìn tấm bản đồ. Có gì đó khang khác. Một sức nặng quen thuộc nào đó đã biến mất...
“Sợi dây chuyền của bà Grace!” Amy cảm thấy bủn rủn khi đưa tay sờ lên cổ. “Mất rồi!”
“Em chắc không?” Nellie hỏi lại, đưa mắt tìm trên ghế.
Amy không mở miệng trả lời nổi. Cổ họng nó nghẹn ứ một cục to và nó phải kiềm mình để khỏi bật khóc. Sợi dây chuyền đó không một sợi dây chuyền. Nó còn là một cái gì đó mà bà Grace từng yêu quý. Mỗi lần chạm vào nó, Amy lại cảm thấy sự hiện diện sống động của bà, và thấy mình được kết nối với lòng can đảm của chính bà Grace.
Chiếc xe buýt quành qua một khúc cua trong lúc Amy điên cuồng bới tung sàn xe. “Nó không còn ở đây!”
“Lần cuối em còn nhớ tới nó là khi nào?” Nellie hỏi.
“Khi chúng ta đứng chờ xe buýt,” Amy trả lời, tập trung suy nghĩ. “Em đã giấu nó vào bên dưới áo thun.”
“Nó không bị rớt mất,” Nellie nói. “Nó đã bị đánh cắp. Chính bà già đó.”
“Thật không? Bà ấy rất tử tế mà. Bà ấy cứ để tấm bản đồ đập vào đầu em và xin lỗi...,” Amy há hốc mồm ra giữa chừng.
Nellie gật gù, “Chính xác. Để đánh lạc hướng em.”
Dan bắt đầu nhấn vào cái nút DỪNG LẠI trên tay vịn ghế ngồi của nó. “Nhanh lên nào. Cùng đi đá đít vài bà già nào!”