Rốt cuộc khi Nicholas Stafford đứng lên, anh quay sang trừng mắt nhìn người phụ nữ trẻ đứng bên cạnh anh. Cách cư xử, quần áo, và ngôn từ của cô ta đối với anh thật kỳ quặc đến nỗi anh hiếm khi có thể giữ các suy nghĩ của mình lại với nhau. Cô ta nhìn giống ả phù thủy anh biết cô ta vốn là: cô ta đẹp hơn bất cứ người đàn bà nào anh đã từng nhìn thấy trước đây, mái tóc không ghim kẹp gì của cô ta chảy xoã xuống vai, đôi mắt cô ta xanh như ngọc lục bảo, và làn da cô ta trắng, không chút tì vết. Nhưng cô ta đang mặc một cái váy ngắn một cách khiếm nhã, cứ như thể cô ta dám khinh rẻ hết đàn ông và Chúa trời vậy.
Mặc kệ cái thực tế là anh cảm thấy choáng váng và yếu ớt, anh không cho phép bản thân lắc lư khỏi cái thế đứng vữngchãi của mình. Anh đáp trả cái nhìn trừng trừng thẳng thắn của cô ta với một cái của chính anh.
Anh vẫn không thể tin được chuyện đã xảy ra với mình. Tại thời điểm tồi tệ nhất trong cuộc đời anh, khi dường như chẳng còn hi vọng nào trong cuộc sống, mẹ đã viết thư cho anh nói rằng cuối cùng bà đã khám phá ra điều gì đó có thể sẽ đem lại cho họ hi vọng mà họ đã gần như từ bỏ. Anh đang viết thư để hỏi rõ bà, để khám phá ra thêm vài thông tin nữa thì anh nghe thấy tiếng một phụ nữ đang than khóc. Âm thanh của những giọt nước mắt trong một chốn giam hãm như thế này thật không phải là một chuyện gì bất thường, nhưng có cái gì đó trong cái cách người phụ nữ này thở than đã khiến anh buông bút xuống.
Khi tiếng thổn thức của người phụ nữ tăng lên cho đến khi chúng lấp đầy căn phòng nhỏ, vang dội qua những bức tường đá và trần nhà, Nicholas đã lấy tay bịt tai để ngăn chặn âm thanh đó. Nhưng anh vẫn nghe thấy cô ta. Tiếng than khóc của cô ta trở nên to hơn, cho đến khi anh không thể nào nghe thấy nổi chính ý nghĩ của mình nữa. Bị lấn át, anh gục đầu xuống bàn và dâng tặng bản thân mình cho sự lôi kéo của người phụ nữ này.
Sau đó, mọi thứ cứ như thể anh đang mơ. Anh biết anh vẫn đang ngồi, đầu anh vẫn đặt trên bàn, nhưng cùng lúc đó, anh lại đang cố gắng để đứng dậy. Khi cuối cùng anh cũng ở trên đôi chân của mình, sàn nhà dường như đổ sụp xuống ở bên dưới anh. Anh cảm thấy nhẹ bẫng, cứ như thể anh đang nổi bồng bềnh, Sau đó anh chìa tay ra và thấy, thề có danh dự của mình, tay anh dường như đã mất đi những vật chất tạo thành nó. Anh có thể nhìn xuyên qua tay mình. Loạng choạng hướng về phía cánh cửa, anh cố để gọi với ra, nhưng không có âm thanh nào thoát ra khỏi miệng. Khi anh nhìn, cánh cửa dường như cũng đổ sụp, biến mất, và cùng với nó là cả căn phòng. Trong một khoảnh khắc Nicholas dường như chẳng đứng trên bất cứ một cái gì hết. Có một giọng nói ở quanh anh, cơ thể anh không là gì hết ngoại trừ một cái bóng mờ màxuyên qua nó anh có thể nhìn thấy được màn đêm đen tối của chốn hư vô.
Anh không biết mình trôi dạt bao lâu trong cái không có gì hết này, cảm thấy không nóng cũng không lạnh, không nghe thấy gì ngoại trừ tiếng than khóc sâu thẳm của người phụ nữ.
Một khoảnh khắc trước anh còn không ở đâu, không là gì ngoại trừ một cái bóng, và khoảnh khắc tiếp theo anh đã lại đang đứng trong ánh nắng trong một nhà thờ. Anh đã mặc một bộ quần áo khác. Giờ thì anh đang mặc áo giáp che phủ thân trên, cái áo giáp anh chỉ mặc trong những dịp lễ hội cầu điềm lành, và anh còn mặc cái quần ống túm bằng xa tanh màu ngọc lục bảo của mình.
Phía trước anh, khóc than cạnh ngôi mộ là một cô gái hay một người phụ nữ, anh không thể nói chắc được, vì mái tóc của cô ta đã xõa xuống che kín cả khuôn mặt nhếch nhác. Cô ta khóc than thật dữ dội, nhiệt tình theo đuổi nỗi sầu khổ của mình đến độ còn không nhìn thấy anh.
Mắt của Nicholas di chuyển khỏi cô ta để nhìn lên ngôi mộ cô ta đang bám chặt lấy—và chính khung cảnh của ngôi mộ khiến anh bước lùi lại một bước. Trên mặt nó là một bức tượng điêu khắc bằng cẩm thạch trắng của… chính anh. Được khắc bên dưới là tên anh và ngày tháng của hôm nay. Họ đã chôn mình trước khi mình chết? Anh tự hỏi, đầy kinh khiếp.
Cảm thấy buồn nôn từ những gì anh đã phải trải qua và thấy tận mắt ngôi mộ của chính mình, anh nhìn quanh nhà thờ. Có những tấm bia được gắn trên tường. Đọc những năm tháng, 1734, 1812, 1902.
Không, anh nghĩ, không thể nào. Nhưng khi anh nhìn quanh nhà thờ anh có thể thấy rằng mọi thứ đều đổi khác. Nhà thờ trông rất đơn sơ. Những thanh xà nhà là gỗ thường; những tay đỡ bằng đá không được sơn. Khăn trải trên bệ thờ trông như thể nó đã được thêu bởi một đứa trẻ vụng về.
Anh nhìn lại xuống người phụ nữ đang thổn thức. Phù thủy! Anh nghĩ. Cô ta là ả phù thủy đã gọi, kéo anh đến một thời gian và nơi chốn khác. Khi cô ta cuối cùng cũng ngừng cơn thổn thức lâu đủ để nhận biết được sự hiện diện của anh, anh ngay lập tức yêu cầu cô ta đưa anh trở lại—anh phải quay trở lại, anh nghĩ, vì danh dự của anh và tương lai của gia đình anh phụ thuộc vào sự trở lại này. Nhưng trước những lời của anh, cô ta lại một lần nữa lại phủ phục xuống trong cơn thổn thức vô vọng.
Anh không mất quá lâu để phát hiện ra cô ta tính tình khó chịu và miệng lưỡi sắc nhọn cũng như xấu xa. Cô ta thậm chí còn trơ tráo đến độ nói rằng cô ta không biết làm cách nào anh đến được nơi này, và cô ta chẳng biết tí gì việc tại sao anh lại ở đây.
Cuối cùng cô ta cũng rời nhà thờ và Nicholas cảm thấy nhẹ cả người khi cô ta đi. Anh cảm thấy vững vàng hơn, và anh bắt đầu tin rằng mình đã nằm mơ thấy việc bay qua cái nơi trống rỗng ấy. Có lẽ tất cả những gì anh đang trải qua chỉ đơn giản là một giấc mơ giống y như thật một cách phi thường.
Khi anh rời nhà thờ, anh cảm thấy khoẻ khoắn hơn, và anh cũng mừng vui khi thấy khu đất nhà thờ này trông giống hệt như bất cứ tất cả các khu đất nhà thờ nào khác—nhưng anh không dừng lại để kiểm tra ngày tháng trên mấy tấm bia mộ. Một trong mấy tấm trong nhà thờ đã ghi năm 1982—một năm mà anh không thể nào hiểu nổi.
Anh rời đi qua cổng nhà thờ và bước tới con đường lặng yên. Mọi người đâu hết cả rồi? anh tự hỏi. Và cả lũ ngựa nữa? Những cỗ xe bò hai bánh chở hàng hoá đâu rồi?
Chuyện xảy ra tiếp theo diễn ra quá nhanh đến nỗi anh không thể nào nhớ chính xác được. Có một âm thanh ở bên trái anh, một âm thanh ầm ĩ và nhanh mà anh chưa bao giờ nghe thấy trước đây; sau đó, bên phải anh, cô ả phù thủy lao đến, chạy nhanh hơn một người phụ nữ nên chạy. Nicholas chẳng chuẩn bị gì khi cô ta lao vào anh. Anh còn yếu hơn là mình tưởng vì cái sức nặng mỏng manh của cô ta đã hạ anh nằm thẳng cẳng xuống nền đất.
Ngay giây phút sau khi họ ngã xuống đất với nhau, thật gần bởi tiếng ầm ầm của cỗ xe không ngựa kéo lao vụt qua. Sau đó, Nicholas đã hỏi người phụ nữ và cha xứ—người ăn mặc một cách đúng mực không tô son điểm phấn trong một bộ áo chùng dài phù hợp với địa vị của ông—những câu hỏi, nhưng họ có vẻ tin là Nicholas đã bị điên rồi. Anh cho phép ả phù thủy đó dẫn anh vào lại trong khu đất của nhà thờ. Đây là định mệnh của anh sao? Phải chăng số mệnh của anh là chết một cách cô độc ở một nơi lạ lẫm… trong một thời gian lạ lẫm?
Anh đã cố gắng giải thích cho ả phù thủy đó rằng cô ta phải đưa anh ngược trở lại về thời gian của anh. Anh đã nói cho cô ta yêu cầu của anh, nhưng cô ta cứ cố chấp giả vờ rằng cô ta không biết tại sao hay làm cách nào anh lại ở nơi này. Anh đã rất khó khăn mới hiểu được ngôn từ của cô ta, và điều đó, cộng với bộ váy áo tầm thường của cô ta—không đồ trang sức, không vàng, không bạc—nói với anh rằng cô ta thuộc hạng cùng đinh. Bởi vì ngôn từ kỳ quặc của cô ta, phải mất một lúc anh mới hiểu rằng cô ta đang cầu xin tiền bạc từ anh. Cô ta đang đòi hỏi từ anh một món tiền lớn quá chừng, tận những mười bảng. Nhưng anh không dám từ chối những yêu sách của cô ta vì sợ những câu thần chú khác cô ta có thể thi hành.
Ngay giây phút có tiền, cô ta rời đi, và Nicholas đi lại vào trong nhà thờ. Chậm rãi, anh bước đến ngôi mộ, ngôi mộ của anh, và lướt những ngón tay qua ngày chết đã được khắc. Anh đã chết khi du hành xuyên qua khoảng không đó ư? Khi ả phù thủy đó triệu hồn anh tới thời điểm này—người của nhà thờ đó đã nói giờ là năm 1988, bốn trăm hai mươi năm sau—điều đó có nghĩa là cô ta đã giết chết anh vào năm 1564 ư?
Làm cách nào anh có thể khiến cô ta hiểu rằng anh phải quay trở lại đây? Nếu anh đã chết vào mùng sáu tháng chín năm 1564, điều đó có nghĩa là anh đã chẳng chứng minh được gì hết. Điều đó cũng sẽ có nghĩa anh đã để lại quá nhiều việc chưa được hoàn thành. Điều khủng khiếp gì sẽ rơi xuống đầu những người anh đã bỏ lại phía sau đây?
Nicholas quỳ sụp xuống sàn đá lạnh lẽo và bắt đầu cầu nguyện. Có lẽ nếu lời cầu nguyện của anh mạnh như phép thuật của mụ phù thủy đó, anh có thể sẽ chế ngự được quyền lực của mụ ta và tự mình quay trở lại.
Nhưng khi anh cầu nguyện, tâm trí anh lại chạy đua. Một lời nói chạy qua đầu anh: Cô gái đó là chìa khoá. Con cần phải biết. Những lời đó anh nghe lặp đi lặp lại.
Sau một lúc anh dừng việc cầu nguyện và mở rộng tâm trí của mình để suy nghĩ. Phù thủy hay không, cô ta cũng đã mang anh tới đây, thế nên chỉ cô ta mới có quyền lực để đưa anh trở lại với thời gian của mình.
Chưa hết, sau tất cả cô ta đã đem anh tới đây, và cô ta hình như vẫn chưa sử dụng anh vào việc gì. Có lẽ, Nicholas nghĩ, cô ta không cố ý gọi anh tới đây. Có lẽ cô ta có một quyền lực vĩ đại, nhưng không biết sử dụng nó.
Nhưng, lại một lần nữa, có lẽ anh bị kéo ngang qua dòng thời gian vì một vài lý do nào đó không ai trong số hai bọn họ hiểu được.
Vậy thì sao anh lại bị kéo đến đây? Anh tự hỏi. Anh phải học được điều gì đó ư? Ả phù thủy đó sẽ dạy anh điều gì ư? Liệu có thể nào cô ta vô tội như cô ta vẫn khẳng định? Cô ta đã khóc lóc thở than vì một cuộc cãi vã hết sức cơ bản với người yêu, và vì một lý do nào đó không ai trong số họ biết, cô ta đã triệu hồn anh tới cái tuyến thời gian nguy hiểm này, nơi xe ngựa được kéo chạy với một tốc độ không thể nào tưởng tượng nổi? Nếu anh học được điều anh cần phải học ở đây, anh sẽ quay về được thời gian đúng đắn của mình?
Ả phù thủy đó là chìa khoá. Những từ ngữ đó cứ tiếp tục chạy qua tâm trí anh. Dù cô ta có mang anh tới đây vì những mục đích hiểm độc hay bởi một tai nạn không may, anh chắc chắn rằng cô ta nắm giữ quyền lực để đưa anh quay về. Và nếu điều đó là đúng, vậy thì, qua cô ta, anh sẽ học điều anh phải học ở thời gian này.
Anh sẽ phải trói buộc cô ta vào với mình, anh nghĩ. Bất kể nó đáng giá sự yên ổn trong tâm hồn anh đến chừng nào, kể cả nếu anh phải nói dối, vu khống, lăng mạ, anh biết rằng anh sẽ phải trói buộc người đàn bà đó vào anh. Anh sẽ phải cân nhắc đến chuyện đó, rằng cô ta sẽ không rời bỏ anh cho đến khi anh tìm ra được điều anh cần được biết từ cô ta.
Anh tiếp tục quỳ gối, cầu nguyện cho sự dẫn dắt của Chúa, cầu xin những lời khuyên bảo, và nài xin Chúa ở bên cạnh anh khi anh làm những việc anh bắt buộc phải làm, và học những điều anh cần phải biết.
Khi người đàn bà đó quay lại nhà thờ, Nicholas vẫn đang cầu nguyện, và trong khi cô ta vẫn tiếp tục kêu ca về số tiền Nicholas đã đưa, anh cảm ơn Chúa vì đã cho cô ta quay trở lại.