64 Mùa Valentine Đợi Em

Chương 1: Chương 1




Helen Emerson bật dậy trên giường và thét. Tiếng thét của cô bị không khí nuốt chửng trước khi cô kịp đưa tay bịt miệng để ngăn lại âm thanh kinh hoàng. Một lát sau, cô mò mẫm bật chiếc đèn cạnh giường, xua những bóng ma trở vào nơi cư ngụ trong bóng tối. Cô rụt tay lại và nhận ra chúng đang run rẩy.

Thõng chân xuống giường, cô khẽ lắc đầu. Năm rưỡi sáng, và cô không thể nhớ nổi giấc mơ. Không thể nhớ nổi cơn ác mộng ghê rợn xé toạc cô khỏi giấc ngủ yên bình, và cô cũng không chắc mình có muốn nhớ lại không. Vài ấn tượng còn rơi rớt lại sâu trong tâm trí cô. Một âm thanh ầm ầm nào đó, loại âm thanh rất khó định hình. Và tiếng chó sủa.

Cô lắc đầu, lùa bàn tay vào mái tóc nâu ngang vai. Ít nhất trong mắt mọi người cô là một phụ nữ thực tế - điều cô luôn tự hào, nên cơn ác mộng vừa qua đơn giản chỉ là một cơn ác mộng mà thôi.

Nhưng đây không phải cơn ác mộng đầu tiên. Rất khó xác định chúng là cùng một giấc mơ liên tục ám ảnh cô hết lần này đến lần khác, bởi lần nào cũng vậy, một khi tỉnh giấc cô không nhớ gì về chúng. Nhưng có một thứ bất biến, âm thanh như sấm rền, như hàng nghìn tiếng trống không bao giờ thay đổi. Và tiếng tru hoảng loạn của một con chó.

Cố buộc bản thân rời khỏi giường, cô kéo mạnh chiếc áo phông ngoại cỡ xuống và bần thần đi vào bếp. Cô bật máy pha cà phê, rồi lơ đễnh xem cuốn lịch. Thứ Sáu ngày mười ba. Chẳng trách sao cô lại gặp ác mộng.

Helen nhìn chăm chăm ra ánh ban mai bên ngoài. Tháng Hai hẳn là tháng lạnh giá nhất, đặc biệt ở một thành phố như Chicago. Ngọn gió quất mạnh lên mặt hồ, tê cóng đến tận xương, và cả thế giới cứ như phủ một màu xám xịt và hoang vắng. Một tháng nữa thôi hoa sẽ nở khắp cả nửa khu vực quanh đây. Còn giây phút này, ngay cả bóng ma ngớ ngẩn của ngày Valentine cũng không thể xua đi muộn phiền trong trái tim Helen.

Cô không chờ nổi cho đến khi cà phê được pha xong. Cô rót một tách rồi thơ thẩn trở ra phòng khách. Cô yêu tòa nhà cũ này, nhất là căn hộ cô đang ở. Sau nhiều thập kỷ suy thoái, số 1322 phố Elm nằm ở phần cuối trong quá trình tái thiết thành phố, và Helen đã cố hết sức để đưa vẻ cổ kính trở lại nơi đây như lúc đầu. Tòa nhà từng là một trong những khu nhà thanh lịch nhất Chicago, nhưng hàng năm trời bị bỏ bê đã cướp đi hầu hết vẻ đẹp của nó. Rồi nó bị bỏ hoang, cứ nằm đó chờ người đủ tiền và sức lực đến cứu rỗi.

Với đồng lương của một trợ lý công tố, Helen rất khó kiếm đủ tiền, nhưng cô có thừa sức lực. Cô không có người đàn ông nào làm cô phân tâm, không có người ngày mai sẽ mang cho cô những lời chúc cùng sôcôla thậm chí không có người để cô gửi thiệp. Và cô lại có thể phung phí tình yêu của mình cho tòa nhà cũ kỹ, như mọi khi.

Không, khỉ thật. Các anh trai của cô chắc chắn sẽ gửi thiệp chúc mừng. Họ luôn bỏ qua mục đích nguyên bản của dịp lễ. Nghĩ đến đây, cô cũng đã chuyển lời chúc đến bảy đứa cháu trai và cháu gái của cô rồi. Có lẽ cô chỉ cần quên tên gọi của ngày mười bốn tháng Hai và tập trung vào món sôcôla thôi.

Ít nhất năm nay nó cũng rơi vào thứ Bảy. Thế nên cô sẽ không phải đối phó với tất thảy hớn hở gượng gạo, những lời bình luận bâng quơ và những trò chơi nho nhỏ ở chỗ làm. Hơn nữa công việc hiện tại cũng không khiến cô cảm thấy vui vẻ. Nếu hàng ngày đều phải đối mặt với đủ loại tội phạm thì ai phấn khởi nổi đây?!

Cô uống thêm một ngụm lớn cà phê, thầm nghĩ cách trốn việc ngày hôm nay. Có thể báo ốm hoặc viện cớ sức khỏe suy nhược. Thời gian này tất cả mọi người đều cần một ngày dành cho tinh thần khỏe mạnh[1] - chắc chắn thứ Sáu ngày Mười ba sẽ hội tụ đủ tiêu chuẩn cho cô xin nghỉ. Rồi cô sẽ có thêm hai ngày để ra quyết định cuối cùng về Billy Moretti.

[1] Metal helth: khả năng bộ máy tâm lý hoạt động hợp lý, hiệu quả, hay trạng thái tinh thần hoàn toàn thoải mái.

Nhưng cô là một phụ nữ có trách nhiệm, và hai ngày cũng đâu làm nên khác biệt. Cô là một công tố viên, mặc dù chỉ mới ở cấp khởi đầu, còn Billy Moretti là người phạm tội. Nhiệm vụ của cô là đảm bảo hình phạt dành cho cậu ta. Ngay cả khi việc ấy cho cô cảm giác mình đang đá một chú cún con không nơi nương tựa.

Cô bước quanh nhà, mặc kệ hóa đơn tiền điện tăng cao để bật sáng tất cả các bóng đèn. Đây sẽ là một ngày lạnh lẽo đầy gió, ảm đạm, muộn phiền, và cô cần gom hết mọi ánh sáng trong tầm tay. Có lẽ cô nên đi làm sớm, đối mặt với vụ Moretti cùng vô vàn khó chịu khác rồi chuồn sớm vào đầu giờ chiều. Tự thết đãi bản thân bằng một bữa trưa muộn, tao nhã, hay thậm chí còn có thể đi mua sắm nữa. Chẳng phải “khi cảm thấy chán nản, hãy tìm niềm vui trong mua sắm” sao? Chắc chắn sẽ có thứ gì đó để cô tiêu tốn tiền bạc.

Dù chẳng có việc gì để làm đến mức phải lôi các bộ phim cổ lổ sĩ ra xem lại thì cô cũng quyết tâm tan làm sớm.

Cô uống nốt cà phê, rùng mình trong bầu không khí lành lạnh, rồi đi về phía phòng tắm. Đắm mình trong vòi nước nóng thật lâu sẽ gạn rửa đầu óc, đánh thức cô dậy và cho cô thêm dũng khí đối mặt với một ngày mới. Nhưng khi cô đứng dưới dòng nước như trút, cô nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng thình thình như sấm vọng lại từ xa. Và tiếng tru thê lương của một con chó.

***

James Sheridan Rafferty dựa vào tòa nhà xây từ gạch cũ và nhắm mắt. Gã nhớ lần đầu tiên quay trở lại đây, và nỗi sợ hãi xâm chiếm gã. Gã nhớ lần trở về tìm cái gara tan hoang, đổ nát ở chốn cũ.

Chết tiệt, gã lạnh. Hai bàn chân gã đang đóng băng, gió thì quất liên hồi vào chiếc áo khoác cũ kỹ mà đến một đôi găng tay gã cũng chẳng có. Gã xọc tay vào túi, run rẩy, và mê mải trong những cảm giác rất tự nhiên. Gã đói. Gã lạnh. Gã chai như đá.

Gã mở mắt, lôi mảnh giấy nhàu nhò ra khỏi túi, đây là thứ Mary Moretti với đôi mắt mở to và van lơn đã đưa cho gã. Quay lại Chicago chỉ trong vài giờ và cuộc nán lại ngắn hạn của gã đang có nguy cơ bị mang ra trưng dụng.

Gã không nên thấy hối tiếc. Gã luôn quý Billy Moretti. Trong số tất cả bọn chúng, Billy là đứa không đáng hứng chịu số phận bi thảm đó nhất. Cậu ta chỉ là một thằng nhóc, và so với đám cùng lứa là một đứa rất được. Đủ trẻ để mắc sai lầm. Đủ lớn để đúc rút bài học từ sai lầm, và bước tiếp. Nếu có cơ hội thứ hai.

Mary đang sợ hãi, điều cũng không đáng ngạc nhiên. Con bé mới mười chín tuổi, bụng mang dạ chửa và chồng thì đang có nguy cơ lĩnh án phạt tối đa ở nhà tù Joliet. Người duy nhất con bé có thể trông cậy là James Sheridan Raffety, kẻ khiến con bé sợ chết khiếp. Gã không thể trách con bé. Gã khiến rất nhiều người phát hoảng, một sự thật hiếm khi gã bận tâm. Là do cái gì đó ở vẻ im lìm của gã. Cái gì đó ở đôi mắt gã. Cái gì đó ở thân phận gã, điều bất cứ ai cũng hoài nghi nhưng không bao giờ thấu hiểu cặn kẽ. Từ đó có phản ứng sợ gã là đương nhiên.

Giống cách Mary Moretti phản ứng với gã. Nhưng sẽ không đáng bận tâm một khi Billy yêu dấu của con bé đang gặp nguy hiểm. Vì an nguy của Billy con bé sẵn sàng đối mặt với ác quỷ nếu cần. Qua nỗi sợ hãi hiện rõ trong đôi mắt đen, gã thừa biết con bé đang cho rằng gã là ứng viên trời định cho công việc của quỷ Sa Tăng.

Làm sao gã có thể từ chối đây? Nhưng nếu gã chỉ có bốn mươi tám giờ ở Chicago thì sao? Bốn mươi tám giờ để nhồi nhét toàn bộ cả một năm cuộc đời gã? Gã đang dần học cách sống có trách nhiệm, dù việc này ngốn đến hàng thập kỷ. Gã đang dần học được cách quan tâm đến người khác. Còn Billy lúc nào cũng ủng hộ gã, bất cứ lúc nào. Ngoài giúp đỡ thằng nhóc, gã không còn lựa chọn nào khác.

Gã liếc xuống mảnh giấy được Mary viết ngoáy. Helen Emerson. Trợ lý công tố bang.

Gã lắc đầu. Gã có thể sẽ không bao giờ giải quyết trót lọt chuyện này. Một nữ công tố. Chết tiệt, có khi cô ta có cả một thư ký nam cũng nên. Cái thế giới này càng lúc càng trở nên gàn dở.

Gã rút một điếu thuốc từ vỏ bao nhăn nhúm trong túi áo khoác và châm lửa, khum hai tay che que diêm gỗ khỏi ngọn gió. Điếu thuốc lá đầu tiên trong một năm, và có vị tuyệt vời. Thêm một rắc rối khác - càng ngày càng ít người hút thuốc lá. Cho nên gã khó kiếm nổi một chỗ châm thuốc mà không bị ai đó trợn mắt, rồi diễn thuyết cả một tràng về tình trạng hai lá phổi của gã. Gã thường xuyên lịch sự và lạnh lùng lắng nghe làm nhiệt huyết của chiến binh thập tự chinh kia teo tóp, rồi hoàn toàn mất nhuệ khí trước sự tĩnh lặng toát ra từ gã.

Chắc chắn nếu không xem trước có thể làm gì cho Billy, đảm bảo các kế hoạch trong bốn mươi tám giờ tới của gã cũng không thể nhanh chóng bắt đầu. Giờ là sáu giờ sáng - cô Emerson đương nhiên sẽ không đi làm cho đến chín giờ. Còn lâu gã mới chịu ở yên một chỗ chờ đợi. Quẳng ba giờ vào nhà vệ sinh thì quá lãng phí.

Gã sẽ đi tìm cô Helen Emerson kia để xem cô ta có biết điều không, vẻ quyến rũ được thời gian tôi luyện của gã sẽ rất hữu dụng một khi gã chủ tâm dùng đến nó. Cho nên duy trì một cuộc nói chuyện ngọt ngào khiến phụ nữ quên hết trách nhiệm quá đơn giản. Hay nói cách khác, gã luôn có cách để cho cô ta một lời đề nghị không thể chối từ.

Ước sao gã chỉ việc quên đi Billy. Chỉ cần tận hưởng những ngày lưu lại Chicago với mưu cầu lạc thú đặt lên hàng đầu, giống bao năm trước.

Nhưng giờ gã đâu còn như xưa. Thời gian đã làm thay đổi gã. Gã không thể chỉ biết hưởng thụ một mình mà không bận tâm đến Bill đang mắc kẹt trong tù. Nghĩ đến người vợ mang thai và đang hoảng sợ của thằng nhóc. Gã phải làm gì đó, càng sớm càng tốt.

Địa chỉ trên phố Elm quen thuộc đến đáng lo ngại, sự quen thuộc gã không biết diễn tả ra sao. Nó từng là một phần của khu đô thị phồn hoa tấp nập hơn nhiều so với những gì trong trí nhớ của gã. Và rồi sau đó xuống dốc, trở thành khu ổ chuột, và dù có sống bằng đồng lương viên chức eo hẹp đi chăng nữa, gã cũng không hình dung nổi một công tố viên lại đang sống ở đây. Nhưng giờ gã nên quen với những bất ngờ, và cô Helen Emerson này sở hữu quyền sinh sát với Billy Moretti. Cho nên đem so sánh với nhiều điều thiết yếu khác thì sống trên phố Elm cũng có làm sao.

Gã yên tâm bắt taxi, bởi gã biết ví của gã vẫn đầy tiền. Đến khi chiếc xe dừng lại bên ngoài dãy phố thì gã chồm người về phía trước. “Này, anh bạn”, gã nói với tài xế. “Giờ là năm bao nhiêu?”

“Anh đang đùa đấy à?” Người lái xe ngoái lại nhìn chằm chằm hành khách của mình.

“Không đâu. Chỉ để kiểm tra thôi”.

“1993. Thế anh nghĩ là năm bao nhiêu?”

Raffety thoáng mỉm cười. “Nghe có vẻ phù hợp với tôi”. Gã boa cho tài xế, trèo xuống vỉa hè, và ngước nhìn tòa nhà khi trí nhớ của gã dần tập trung: 1993. Vậy là James Sheridan Raffety đã chết được sáu mươi tư năm.

***

Helen nghe thấy chuông cửa reo. Cô ngạc nhiên đập tay lên tường, rồi chửi thề, thật mừng khi người bố Ai-Len theo đạo Thiên Chúa của cô không ở quanh đây. May thay các anh trai cô cũng vậy. Mặc dù cả bố lẫn bốn ông anh trai của cô đều là cảnh sát và quá quen với ngôn từ bẩn thỉu nhất của bọn cặn bã, họ vẫn không thích nghe bất cứ thứ gì báng bổ đại loại như “chết tiệt” thoát ra từ miệng Helen bé nhỏ ngọt ngào của họ. Và Helen cũng tự hào rằng mình đã nói những từ mang nhiều màu sắc biểu cảm hơn rất nhiều. Cô học được không ít trong ba năm làm việc ở Văn phòng Công tố.

Kẻ trời ơi đất hỡi nào lại đi bấm chuông cửa nhà cô vào lúc sáu rưỡi sáng thế này? Với cơn sợ hãi thoáng quét khắp người, cô lo có thể gặp phải tai họa nào đó, đến mức cô quên mất công dụng truyền tin hiệu quả của chiếc điện thoại. Nếu tai họa có giáng xuống các thành viên nhà Emerson đang sống rải rác khắp nơi thì cô đã được thông báo ngay lập tức rồi.

Cô nhấp nhanh một ngụm từ cốc cà phê thứ ba, giật mạnh khóa kéo cứng đầu trên chiếc váy lửng và tập tễnh đi ra cửa với một chiếc giày cao gót xỏ ở chân, chiếc còn lại vẫn cầm trong tay. Cô có ba sợi xích cửa và một then cài nằm nguyên vị trí, và cô hé mắt qua lỗ nhìn trên cửa. “Ai đó?” Cô lo lắng hỏi.

Cô không thấy rõ anh ta, bởi chiếc lỗ nhìn trầy xước, bẩn thỉu và có tuổi lắm rồi: Anh ta cao, tóc đen, và rất có thể là một tên giết người hàng loạt.

“Tên tôi là Rafferty. Cô là Emerson phải không?”

Cô không thích chút chế nhạo được nhấn mạnh trong từ “cô”. Cô không thích giọng nói của anh ta, vừa thô ráp vừa mượt mà, với hơi hướm trọng âm từ eo biển phía đông. “Tôi là Emerson”, cô thẳng thắn, giật chiếc giày trên chân xuống và không hề có ý định mở cửa. “Anh muốn gì?”

“Tôi muốn nói chuyện với cô về Billy Moretti”.

Tuyệt, cô nghĩ, khi dựa người vào cánh cửa. Buổi sáng nát bét, ảm đạm này hoàn hảo rồi đấy. “Tôi sẽ có mặt ở văn phòng lúc chín giờ”, cô vào luôn vấn đề. “Hãy gặp tôi ở đó”.

“Không thể”, giọng anh ta nặng nề vọng lại qua cánh cửa. “Tôi chỉ ở lại đây hai ngày và còn rất nhiều việc cần giải quyết. Thế này đi, cô Emerson. Giờ chưa đến bảy giờ sáng, phải vài tiếng nữa mới tới giờ làm việc của cô. Hãy để tôi mời cô bữa sáng, cô có thể nghe tôi trình bày rồi tôi sẽ đi ngay”.

“Và nếu tôi nói không?” Cô giật mình kinh ngạc khi nghe những từ đó thoát ra. Ý cô là cái khỉ gì thế này, nếu cô nói không ư? Đương nhiên cô sẽ từ chối. Cô không thể đi đâu với bạn của người cô chuẩn bị khởi tố được.

“Vậy tôi sẽ ở lại đây đến khi cô đổi ý”. Anh ta nghe có vẻ rất chân thành.

“Tôi chỉ cần một cú điện thoại là cảnh sát sẽ đến mời anh đi, anh Rafferty ạ. Tôi không muốn bị quấy rầy”.

“Thưa quý cô”, anh ta kiên nhẫn, “tin tôi đi, tôi không hứng thú quấy rối cô. Tôi chỉ muốn xem có thể giải quyết chuyện của Billy với cô không thôi”.

Cô thoáng nhận ra bản thân cũng đang cân nhắc. Vụ Moretti đã làm hao mòn tâm trí cô suốt mấy ngày nay. Nếu cô có thể thỏa hiệp thì thứ Sáu ngày mười ba sẽ trở nên dễ chịu hơn rất nhiều.

“Anh làm việc với Abramowitz phải không?”

“Đương nhiên rồi!”Giọng nói trả lời ngay lập tức.

Câu trả lời ra quyết định giúp cô. Nếu luật sư của Billy sốt sắng tìm nơi ở của cô và đến đây ngay khi bình minh vừa ló dạng, thì đương nhiên cô có thể thảo luận vụ này với anh ta vào bữa sáng rồi. Sau cùng, bọn họ đều là người trong nghề. Thật ngớ ngẩn khi quá đặt nặng hình thức.

“Đợi tôi một lát”, cô nói, đôi tay lóng ngóng với đám ổ khóa. Lúc cô mở cái khóa cuối cùng và kéo then bảo vệ, cô bắt đầu hối tiếc khi vội vã chấp nhận lời đề nghị của anh ta, song cánh cửa đã bật mở và tất cả trở nên quá muộn. Ít ra sợi dây xích vẫn còn nguyên khi cô ngó qua khoảng cách hơn mười centimet để nhìn người đàn ông đang đợi ngoài hành lang.

Anh ta vẫn kiên nhẫn đứng đó, vẻ cực kỳ tĩnh lặng của anh ta khiến người đối diện có chút hoảng sợ. Anh ta là một người đàn ông cao lớn, dáng người săn chắc, và bộ vest cùng chiếc áo khoác ngoài của anh ta thật khó tả, như không bị tác động bởi thời gian. Tóc anh ta đen và ngắn, được vuốt ngược ra sau từ đường chân tóc chữ V trên đôi mắt đen đầy thách thức. Cô nhìn vào đôi mắt đó, vào sâu trong đôi mắt tĩnh mịch khó dò và cảm nhận cơn ớn lạnh chạy khắp người. Cùng luồng hơi nóng bất chợt bùng lên.

“Anh không giống kiểu người Abramowitz thường thuê”, cô ngơ ngẩn thốt. Chắc chắn không phải kiểu sẽ bảo vệ Billy Moretti trước toàn thế giới. Anh ta quá đẹp trai, với cái miệng rộng và gợi cảm, gương mặt thon, gò má cao, cùng thái độ tự chủ, điềm đạm.

Rồi anh ta mỉm cười, nụ cười đáng lẽ sẽ khiến cô cảm thấy nhẹ nhõm. Đó là một nụ cười quyến rũ, theo đúng nghĩa đen, với ý đồ khiến người phụ nữ cảnh giác nhất cũng bị mê hoặc. Helen có thể cảm nhận được sự cuốn hút đột ngột cô đang phải vật lộn đấu tranh.

“Không thể đặt lòng tin vào vẻ ngoài”, anh ta nói, đôi mắt đen chạy dọc theo chiều dài khe hở của cánh cửa đang mở. “Cô sẽ để tôi mời cô bữa sáng chứ?”

Cô nên sập cửa thẳng vào mặt anh ta. Cô có thể giao vụ Moretti cho Jenkins, như ông ta muốn, nhưng Jenkins ác ôn không khác gì một con heo, luôn làm việc cứng nhắc, vô lối và chưa một lần mảy may xem xét các tình huống bất khả kháng cho bị cáo.

Cô cứ thế nhìn chằm chằm người đàn ông tự nhận là Rafferty một lúc lâu rồi gật đầu quyết định. Cô là một phụ nữ thông minh, cẩn thận. Nhưng cô cũng là người phụ nữ học được cách lắng nghe bản năng của mình. Và bản năng mách bảo cô nên tin người đàn ông này.

Cô gạt sợi xích xuống rồi mở cửa. “Mời vào”, cô vừa nói vừa bước lui lại. “Tôi sẽ đi với anh ngay thôi”.

Mãi cho đến khi băng qua nửa gian phòng để thu dọn giấy tờ vào cặp tài liệu, cô mới nhận ra hành vi của cô khác lạ đến chừng nào. Cô không thích để người khác, đặc biệt là đồng nghiệp, vào căn hộ của cô. Bởi cô đã quen sống vô tổ chức và luộm thuộm. Lý do khác, những ai tham vọng không bao giờ đánh giá cao khuynh hướng trang trí hệt thập niên hai mươi của cô. Cô liếc ra sau nhìn Rafferty, cố gắng giấu đi vẻ bồn chồn, rồi chợt sững lại.

Anh ta đứng giữa căn hộ của cô, một người lạ tóc đen cao lớn, người đáng lẽ phải là một kẻ xâm nhập bất hợp pháp, đang tròn mắt ngạc nhiên nhìn xung quanh, như thể nhận biết các thứ trong phòng.

“Anh từng đến căn hộ này rồi sao?” Cô buột miệng.

Đôi mắt đen của anh ta chạm phải cô, và anh ta mỉm cười, nụ cười thoạt nhìn có vẻ đơn giản. “Không”, anh ta đáp.

Cô không tin. Rồi cô bật cười lớn trước sự vô lý của bản thân. “Đương nhiên nhỉ”. Cô nói. “Trong suốt sáu mươi năm, tòa nhà này thuộc về một cụ bà lạ lùng cùng đám mèo của bà ấy”.

“Rồi bà ấy làm sao?”

“Cụ bà đó hả?” Helen nói, kéo chiếc áo khoác xuống. “Bà ấy qua đời, tôi e là thế. Bà ấy khá tiếng tăm - người ta đồn bà ấy là nhân tình của một tay đàn anh từ thời AI Capone[2]. Điều ấy thì tôi tin”.

[2] Hay Alphonse Gabriel “Al” Capone (17/01/1989 - 25/01/2947) là tên trùm xã hội đen khét tiếng ở Mỹ.

“Cô quen bà ta?”

Helen nhún vai. “Tôi gặp bà ấy vì công việc. Bà ấy bị cướp. Tôi là luật sư khởi tố kẻ nhẫn tâm đánh quỵ bà ấy. Sau đó bà quyết định nhận tôi làm con nuôi”. Cô mỉm cười hồi tưởng. “Bà là một phụ nữ tuyệt vời”.

“Tên bà ấy là gì?”

“Tên của bà? Anh chắc sẽ không biết đâu - tôi không nghĩ suốt ba thập kỷ bà từng đi đâu ngoài con đường này trước khi vào bệnh viện”.

“Nếu quả thật bà ta từng cặp với đám găngxtơ thì rất có thể tôi đã nghe nói về bà ấy. Tôi luôn hứng thú với thời xã hội đen hoành hành ở Chicago”.

“Anh và cả nửa thành phố”, Helen nói. “Tên bà là Jane Maxwell”.

“Chưa nghe bao giờ!”

“Tôi nghĩ nghệ danh của bà là Crystal Latour. Khó mà tưởng tượng nổi ai gọi cụ bà ấy là Crystal, nhưng bà đã kể thế với tôi”.

“Crystal Latour”, giọng Rafferty khác lạ. “Phải, thật khó mà tin nổi”.

Cô vơ cặp tài liệu rồi hướng về phía cửa, lờ đi cốc cà phê, đống báo chí bừa trên sofa cũ và nửa chiếc bánh vòng trên bàn ăn sứt sẹo. “Anh sẵn sàng chưa?”

Anh ta như vừa sực tỉnh khỏi cõi mê nào đấy. “Hẳn rồi. Tôi chỉ đang thắc mắc sao cô lại định cư ở đây?”

Cô phải thừa nhận anh ta rất nhạy bén. Chỉ trong vài phút anh ta đã mài ra mặt bất tiện nhất của tòa nhà đẹp đẽ nhưng cũ kỹ này. Cô ghét gặp phải người đàn ông nào có loại bản năng chỉ chuyên xuất hiện trong phiên tòa như thế. “Bà ấy để nó lại cho tôi, thưa anh Rafferty. Toàn bộ tòa nhà”.

“Vậy sao, hiện thời hả? Chắc việc khởi tố tên cướp kia phải thành công mỹ mãn lắm”.

Cô dừng lại nơi ngưỡng cửa, thờ ơ nhìn anh ta. “Hệt như với người khác thôi, anh Rafferty ạ. Tôi khởi tố tội phạm”.

“Trừng phạt kẻ xấu”, anh ta giễu cợt. “Khiến chúng trả giá trước toàn xã hội”.

“Tôi thường không dính vào chuyện báo thù, dù đôi khi tôi cũng phải thừa nhận từng có ý nghĩ ấy. Nhưng tôi quan tâm đến việc giữ an toàn cho các cụ bà nhỏ bé như Crystal hơn”.

Anh ta cười nhăn nhó, nhưng nụ cười đó không hề chạm đến đôi mắt đen tĩnh mịch của anh ta.

“Và tôi dám chắc công việc của cô rất kinh khủng”. Anh ta liếc quanh căn phòng lớn lộn xộn, và phải mất một lúc cô mới kiểm soát được cơn bực tức của bản thân. Đâu phải lỗi của cô khi Crystal để lại cho cô tòa nhà. Và nó cũng đâu phải khoản thừa kế đáng giá - nơi này đang xuống cấp nghiêm trọng và ít nhất ba nhà thầu xây dựng đã bảo cô tốt hơn hết nên dỡ bỏ và xây mới hoàn toàn.

Song cô không thể làm thế. Cô yêu mọi đường nét của tòa nhà, vẻ thanh nhã mang hơi thở của quá khứ và cả những gì bị vùi dưới các bức tường bao và lớp lót sàn. Bất cứ khi nào có khả năng, cô đều bắt tay tu bổ từng phần một của tòa nhà, khởi đầu với căn hộ ở tầng một của chính cô, sau đó sẽ sửa sang và cho thuê các tầng phía trên. Với cô thì nghe rất thực tế và đầy triển vọng. Nhưng các anh trai cô lại bảo cô đang mơ mộng.

“Tôi nghĩ anh đến để thương lượng vụ của Moretti, chứ không phải về chuyện trang trí nhà tôi”, giọng cô vờ lạnh nhạt.

“Phải rồi. Cô biết chỗ nào lý tưởng để ăn không?”

“Xa lắm. Sao chúng ta không ăn ở gần văn phòng của tôi? Như thế một khi đôi bên đi đến thống nhất, mọi việc sẽ giải quyết dễ dàng hơn. Đi xe của tôi nhé?”

“Vâng, thưa quý cô”, anh ta nói.

Cô ném thêm cho anh ta một cái nhìn ngờ vực, anh ta không phải đang chế nhạo cô đấy chứ? Anh ta khiến cảm xúc của cô biến hóa thật lạ lùng, đạo mạo, chỉn chu hệt một bà giáo già. Càng ở lâu với anh ta, cô càng muốn giật vạt váy xuống rồi quấn thật chặt chiếc áo choàng quanh người. Anh ta khiến cô bứt rứt không yên.

“Vậy đi thôi”, cô tươi tắn nói. “Tôi còn cả đống việc đang chờ”. Cô đứng đợi ngay cạnh cửa, châm chọc nhường anh ta đi trước.

“Chỗ ở của cô đẹp lắm!” Anh ta khen với giọng điệu trêu ngươi. Anh ta ngừng lại nơi khung cửa để nhìn cô, với khoảng cách quá gần. Cô ngước lên, và nhận ra đôi mắt anh ta không thẫm đen như cô nghĩ lúc đầu. Một màu nâu sâu thẳm, được thắp lên với những chấm vàng nhỏ bé, sưởi ấm cả một chiều sâu băng giá. Chúng là đôi mắt khiến ai đó sa vào, đôi mắt có thể thôi miên và bỏ bùa người đối diện. Đôi mắt đầy cám dỗ.

Sau đó anh ta băng qua cô, không chạm vào cô, đi thẳng xuống những bậc thang thấp dẫn ra cửa trước. Cô nhìn theo, trong giây lát như bị xúi giục lao trở vào nhà và đóng sập cánh cửa sau lưng lại. Anh ta khiến cô bồn chồn theo cái cách cô thậm chí còn không thể bắt đầu cắt nghĩa.

Nhưng hễ cứ gặp bóng tối là lao đầu bỏ chạy thì chẳng mấy chốc cuộc đời cô sẽ nhanh chóng sụp đổ tan hoang. Cô nhìn lướt một vòng căn hộ, hình dung xem anh ta đã nhìn nó thế nào. Rồi cô đóng cửa, theo sau Rafferty ra ngoài giá lạnh phủ đầy buổi sớm mai.

***

Crystal Latour, Rafferty nghĩ khi lách người qua Helen Emerson để đi vào một quán ăn nhỏ. Họ đến trung tâm thành phố bằng một chiếc xe bé tẹo của Nhật, chỉ nửa cỡ con Packard[3] gã từng lái, khiến đôi chân dài đáng thương của gã phải co cứng lại. Bất tiện là thế nhưng cũng không thể làm gã nhãng ra khỏi những ký ức nhiễu loạn về Crystal Latour.

[3] Loại xe cỡ lớn, được lắp đặt bằng tay lưu hành những năm 30 của thế kỷ XX, có sự tinh xảo và xa hoa vượt xa những xe hạng sang bây giờ.

Thôi được, gã đã từng đến số 1322 phố Elm. Duy nhất một lần, vào ngày 13 tháng 2 năm 1929. Gã đã qua đêm trên giường của Crystal Latour, và sáng hôm sau gã chết.

Gã liếc nhìn người phụ nữ ngồi bên. Thôi được, cô ta cũng là một bất ngờ. Gã đã dần quen với những người phụ nữ hiện đại, với vẻ đẹp lạnh lùng, tự tin cùng sự độc lập và khó lấn lướt của họ. Cho nên trong mắt gã người phụ nữ nhát gan lái chiếc xe nhỏ xíu này thật cổ lỗ sĩ.

Cô ta còn xa mới là kiểu người khó lấn lướt. Tất cả những gì người đối diện phải làm là nhìn vào đôi mắt nâu to tròn và sẽ dễ dàng nhìn thấu tâm trí cô ta. Tóc cô ta dài, với màu nâu ánh đỏ tráng lệ, chiếc miệng rộng và đầy đặn. Một chiếc miệng tuyệt hảo để hôn.

Nhưng không phải gã muốn hôn cô ta. Cô ta hơi quá gầy so với sở thích của gã, đã thế còn ăn mặc hệt một thằng đàn ông. Cô ta hẳn thuộc nhóm người trợn mắt hô hào đòi bình đẳng giới, không son phấn và đeo đôi kính gọng kim loại hệt cái thứ xuất hiện trên mặt một tên kế toán. Cô ta rõ ràng chỉ ngủ với đàn bà.

Ngoại trừ gã không nghĩ thế. Đương nhiên không phải gã đang tưởng tượng lực hút kỳ lạ giữa hai người là phản ứng hai chiều chết tiệt giữa nam với nữ. Gã không muốn dính líu đến cái cô Helen Emerson này. Trong bốn mươi tám giờ ở lại đây, gã không có thời gian vướng vào ai đó giống cô ta.

Gã cần người nào hào hứng và dễ dãi, người nào sẽ ngả lưng xuống giường cùng gã, cười vui vẻ với gã và cho gã cảm giác thoải mái cùng giải thoát. Gã không muốn gắn bó, đi đôi với phức tạp hay tình bạn, và với một người đàn bà giống Helen Emerson, bắt buộc phải chuẩn bị ba điều kể trên trước cả khi chạm được vào ngực cô ta. Mà rõ ràng cô ta có đáng chạm vào tí nào đâu.

Nhưng mẹ kiếp, gã muốn khám phá xem có đúng thế không.

“Anh làm việc cho Abramowitz lâu chưa?” Cô hỏi, nhìn gã chê trách khi gã châm một điếu thuốc lá.

“Không lâu lắm”, gã đáp, thắc mắc Abramowitz là thằng trời đánh nào.

“Anh trông không giống luật sư”, cô nói.

“Cô cũng thế”, gã trả lời với vẻ ít quyến rũ hơn lúc thường. Gã không muốn quyến rũ cô ta. Bởi vài lý do phi lý, gã không muốn nói dối cô ta nhiều hơn những gì bắt buộc và cần thiết.

Hồi đáp của gã là một sai lầm. Cô mỉm cười trước lời nói kháy, đôi mắt cô nhăn nhăn và chiếc miệng rộng khẽ cong lên. “Tôi luôn làm hết khả năng”, cô nói. “Vậy chúng ta sẽ làm gì với Billy Moretti? Cậu ta đang bị xem xét mức phạt cao nhất - chắc chắn phải bị giam từ tám đến mười năm trong nhà tù Joliet, và tôi hoàn toàn có thể lấy được phán quyết có tội”.

Gã gọi món khi cô hầu bàn tốt bụng rót cho gã tách cà phê đầu tiên trong năm và dựa lưng vào ghế nhìn Helen. “Vậy tôi còn ở đây làm gì?” Gã hỏi, uống một ngụm lớn cà phê và rít một hơi thuốc thật dài.

“Có lẽ do tôi tò mò”, cô nói. “Anh không giống những gã bẩn thỉu Abramowitz thường thuê. Và có lẽ tôi không tin Billy Moretti đáng bị giam trong tù lâu đến thế. Có lẽ cậu ta chỉ phạm sai lầm”.

“Cô muốn vạch rõ sai lầm của cậu ta với tôi?”

“Anh không biết sao?”

“Tôi muốn nghe quan điểm của cô hơn”, gã lạnh nhạt nói.

Cô dễ bị lôi kéo đến đáng nguyền rủa. Cô nhún vai, có vẻ vừa lòng. “Cậu ta được hưởng án treo. Hồ sơ phạm tội ở tuổi vị thành niên của cậu ta dài ngang cánh tay cậu ta vậy - không tội nào nghiêm trọng, nhưng gộp lại thì ra vấn đề. Cậu ta biết mình phải cực kỳ cẩn thận, rồi lại để bị tóm với súng và là đồng bọn của một tên tội phạm khét tiếng, bị tóm vì tội hình sự”.

“Tội hình sự nào?”

Cô trông có vẻ bực mình khi thêm quá nhiều đường vào tách cà phê. “Anh thừa biết còn gì. Cậu ta là tài xế trong vụ cướp Carnahan. Rất nhiều kim cương đã bị đánh cắp, anh Rafferty ạ, và công ty bảo hiểm thì đang điên tiết đòi trả thù”.

“Và lời khai của thằng nhóc là gì?”

“Là cậu ta vô tội. Cậu ta chỉ xuất hiện sai chỗ và sai thời điểm. Thật khó tin cậu ta trẻ vậy đã bị bắt đến lần thứ hai, đã thế còn dính dáng với kẻ chủ mưu vụ cướp cùng nửa tá các vụ khác”.

Rafferty dụi điếu thuốc. “Vậy sao cô lại không muốn kết tội cậu ta, hả luật sư? Sao cô lại sẵn lòng thương lượng với tôi?”

Nếu gã hy vọng sẽ đe dọa được cô thì gã đã nhầm. Cô chỉ đơn giản lắc đầu. “Tôi không biết, anh Rafferty ạ. Là giác quan thứ sáu đôi khi bộc lộ ở mỗi người. Khi anh biết ai đó đang cố làm lại cuộc đời. Billy ở trường hợp ấy. Tôi vẫn cho Biily ở trong trường hợp ấy, nhưng tôi không có bằng chứng còn cậu ta lại không chịu khai. Trừ phi tôi có lý do để nhìn theo hướng khác, nếu không tôi sẽ phải đưa cậu ta ra tòa”.

“Cô muốn một lý do?” Rafferty hỏi, uống cạn tách cà phê và nhanh chóng suy xét.

“Tôi muốn một lý do”.

“Ai là người đã lên kế hoạch cho vụ cướp?” Đó là một phát súng mù, nhưng hiệu quả. Cô ngả người ra sau, ngỡ ngàng, và gã phải dùng mọi nỗ lực để vẻ mặt vẫn còn nguyên vẻ vô cảm lẫn khó dò.

“Đương nhiên rồi”, cô nói. “Sao tôi lại không nghĩ ra thế nhỉ? Hắn là một trong số những kẻ nguy hiểm nhất tôi từng gặp. Rất đơn giản nếu hắn muốn Billy cùng tham gia vụ cướp Carnahan. Chỉ cần hăm dọa vợ cậu ta”.

“Và vợ cậu ta thì đang mang bầu”.

“Vậy sao? Thế thì hợp lý. Tôi chỉ cần Billy xác nhận. Chúng ta cần tận dụng mọi thứ nếu muốn có cơ hội tóm Morris”. Trong niềm hứng khởi cô vươn người về trước mà quên tự phòng vệ cho bản thân. Quên mất gã là kẻ nguy hiểm. “Cậu ấy sẽ khai chứ?”

“Nếu tôi có phải bẻ gãy cổ nó”, Rafferty dứt khoát. “Khi nào tôi có thể gặp thằng nhóc?”

“Chúng ta sẽ đi sau bữa sáng”. Cô nhìn gã vẻ hiếu kỳ. “Trừ phi anh không đói?”

Cô hầu bàn đến ngay sau đó, đặt một đĩa trứng, xúc xích, thịt lợn xông khói, thịt bò rán và khoai tây xắt sợi chiên giòn trước mặt gã. Tất cả như đang bơi trong dầu ăn, và gã buông một tiếng thở dài thỏa mãn. “Tôi đói!” Gã gầm gừ.

Helen nhìn xuống món bánh mì nướng thanh đạm của bản thân. “Anh vẫn ăn nhiều cholesterol thế vào mỗi sáng à?”

“Nếu có khả năng”.

“Anh sẽ chết trẻ đấy!” Cô nghiêm nghị nói.

Gã hơi ngả lửng, nghiền ngẫm nhìn cô qua đôi mắt sụp. “Cô nói phải”, gã đáp. Và gã bắt đầu ăn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.