Một buổi tối tháng Ba lộng gió không trăng không sao, đến cả những đám mây đang lao vùn vụt trên bầu trời dường như cũng vội, Anne lướt như bay trên những bậc tam cấp vừa rộng vừa thấp được bao bọc hai bên bởi đám lư đá và sư tử đá, dẫn tới cánh cửa chính đồ sộ của Dinh thự Tomgallon. Bình thường, những tối cô đi qua nơi này, ngôi nhà toát lên vẻ u ám đầy sát khí, chỉ có một ánh sáng lờ mờ nhấp nháy ở một hai ô cửa sổ. Nhưng lúc này đây cả ngôi nhà đang chìm trong luồng ánh sáng rực rỡ, ngay cả hai bên chái nhà cũng đã được thắp sáng, như thể bà Minerva đang tiếp đãi toàn thể thị trấn. Anne hơi thất kinh khi được đón tiếp trọng thể bởi thứ ánh sáng rực rỡ như thế. Cô gần như ước gì mình đã mặc bộ váy sa màu kem.
Tuy nhiên, trông cô vẫn vô cùng quyến rũ trong chiếc váy voan màu xanh lá và có lẽ, lúc đón cô trong sảnh, bà Minerva cũng nghĩ như vậy, vì cả vẻ mặt lẫn giọng nói của bà đều thấm đẫm sự thân mật. Còn bà Minerva toát lên vẻ cao quý trong bộ váy nhung màu đen, một cái xược kim cương cài giữa những búi tóc dày hoa râm ánh lên màu thép, một cái trâm cỡ lớn khảm đá được bao bọc giữa một bím tóc của bậc tiền bối Tomgallon đã quá cố nào đó. Toàn thể cách phục trang này đều phảng phất nét lỗi thời, nhưng bà cô Minerva mặc nó với vẻ trang nghiêm quá độ đến mức khiến nó dường như thoát hẳn khỏi vòng ảnh hưởng của thời gian y như trang phục hoàng gia vậy.
“Chào mừng cô đến Dinh thự Tomgallon, bạn thân mến,” bà nói, chìa bàn tay xương xẩu lấp lánh ánh kim cương ra cho Anne. “Tôi rất mừng vì được đón cô ghé thăm nhà.”
“Cháu…”
“Ngày xưa, dinh thự Tomgallon lúc nào cũng tấp nập trai thanh gái lịch. Chúng tôi thường tổ chức nhiều buổi tiệc linh đình và chiêu đãi tất cả những vị khách tiếng tăm,” bà Minerva nói, dẫn Anne đến chỗ lồng cầu thang rộng rãi phía trên một tấm thảm nhung màu đỏ đã bạc màu. “Nhưng giờ thì mọi chuyện đều đã khác xưa. Tôi chẳng mấy khi tiếp đãi khách khứa. Tôi là hậu duệ cuối cùng của dòng họ Tomgallon. Có lẽ như thế lại hay. Dòng họ của tôi, bạn thân mến ạ, vẫn bị nguyền rủa.”
Giọng bà Minerva nhuốm màu bí ẩn và ghê rợn, đầy đe dọa đến độ Anne suýt nữa đã run lên cầm cập. Lời nguyền của Dòng họ Tomgallon! Một cái tên truyện mới hay ho làm sao chứ!
“Chính trên bậc thang này, cụ cố Tomgallon của tôi đã ngã gãy cổ vào đúng cái đêm cụ tổ chức tiệc tân gia chào mừng ngôi nhà mới được hoàn thiện. Ngôi nhà này đã được tế bằng máu người. Cụ ngã xuống kia kìa…” Bà Minerva giơ ngón tay dài trắng nhợt chỉ về phía thảm bằng da hổ trải giữa sàn đại sảnh, vẻ kịch tính đến độ Anne gần như có thể nhìn thấy ngài Tomgallon quá cố đang nằm hấp hối bên trên. Cô thực lòng không biết nói sao cho phải, nên đành ngu ngơ thốt lên, “Ồ!”
Bà Minerva dẫn cô đi dọc hành lang treo đầy tranh chân dung và ảnh chụp những nhan sắc đã tàn phai, với khung cửa sổ lắp kính màu trứ danh phía cuối đường, đưa cô vào căn phòng khách rộng rãi trần cao chìm trong bầu không khí nghiêm trang. Chiếc giường chân cao bằng gỗ óc chó với tấm ván đầu giường rộng bản, phủ tấm chăn lụa lộng lẫy đến độ Anne có cảm giác nếu đội mũ và áo khoác của cô lên đó thì chẳng khác gì một sự báng bổ.
“Tóc cô đẹp quá, bạn thân mến,” bà Minerva ngưỡng mộ nói. “Tôi luôn thích tóc đỏ. Cô Lydia của tôi cũng có tóc đỏ… cô ấy là người duy nhất trong dòng họ Tomgallon có tóc đỏ. Một tối, cô ấy đang chải tóc ở căn phòng phía Bắc thì nó chạm vào cây nến bắt lửa, và cô ấy vừa gào thét vừa chạy khắp hành lang, lửa phủ phừng phừng. Hoàn toàn do Lời nguyền cả, bạn thân mến… hoàn toàn do Lời nguyền cả.”
“Bà ấy có…”
“Không, cô ấy không bị thiêu chết, nhưng nhan sắc đã bị hủy hoại hoàn toàn. Cô ấy vốn rất xinh đẹp và kiêu ngạo. Từ đêm đó cho tới tận lúc chết, cô ấy không bao giờ bước chân ra khỏi nhà, đồng thời yêu cầu người ta phải đóng chặt quan tài của cô ấy lại để không ai có thể nhìn thấy khuôn mặt đáng sợ của cô. Cô không ngồi xuống để cởi giày ra sao, bạn thân mến? Cái ghế này ngồi thoải mái lắm đấy. Chị gái ta đã đột quỵ mà qua đời trên chiếc ghế này. Chị ấy vốn là một bà góa và đã quay về nhà sống sau khi chồng chị qua đời. Đứa con gái bé bỏng của chị ấy đã bị bỏng trong bếp nhà chúng tôi vì bị đổ bình nước sôi vào người. Một đứa trẻ mà chết theo cách đó thì bi thảm quá phải không?”
“Ôi, làm sao…”
“Nhưng ít nhất chúng tôi cũng biết nó chết như thế nào. Em cùng cha khác mẹ với cha tôi, Eliza…ít nhất thì nếu còn sống, bà ấy cũng sẽ thành bà cô của tôi… cứ thế mà biến mất tăm hồi mới sáu tuổi. Chẳng ai biết đã có chuyện gì xảy ra với bà ấy.”
“Nhưng chắc chắn…”
“Người ta đã tiến hành mọi cuộc tìm kiếm nhưng chẳng phát hiện được gì hết. Nghe đồn mẹ cô ấy… mẹ kế của cha tôi ấy… đã đối xử rất tàn nhẫn với một cô cháu gái mồ côi họ hàng bên nội của bố tôi, vốn đã được nuôi dạy ở đây. Vào một ngày mùa hè nóng bức, bà ấy đã trừng phạt đứa cháu đó bằng cách khóa nó trong phòng chứa đồ ở đầu cầu thang, và đến lúc mở cửa phòng thả nó ra thì bà ấy phát hiện ra nó đã… chết rồi. Khi con ruột của bà ấy mất tích, không ít người cho rằng bà ấy đã phải nhận quả báo. Nhưng tôi thì tôi vẫn nghĩ chỉ tại Lời nguyền của chúng tôi thôi.”
“Ai đã đặt…”
“Mu bàn chân của cô mới cao làm sao chứ, bạn thân mến! Ngày xưa mu bàn chân của tôi cũng được nhiều người ngưỡng mộ lắm đấy. Người ta còn bảo một dòng nước có thể chảy dưới đó đấy… tiêu chuẩn để đánh giá một nhà quý tộc.”
Bà Minerva khiêm tốn giơ một chiếc dép lê dưới chiếc váy nhung ra, để lộ một bàn chân không thể phủ nhận được là vô cùng xinh đẹp.
“Chắc chắn…”
“Trước khi chúng ta dùng bữa tối, cô có muốn tham quan một vòng quanh nhà không, bạn thân mến? Nó từng là Niềm Kiêu Hãnh của Summerside đấy. Hẳn là giờ thì mọi thứ đều quá lỗi thời rồi, nhưng có lẽ vẫn một vài cái hay ho. Thanh gươm treo trên đầu cầu thang kia từng thuộc quyền sở hữu của cụ cố tôi, một sĩ quan Quân đội Anh đã được ban cho một mảnh đất trên đảo Hoàng Tử Edward nhằm đền đáp cho sự cống hiến của cụ. Cụ ông chưa bao giờ sống trong ngôi nhà này, nhưng cụ bà thì có ở đây vài tuần. Cụ ấy không sống được bao lâu sau cái chết bi thảm của người con trai.”
Bà Minerva dẫn Anne tham quan khắp lượt ngôi nhà rộng mênh mông, qua hết căn phòng vuông vắn rộng rãi này đến căn phòng vuông vắn rộng rãi khác… phòng khiêu vũ, nhà kính trồng cây, phòng chơi bi a, ba phòng khách, phòng ăn sáng, cơ man là phòng ngủ và một cái gác mái rộng thênh thang. Phòng nào cũng tráng lệ và sâu thẳm.
“Đây là bác Ronald còn đấy là bác Reuben,” bà Minerva nói, chỉ vào hai nhân vật quan trọng dường như đang quắc mắt nhìn nhau từ hai phía đối diện của một cái lò sưởi. “Họ là anh em sinh đôi nhưng từ khi chào đời đã căm ghét nhau như chó với mèo. Ngôi nhà chẳng lúc nào vắng tiếng cãi cọ của họ. Bởi vậy mà mẹ họ cả đời phải sống trong phiền não. Giữa cuộc cãi cọ cuối cùng của họ tại chính căn phòng này, trong lúc trời đang sấm sét đùng đùng, Reuben đã bị sét đánh chết. Ronald không bao giờ vượt qua được chuyện này. Kể từ đó, bác ấy trở thành một kẻ bị ám ảnh. Vợ bác ấy,” bà Minerva trầm ngâm kể tiếp, “đã nuốt mất chiếc nhẫn cưới của bà ấy.”
“Thật là trải…”
“Ronald cho rằng cẩu thả quá nên mới thế và chẳng làm gì hết. Có lẽ cũng tìm cách gây nôn ngay đấy… nhưng người ta chẳng bao giờ nghe nói đến chuyện đó lần nữa. Nó đã hủy hoại cuộc đời bà ấy. Không có nhẫn cưới, bà ấy luôn có cảm giác mình là người không có chồng.”
“Đẹp quá…”
“Ồ, đúng vậy, bác Emilia của tôi đấy… tất nhiên không phải bác ruột rồi. Chỉ là vợ của bác Alexander thôi. Bà ấy vốn nổi tiếng với vẻ thánh thiện của mình, nhưng bà ấy đã đầu độc chồng bằng món nấm hầm… thực ra là nấm dù độc. Chúng tôi luôn giả vờ rằng đó chỉ là một tai nạn, bởi vì có một kẻ sát nhân như thế thì quả là nỗi ô uế của dòng họ, nhưng tất cả chúng tôi đều biết sự thật. Tất nhiên bà ấy đã ép chồng. Bà ấy vốn trẻ trung sôi nổi, và bác ấy quá già so với bà. Tháng Mười hai và tháng Năm, bạn thân mến ạ. Tuy nhiên, điều đó đâu có biện hộ được cho chuyện nấm độc chứ. Sau đó, cũng chẳng mấy chốc mà bà ấy suy sụp hẳn. Hai vợ chồng được chôn chung ở Charlottetown… tất cả người nhà Tomgallon đều được chôn ở Charlottetown. Đây là cô Louise. Cô ấy đã uống cồn thuốc phiện. Bác sĩ đã hút nó ra và cứu sống cô ấy, nhưng cả nhà tôi đều cảm thấy không thể tin tưởng cô ấy được nữa. Thật ra chúng tôi đều có phần nhẹ nhõm khi cô ấy chết một cách đứng đắn do bệnh viêm phổi. Tất nhiên, không phải ai trong chúng tôi cũng trút mọi tội lỗi lên đầu cô ấy. Cô biết không, bạn thân mến, chồng cô ấy đã đánh đập cô ấy.”
“Đánh đập…”
“Chính xác. Quả thực có một số chuyện đã là quý ông thì chớ có làm, bạn thân mến ạ, và đánh vợ chính là một trong số đó. Đẩy ngã cô ấy… có thể… nhưng đánh đập cô ấy thì không bao giờ! Tôi thật lòng muốn xem có gã nào dám đánh đập tôi không,” bà Minerva nói, rất oai nghiêm.
Anne cảm thấy chính cô cũng muốn xem thử xem. Cô nhận ra xét cho cùng trí tưởng tượng cũng có những giới hạn của nó. Dẫu trí tưởng tượng của cô có vươn xa đến đâu chăng nữa thì cô cũng chẳng thể hình dung ra nổi lại có một ông chồng nào đánh đập bà Minerva Tomgallon.
“Đây là phòng khiêu vũ. Tất nhiên giờ thì nó chẳng bao giờ được sử dụng nữa. Nhưng tại đây đã từng diễn ra rất nhiều cơ hội. Các vũ hội của nhà Tomgallon nổi tiếng lắm đấy. Người từ khắp đảo đều đổ về đây tham dự vũ hội. Cha tôi đã tốn năm trăm đô la cho cái chúc đài treo đó đấy. Bà cô Patience của tôi chết gục ở đây giữa buổi tối khi đang khiêu vũ… ngay trong góc kia kìa. Bà ấy phiền não khổ sở ghê gớm vì bị một người đàn ông thất ước. Tôi không thể tưởng tượng nổi sao lại có cô gái đau khổ vì đàn ông kia chứ. Đối với tôi, đàn ông,” bà Minerva nói, nhìn chằm chằm vào bức chân dung cha bà… một người có chiếc mũi diều hâu và hai túm ria mép chĩa ra như rễ tre… “lúc nào cũng chỉ là những sinh vật tầm thường.”