Mất đi
quá nhiều rồi cũng sẽ quen nhưng Hướng Viễn bỗng thấy vô cùng sợ thói
quen ấy. Cô sợ lỗ hổng trong tim mình. Phải dùng thứ gì mới có thể lấp
đầy được nó đây?
Ở thành phố này, Hướng Viễn cũng không biết đã bao lâu rồi
mình không nhìn thấy mặt trăng. Cho dù có nhìn thấy đi chăng nữa thì nó
cũng đã bị ảm đạm, nhợt nhạt dưới ánh đèn neon. Cô bám vào tay vịn cầu
thang trơn tuột lạnh lẽo, bước từng bước lên lầu, không hiểu vì sao hôm
nay cô chìm vào hồi ức quá dễ dàng. Có lẽ hôm nay nhiều người đã vô tình cố ý lật giở những chuyện trước kia chăng.
Bức tường cạnh cầu
thang vốn treo đầy những bức ảnh của nhà họ Diệp: ảnh chụp cả nhà, có
Diệp Khiên Trạch thời niên thiếu, có cha mẹ anh, có cả Diệp Quân. Hai
năm trước, Hướng Viễn đã bảo dì Dương - người giúp việc lâu năm cho nhà
họ Diệp - thu dọn tất cả xuống để dẹp vào căn gác lửng. Dì Dương làu
bàu, cằn nhằn suốt mấy ngày nhưng cuối cùng cũng chẳng dám nói nhiều
trước mặt Hướng Viễn. Sao cô lại không biết bà đang suy nghĩ gì? Nói cô
bạc tình cũng được, nhẫn tâm cũng chẳng sao, người đã đi rồi, giữ lại
những bức ảnh này liệu còn có ý nghĩa gì nữa?
Dì Dương đã già,
bà cũng giống như những người khác, lúc nào cũng thích nhắc đến nhà họ
Diệp như thể đó là một gia tộc vô cùng phồn thịnh. Thực ra những người
nhà họ Diệp cũng chẳng có mấy người, người thì chết, kẻ thì ốm đau,
người thì bỏ đi, kẻ lại mất tích, cuối cùng chỉ còn lại một người ngoài
là cô.
Căn phòng đầu tiên ngay đầu cầu thang của dãy hành lang
dài chính là phòng đọc của Diệp Khiên Trạch. Trước khi Hướng Viễn đến
đây, lúc nào cô cũng thấy ánh đèn lóe ra từ cửa căn phòng khép hờ ấy,
thời gian anh ở trong đó nhiều hơn bên cô rất nhiều. Ngay sát phòng đọc
chính là phòng của Diệp Linh, Diệp Linh mất sau khi Hướng Viễn về làm
con dâu nhà họ Diệp được ba năm. Từ đó, trong mấy năm khi Khiên Trạch
vẫn còn ở đây, căn phòng này trở thành cấm địa, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm, bây giờ đến cả dì Dương nếu không có chuyện gì bất đắc dĩ lắm thì
cũng không bao giờ chịu bước vào. Tuy Diệp Linh là do một tay bà nuôi
nấng nhưng bà nói, mỗi lần vào căn phòng đó đều cảm thấy âm u đáng sợ.
Hướng Viễn thấy nực cười, cô chưa từng tin quỷ thần bao giờ nhưng cô nhớ rõ lúc ấy, máu thấm đẫm người Diệp Linh, chảy đầy ra sàn, vấy đầy tay
cô, vẫn còn có hơi ấm và vị tanh tanh, rửa thế nào cũng không sạch. Một
ký ức như thế, dù là ai cũng không muốn nhắc đến, đó cũng là lý do cô
rất hiếm khi mở cánh cửa phòng ấy.
Cha mẹ Khiên Trạch vốn ở
trong phòng ngủ chính nhưng sau khi con trai kết hôn, họ đã chuyển đến
căn phòng lớn ở phía nam. Bà Diệp là kế mẫu của Khiên Trạch, đã qua đời
vì bệnh ung thư dạ dày. Trong ấn tượng của Hướng Viễn, đó là một phụ nữ
trầm lặng, dạy mỹ thuật ở trường đại học. Bà không phải mẹ ruột của
Khiên Trạch nhưng giống như những người nhà họ Diệp khác, trên người bà
luôn phảng phất sự cảm tính và nét dịu dàng ấm áp.
Những năm
này, người gần gũi với Hướng Viễn trong Diệp gia lại là bố chồng cô -
Diệp Bỉnh Lâm - nhưng sức khỏe ông không được tốt, đã bị trúng gió mấy
năm nay, vào bệnh viện rồi không ra nữa. Hiện tại, Hướng Viễn thường đến bệnh viện mỗi tuần một lần, một là thăm hỏi tình hình sức khỏe của ông, hai là báo cáo mang tính tượng trưng mọi việc ở Giang Nguyên. Người nhà họ Diệp đều hồn hậu lương thiện, không tranh đoạt với người đời lại vui vẻ dễ gần nhưng chẳng ai có kết cục tốt đẹp, điều này càng khiến Hướng
Viễn khinh bỉ thần Phật hơn, cho dù họ có tồn tại cũng chỉ là vô ích.
Phải rồi, còn có Diệp Quân, cậu ấy cũng có dòng máu nhà họ Diệp. Cậu ấy
vốn là đứa con trai nhỏ của Diệp gia nhưng sau khi lên đại học đã chuyển ra ngoài ở. Có lẽ trong lòng cậu ấy nhận thấy mình không phải là một
thành viên thật sự trong ngôi nhà này.
Hướng Viễn tắm rửa xong,
ngồi trước bàn trang điểm rồi lấy chiếc ví da trong túi xách ra. Cô lấy
hết tiền bạc trong đó ra rồi chăm chú đếm qua một lượt, cẩn thận vuốt
từng nếp nhăn trên mỗi tờ tiền, sắp xếp cẩn thận rồi kẹp lại vào trong
ví, sau đó mới rửa tay đi ngủ.
Đó là thói quen từ nhỏ của cô,
bắt buộc phải đếm kỹ một lần toàn bộ tiền mặt có trong người một lượt
mới có thể xem như là tổng kết cuối cùng trong ngày. Hiện tại, cô không
còn phải chắt bóp từng xu từng hào để sống qua ngày như xưa nhưng cô là
một người luôn giữ thói quen, hoặc có lẽ là chuyện này đã trở thành một
dạng nghi thức trong lòng, quan trọng ngang với việc mẹ ruột của Khiên
Trạch mỗi ngày đều trở dậy từ sớm tinh mơ để thắp hương khấn Phật vậy.
Kỳ thực, tiền cũng là một thứ ấm áp, Hướng Viễn luôn nghĩ vậy, có nó
rồi, cô mới thấy trái tim của mình trở nên vững chắc. Nó còn đáng tin
cậy hơn nhiều thứ trên thế gian này, một trăm là một trăm, một nghìn là
một nghìn, không khó xác định số lượng như những thứ mơ hồ khác; nó lại
công bằng hơn rất nhiều thứ nữa, bạn bỏ ra bao nhiêu thì sẽ đổi lại được bấy nhiêu.
Tiền thì có gì không tốt đâu? Ít nhất là có nó rồi
mới có tư cách coi tiền tài như rác rưởi. Bao người lừa lọc ranh ma,
không cần sĩ diện, chẳng qua cũng vì tiền cả. Hướng Viễn nhớ lúc ở công
ty, có một cuộc điện thoại trong văn phòng, thư ký nghe máy, không biết
là ai nhưng vì đối phương nhắc đến một số chuyện của Diệp Khiên Trạch
nên thư ký không dám giấu cô.
Giọng đàn ông khàn khàn vang lên ở đầu dây bên kia: “Bà Diệp, chúng ta vào đề luôn nhé. Tôi nghĩ chắc bà
luôn quan tâm đến tung tích của ông nhà, chi bằng chúng ta thực hiện một cuộc giao dịch đi”.
Hướng Viễn khi ấy đã cười không thành
tiếng. Sau khi Khiên Trạch mất tích, không biết cô đã nhận bao nhiêu
cuộc điện thoại kiểu này. Có người bóng gió xa gần, có kẻ lại nói toạc
móng heo nhưng đều là muốn có tiền cả. Cô không quan tâm chuyện tiền bạc nhưng chẳng có ai cho cô chút hy vọng nào.
“Giao dịch với tôi? Phải xem ông dựa vào cái gì đã chứ”, cô nói.
“Dựa vào cuộc điện thoại cuối cùng ông Diệp gọi cho bà. Ông ấy đã nói gì, chắc bà không đến nỗi quên rồi chứ?”
Nụ cười trên gương mặt Hướng Viễn dần tắt lịm. Sao cô quên được cuộc
gọi đó. Trong danh sách cuộc gọi của chiếc di động đặt trên đầu giường
cô hơn bốn năm luôn giữ lại số điện thoại đó. Thời gian gọi bốn mươi
chín giây, đó là câu cuối cùng anh nói với cô, đến chết cô cũng không
quên.
Cô lên tiếng với gã đàn ông kia bằng vẻ bình thản: “Cuộc
điện thoại ông nói không đáng giá chút nào. Nếu thật sự có tin tức về
anh ấy, chắc ông phải biết làm thế nào mới thuyết phục được tôi tin ông
đúng không? Tôi đợi ông liên lạc lại”.
Hướng Viễn nói xong thì
gác máy. Cô là người làm ăn, đương nhiên biết rõ người bán bao giờ cũng
nóng ruột hơn kẻ mua. Cô không biết thế giới này thật sự có người biết
được tung tích của Khiên Trạch hay không nhưng quan tâm nhiều ắt sẽ
loạn, cô bắt buộc phải bình tĩnh.
Trước khi chìm vào giấc ngủ, cô nhủ thầm: “Hướng Viễn, đừng nằm mơ”.
Nội dung bài viết đã hiển thịĐêm ấy, Hướng Viễn không được như ý
nguyện, chẳng những cô đã chìm vào một giấc mơ dài mà giấc mơ ấy còn
quay lại nhiều năm về trước. Mỗi gương mặt, mỗi đoạn một cảnh rời rạc
trong mơ đều tươi mới đến bất ngờ. Rất nhiều lần, khi tỉnh táo, cô đã
từng cố gắng hồi tưởng nhưng không thể rõ ràng, sắc nét như trong mơ.
Năm ấy vào ngày đầu tiên của tháng Mười, tuần lễ hoàng kim nghỉ dài vừa bắt đầu đã khiến thôn quê nhỏ của Hướng Viễn trở nên náo nhiệt lạ
thường. Người trong thành phố nườm nượp kéo đến, có người trong tỉnh,
cũng có người từ các tỉnh ngoài, trong số đó còn có cả những du khách
ngoại quốc tóc vàng. Tuy đã qua khoảng thời gian hoa cải nở vàng rực rỡ
vào tháng Ba nhưng những du khách vẫn lôi máy ảnh ra chụp lách tách
không ngừng, cây hòe già ngay cổng thôn, những ngôi nhà ngói cũ kỹ của
người dân và cả những cụ già ngồi trước nhà, họ đều thấy mới lạ, thú vị. Bước chân của họ đạp lên những ngọn cỏ dại mọc ven đường, đạp nát cả
vườn rau của người dân. Có điều, người trong thôn không còn chấp nhặt
chuyện đó nữa, những năm đó, phong cảnh đặc trưng của thôn trang trở nên nổi tiếng khắp nơi. Ngành du lịch đã mang đến cơ hội làm ăn cho thôn
quê vốn khép kín trước kia, không ít người dân tinh khôn đã biết cách
kiếm ăn từ những người “thành thị sành điệu” này, họ bắt đầu làm công
việc hướng dẫn nửa mùa, những tiệm ăn Nông Gia Lạc và nhà nghỉ mọc lên
như nấm. Tất nhiên, người nghĩ đến vấn đề kiếm tiền này từ trước đó rất
lâu chính là Hướng Viễn - cô con gái lớn của nhà họ Hướng. Từ khi cô học cấp hai, những người từ nơi khác đến thôn chẳng ai là không biết đến cô bé hướng dẫn viên hoạt bát, miệng lưỡi nhanh nhẹn cùng nụ cười tươi rói này. Đến bây giờ, bản lĩnh của cô vẫn không ai bì được, nhà nghỉ gia
đình của gia đình cô cũng làm ăn rất phát đạt.
Hôm ấy, Hướng
Viễn dậy từ sớm. Lúc cô dọn dẹp mọi thứ để chuẩn bị đi, mặt trời vẫn còn e ngại phía bên kia ngọn núi, Hướng Dao vẫn còn lười biếng trên giường. Hướng Viễn đứng ở cửa gọi to một tiếng: “Phải dậy rồi đấy, nấu cơm đi,
không chừng lát nữa sẽ có du khách đến ở đấy”.
Nói dứt câu,
không đợi phản ứng của Hướng Dao, cô đã vội vã bỏ đi. Một lúc sau, Hướng Dao làu bàu một tiếng, cho dù cơn mê ngủ vẫn còn nhưng không thể không
dậy. Hướng Dao vừa lên lớp sáu của cấp tiểu học, hôm nay là ngày nghỉ lễ đầu tiên. Giống như những cô bé cùng tuổi khác, cô chúa ghét dậy sớm,
chỉ ước được nằm trên giường ngủ một giấc say sưa quên cả đất trời nhưng chẳng còn cách nào khác, cô đành phải nghe lời Hướng Viễn thôi.
Từ nhỏ, Hướng Dao đã sợ Hướng Viễn. Có lẽ là do mẹ qua đời sớm, chị cả
là mẹ nên từ nhỏ Hướng Viễn làm việc gì cũng linh hoạt nhanh nhẹn, trở
thành trụ cột trong nhà. Cha của họ - Hướng Vân Sinh - là thanh niên trí thức ở thành phố, cưới một cô gái trong thôn, sau khi có con cũng cam
tâm ở lại bám trụ mảnh đất này.
Hướng Vân Sinh thời trẻ là một
người đa tài đa nghệ, đọc rất nhiều sách, viết chữ đẹp, còn biết kéo nhị hồ, thêm vào đó là tướng mạo tuấn tú nên không biết đã cuốn hút biết
bao cô gái trong thôn. Cuối cùng, người trở thành vợ ông, cũng chính là
mẹ của Hướng Viễn, Hướng Dao là một cô gái nhanh nhẹn, xinh đẹp nổi
tiếng gần xa. Sau khi kết hôn, Hướng Vân Sinh và vợ rất tâm đầu ý hợp.
Khi biết vợ mình không thể có hộ khẩu thành phố, ông cũng từ bỏ cơ hội
trở về thành phố, tự nguyện chân lấm tay bùn cả một đời ở nơi thôn quê
hẻo lánh này. Chuyện này đã trở thành một giai thoại trong thôn. Tình
cảm của Hướng Dao với ông cũng rất gắn bó, có lẽ người thờ ơ với chuyện
đó chỉ có mỗi Hướng Viễn.
Đối với Hướng Viễn mà nói, ông bố
Hướng Vân Sinh của cô vai không thể vác, tay không thể xách, đến gánh
nước cũng lảo đảo không vững. Lúc mẹ cô còn sống, moi việc đều do bà
gánh vác. Vì lao động trong nhà ít, những thứ có thể trồng trọt được
cũng không nhiều, bởi vậy lúc Hướng Viễn còn nhỏ, nhà họ luôn là hộ
nghèo nhất trong thôn. Cô không bao giờ quên được buổi hoàng hôn ấy, mẹ
vừa hạ sinh cặp song sinh không lâu đã phải cắn răng, gương mặt trắng
bệch đi gánh nước, nước văng ra ướt cả đoạn đường, còn Hướng Vân Sinh
lại ngồi dưới gốc cây trước cửa nhà kéo nhị hồ. Thần thái chìm đắm trong mộng của ông khiến cô bé Hướng Viễn vô cùng phẫn nộ, cô ao ước mình có
thể trưởng thành ngay để đỡ hộ gánh nặng trên vai mẹ, rồi vứt cả cây nhị hồ phiền phức đáng ghét kia đi.
Thế nhưng, cho dù mẹ cô có khổ sở, vất vả đến mấy thì ánh mắt nhìn theo người đàn ông ở trước cửa kia vẫn là nét mê đắm.
Hướng Viễn không thể hiểu nổi sự mê đắm ấy.
Từ nhỏ cô đã cảm thấy bố mình là một người vô dụng, chỉ biết có phong
hoa tuyết nguyệt. Năm cô mười tuổi, Hướng Dao, Hướng Dĩ bốn tuổi, mẹ cô
bị bệnh liệt giường, sau đó rũ tay mà đi, ý nghĩ này của cô càng ăn sâu
gốc rễ hơn. Cô tin rằng nếu không phải do cuộc sống quá vất vả thì mẹ cô sẽ không ra đi sớm như vậy. Mà lúc mẹ cô bị bệnh, người đàn ông ấy
ngoài việc nắm chặt tay bà khóc lóc ra thì chẳng làm được trò trống gì.
Chỉ là cảm xoàng rồi viêm phổi nhưng vì không có tiền vào bệnh viện nên
cứ nằm lay lắt ở nhà. Một căn bệnh bình thường như thế đã lấy đi mạng
sống của một phụ nữ chưa đến ba mươi tuổi cũng khiến ba đứa trẻ nhà họ
Hướng mất đi người mẹ.
Những năm tháng sau khi vợ qua đời, Hướng Vân Sinh vẫn không thể hồi phục sau nỗi đau mất vợ, tiếng đàn nhị hồ
ông kéo mỗi lúc một bi thương, rượu uống càng lúc càng nhiều hơn. Lúc
ấy, trưởng lão trong thôn cũng khuyên ông nên tục huyền, ông chỉ cười
nhạt một tiếng rồi từ chối ngay mà không hề do dự. Mọi người đều khen
ông là một kẻ si tình. Hướng Vân Sinh luôn nói với các con rằng: thư trung tự hữu hoàng kim ốc, thư trung tự hữu nhan như ngọc (sách là người thầy vĩ đại của chúng ta) nhưng ông chưa từng nghĩ đến
chuyện tiền học phí của các con từ đâu ra, nếu không vượt qua được cơn
khốn khó này thì phải làm sao? Cô bé Hướng Viễn mười tuổi chỉ còn cách
dắt cậu em trai Hướng Dĩ đi khắp nơi mượn tiền họ hàng thân thích. Hướng Dao từ nhỏ da mặt mỏng, cô giống Hướng Vân Sinh, không muốn làm những
chuyện như vậy; chỉ có Hướng Dĩ, từ bé đã luôn lẽo đẽo theo chị cả,
Hướng Viễn đi đâu là cậu theo đó. Hàng xóm thấy hai đứa bé đáng thương,
cộng thêm Hướng Viễn hiểu chuyện lanh lợi, Hướng Dĩ ngoan ngoãn hiền
lành, đều là những đứa trẻ khiến mọi người phải thương xót nên dù nhà họ cũng không dư dả gì nhưng cũng luôn đồng ý tiếp tế.
Người đối
đãi tử tế nhất với nhà họ chính là thím Trâu ở cuối thôn. Khi mẹ mất,
quần áo của chị em Hướng Viễn đều do thím khâu vá. Hướng Viễn cũng nghe
thấy một số lời đồn đại, những người hiếu kỳ trong thôn đều nói, thím
Trâu trước khi lấy chồng đã yêu Hướng Vân Sinh, chỉ tiếc là lạc hoa hữu
ý, lưu thủy vô tình. Sau khi Hướng Vân Sinh cưới vợ, thím cũng được gả
cho một thanh niên trí thức khác mang họ Diệp trong thôn. Sau khi hạ
sinh một cậu con trai, trí thức họ Diệp quyết định trở lại thành phố,
trước khi đi còn ấp úng đề nghị ly hôn, thím cũng không làm khó, đồng ý
ngay. Không lâu sau, thím tái giá một người đàn ông họ Trâu, hai người ở với nhau cũng sinh ra một cậu nhóc. Vài năm sau, chồng cũ ở thành phố
quay về dẫn cậu con trai lớn đi, thím ở lại với người chồng sau và đứa
con nhỏ của hai người nhưng việc này không làm thay đổi tình cảm của
thím Trâu dành cho chị em Hướng Viễn.
Hàm nghĩa trong những lời
đồn đại đó, Hướng Viễn cũng hiểu được ít nhiều nhưng cô mặc kệ. Đối với
cô, những lời nói nước chảy mây trôi đó cũng như tình cảm, đều là hư ảo, nhưng lòng hảo tâm của thím Trâu là có thật. Thậm chí cô còn tin rằng,
thím Trâu giỏi giang lương thiện giúp đỡ nhà cô không phải là vì yêu
thầm ông bố vô dụng của cô mà do thím tin Phật. Hướng Viễn tuy không tin Phật nhưng cô có thiện cảm kỳ lạ với những người tin Phật, vì điều gì
thì chỉ mỗi cô biết.
Và cứ như thế, dựa vào sự tiếp tế của mọi
người, khoảng thời gian thơ ấu của Hướng Viễn đã trôi qua trong khó khăn vất vả nhưng cũng may là vẫn còn được đi học. Đây là điều duy nhất
khiến Hướng Viễn thấy cảm kích bố mình, tuy ông không có tiền nhưng cũng không có quan niệm trọng nam khinh nữ.
Bắt đầu tuổi ăn tuổi
lớn, Hướng Viễn đã là trụ cột trong ngôi nhà làm nghề nông này nhưng dù
gì cô vẫn còn nhỏ tuổi, lại là con gái nên những chuyện có thể làm vẫn
có hạn. Cũng may sau khi ngành du lịch trong thôn phát triển, người
ngoài đến thôn mỗi ngày một nhiều nên cô đã nghĩ ra ý định kiếm tiền từ
du khách. Lúc học lớp tám, cô đã dẫn đường cho du khách đi một vòng ra
sau núi, kiếm được mười tệ đầu tiên trong cuộc đời, nửa đêm giữ khư khư
không ngủ nổi, từ đó cô bắt đầu công cuộc làm ăn của mình.
Lúc
đầu, người trong thôn còn cảm thấy kỳ quặc, nói rằng không phải là nghề
nghiệp chính đáng nhưng nhìn thấy người đến quá đông, Hướng Viễn cũng
kiếm được mỗi lúc một nhiều nên họ từ ngưỡng mộ chuyển sang bắt chước,
“ngành du lịch” của cả thôn mấy năm ấy bắt đầu khá lên rõ rệt.
Trong suốt thời gian đó, Hướng Vân Sinh luôn giữ thái độ không tán đồng. Ông không thích con gái mình làm cái chuyện “đầu cơ tích trữ”, “ruồi bu vớ vẩn” này, càng không thích hạ mình với những người thành phố chỉ để
kiếm vài đồng bạc nhưng ông không thể quản lý nổi Hướng Viễn bởi trên
thực tế, từ ngày kiếm được thu nhập cho gia đình, Hướng Viễn đã trở
thành chủ gia đình. Chính cô đã giúp người nhà không cần dựa vào tiếp tế để sống qua ngày nữa, là cô đã giúp em gái, em trai được đi học. Định
nghĩa “cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc” đã khiến một hộ
làm nông nhỏ bé thấy thấm thía vô cùng.
Những du khách nườm nượp kéo đến rồi đi đã khiến cuộc sống nhà Hướng Viễn mỗi lúc một khá hơn,
cô tin rằng sẽ còn tốt đẹp hơn nữa, còn về tốt đến mức độ nào thì cô
không tưởng tượng được. Nhưng cũng như hàm nghĩa từ “viễn” trong tên cô, trái tim của cô cũng ở một nơi xa xăm. Một người như cô sao có thể bị
bó buộc cả đời ở một thôn quê nhỏ bé được? Cô sẽ vươn dài đôi cánh, bay
ra khỏi thôn quê nhỏ bé này, hướng về một thế giới to lớn hơn đẹp đẽ
hơn, bay đến cạnh người mà cô luôn nhớ nhung.
Thế nhưng, đúng vào lúc mọi thứ đang trở nên tốt đẹp hơn, cũng là năm Hướng Viễn mười sáu tuổi, cô đã mất đi em trai Hướng Dĩ mà cô yêu
thương nhất.
Đó là một buổi hoàng hôn, Hướng Dĩ dắt theo chú chó vàng già trong nhà, đến đầm Gà Rừng trong thôn để gọi cô chị song sinh
Hướng Dao đang chơi đùa ở đó về nhà ăn cơm, từ đó không quay về nữa. Hai hôm sau, thi thể của cậu nổi lên giữa mặt đầm, căng phềnh những nước,
trương lên giống một con rối được thổi phồng hơi vậy.
Đó là lần
thứ hai Hướng Viễn mất đi người thân yêu nhất sau khi mẹ cô qua đời.
Hướng Dĩ từ nhỏ thân thiết với cô nhất, Hướng Dĩ ngoan ngoãn hiểu chuyện nhất, Hướng Dĩ thích nũng nịu kéo dài từ cuối khi gọi “chị ơi”, đã trở
thành một “con rối” không động đậy rồi.
Lúc vớt Hướng Dĩ lên
khỏi đầm nước, Hướng Vân Sinh khóc lóc thảm thiết, còn Hướng Dao ốm liệt giường ở nhà, chỉ mỗi Hướng Viễn không khóc, lúc ấy cô gái mười sáu
tuổi Hướng Viễn bình tĩnh lo cho Hướng Dĩ dưới sự giúp đỡ của người thân trong thôn. Buổi tối, bất chấp sự ngăn cản của Hướng Vân Sinh và tiếng
khóc của Hướng Dao, cô đốt sạch tất cả quần áo và một số ít hình ảnh của Hướng Dĩ. Người đã chết rồi, còn giữ lại những thứ này làm gì nữa?
Buổi tối, một mình cô trèo lên đỉnh ngọn núi phía sau thôn, đứng ở nơi
cao nhất nhìn về phía bên kia của núi, chỉ thấy ánh trăng vàng vọt treo
lơ lửng trên cao. Ngoài thôn là xã, ngoài xã là thị trấn, còn thế giới
ngoài thị trấn nữa là gì? Mặt trăng có khi nào cũng lớn và cô độc như
vòng phân cấp ấy? Tâm nguyện lớn nhất của Hướng Dĩ là sau khi trưởng
thành sẽ vượt núi non ra bên ngoài ngắm nhìn mọi thứ, cậu luôn bám theo
Hướng Viễn, bắt chị dẫn cậu đi, đó là lúc duy nhất cậu đòi hỏi chị mình
như thế. Thực ra khi ấy, nơi xa nhất mà Hướng Viễn đi được cũng chỉ là
thị trấn cách đó hơn mười dặm, thậm chí cô còn không biết ngồi xe ra
khỏi nơi núi non này tốn hết bao nhiêu tiền, nên cô mới đanh mặt lại với Hướng Dĩ, cậu bé ngoan ngoãn ấy tưởng chị mình tức giận, lúc nào cũng
im miệng không nói gì nữa.
Cô ngỡ cái cô cần nhất chẳng qua chỉ
là thời gian, đợi khi cô mọc dài đôi cánh rồi sẽ đưa người thân của mình cùng đi ngắm thế giới hào nhoáng bên ngoài kia. Thế nhưng tại sao mọi
thứ lại trở nên như vậy? Hướng Viễn không rõ. Cô chỉ mong muốn cuộc sống sẽ mỗi ngày một tốt hơn, cô nhất định sẽ có nhiều tiền hơn, nhưng tại
sao những người cô yêu lại lần lượt ra đi?
Khi ấy cô vẫn không
hiểu được rằng, cho dù cô là Hướng Viễn thì thế giới này vẫn còn quá
nhiều việc mà cô không thể nắm bắt được.
Sau khi Hướng Dĩ mất
đi, cuộc sống vẫn phải tiếp diễn. Hướng Vân Sinh mỗi ngày một uống nhiều rượu hơn, say khướt hơn, Hướng Dao lại bắt đầu thấy sợ Hướng Viễn –
trong lòng cô hiểu rõ, nếu không phải do Hướng Dĩ nhảy xuống đầm cứu cô
bị chuột rút, thế thì người không trở về được chắc sẽ là cô. Hướng Viễn
không hề nói lời nào về chuyện này, nhưng từ ánh nhìn của chị mình,
Hướng Dao đoán rằng chuyện gì chị cũng biết. Hướng Viễn thương yêu Hướng Dĩ như thế, hơn nhiều so với người chị song sinh là cô đây. Hôm chôn
cất Hướng Dĩ, cô đã gọi Hướng Viễn một tiếng “chị”, nhưng Hướng Viễn lại như không nghe thấy gì. Từ hôm đó trở đi, Hướng Dao không có can đảm
gọi Hướng Viễn là chị nữa, tuy người chị này vẫn chăm lo kỹ càng cho
cuộc sống của cô như trước đây.
Người ta nói rằng, phúc bất
trùng lai, họa vô đơn chí, câu nói này vô cùng chí lý. Mười bảy tuổi,
Hướng Viễn đỗ vào trường cấp ba tốt nhất trong thị trấn, vẫn chưa kịp
mừng thì trên đường về đã nghe thấy tin cha mình tử vong. Hướng Vân Sinh nghe nói con gái đỗ vào trường tốt nên nhân lúc vui sướng, đã cầm mấy
đồng bạc trong tay đi ra ngoài xã mua rượu uống mừng, không ngờ giữa
đường về, lúc đi ngang cây cầu treo duy nhất phải đi qua ở cửa thôn,
chiếc cầu treo cũ kỹ chưa được sửa đã đứt làm hai, ông đã rơi xuống vực
theo đoạn cầu gãy ấy. Lúc mọi người tìm thấy thi thể của ông, bên cạnh
còn có một xác chết phụ nữ khác, đó chính là thím Trâu.
Không ai biết được, họ xuất hiện cùng lúc trên cầu có phải là trùng hợp hay
không. Cuối cùng họ đã xảy ra chuyện gì, đã nói những gì, cũng vĩnh viễn trở thành một câu đố theo cái chết của hai đương sự. Thím Trâu cả đời
tin Phật, nhưng có đốt hương ngày đêm lễ Phật cũng không thể nào khiến
thím tránh khỏi tai họa từ trên trời rơi xuống – có lẽ, kết cuộc này là
một cách bảo vệ khác cho thím của Phật Tổ chăng. Tóm lại, người đã mất
thì yên lành rồi, người còn sống mới bàn tán dị nghị, tất cả mọi lời lẽ
phỏng đoán đều không quan trọng nữa.
Sau khi chôn cất cha mình,
Hướng Viễn cũng cảm thấy lạnh người vì khả năng thuần thục khi xử lý
chuyện này của mình. Cô khinh thường cha mình, rất nhiều lúc khi ông còn sống, cô thấy ông là một phế vật, là một kẻ ăn bám, nhưng khi biết được tin ông tử vong, rất rất lâu sau cô vẫn chưa định thần lại. Huyết thống là thứ không thể hiểu nổi, cô tự hỏi mình, có thật là cô căm ghét người đã cho cô một nửa sinh mệnh này không? Hướng Dao khóc lóc thê thảm,
Hướng Viễn muốn vỗ vỗ vai cô, nhưng tay không làm sao cất lên được. Ánh
mắt Hướng Dao nhìn cô chằm chằm, như đang nói: “Chẳng phải chị luôn mong ngóng bố chết hay sao? Lần này ổn rồi chứ?”
Phải rồi, lần này
thì ổn rồi, lần này thì sạch sẽ rồi. Cô cảm thấy trong tim mình như có
một lỗ hổng, gió cứ xuyên thốc qua, tiếng vọng không ngớt… Thế giới này
ai sẽ không ra đi? Người bạn yêu, người bạn hận, kể cả bản thân bạn, đều sẽ ra đi, chẳng có gì ở lại bên cạnh bạn vĩnh hằng cả. Mất đi quá
nhiều, rồi cũng sẽ quen, nhưng Hướng Viễn bỗng thấy vô cùng khiếp sợ
thói quen ấy, cô sợ hãi lỗ hổng trong tim mình, phải dùng thứ gì mới có
thể khỏa lấp được nó đây? Nhưng thế nào rồi cũng phải tìm một thứ gì đó
lấp đầy nó. Nhớ nhung? Nhớ nhung duy nhất cô gửi gắm ở nơi xa kia cũng
quá mơ hồ, nếu không tìm thấy cái khác, thế thì chỉ còn tiền. Rất nhiều
rất nhiều tiền, phải, cô nhất định phải kiếm ra thật nhiều tiền, tiền
mới là thứ mà người ta có thể nắm trong tay được.
Không biết từ
khi nào mà Hướng Viễn đã tập được thói quen mỗi tối đếm tiền ấy. Cô luôn mang tất cả số tiền dư trong người ra đếm lại một lượt thật kỹ càng
trước khi đi ngủ, khi đếm xong từng tờ từng tờ, sẽ vuốt cho phẳng lại
những nếp gấp trên đó, lấy giấy da bò cuộn bao lại. Trong quá trình ấy,
cô luôn mang sự chân thành như một kiểu tôn giáo nào đó, cũng chỉ vào
lúc này, cô mới không nghe thấy tiếng gió gào thét xuyên qua lỗ hổng
trong trái tim mình.