CHƯƠNG 3
Bây giờ đã là tháng hai, Tạ Giám ra ngoài mua chút đường đậu, lại đi thư tứ (tiệm sách) tìm “Thư phổ”, “Cửu thế” cho Linh Hồ Thanh. Ở thư tứ còn bán nghiên mực vuông nhỏ bằng gỗ tùng, Tạ Giám vừa thấy biết ngay là hàng nhái, nhưng làm cũng thật khéo, liền mua.
Trở về giữa viên, ngẫu nhiên thấy trên những cây trong vườn hé ra rất nhiều chồi non, cơm chiều xong liền cầm kéo ra tỉa cây. Linh Hồ Thanh ngậm đường đậu xem Tạ Giám tỉ mỉ cắt bỏ những cành cây mọc tứ tung. Nó trong lòng vẫn nhớ tới con thỏ nhỏ chưa bắt được, liền chạy đi tìm. Còn chưa tìm được dấu vết nào, đã nghe tiếng Tạ Giám kinh ngạc nói: “Kiều dung!”
Linh Hồ Thanh lập tức nhớ tới Tạ Giám lúc say đã từng hai lần gọi: “Kiều dung”, ngẩng đầu nhìn, này trong vườn trừ bỏ chính mình cùng Tạ Giám, ngay cả một bóng người cũng không thấy. Đang suy nghĩ “Kiều dung” chẳng lẽ là cái gì sơn yêu thủy quái, liền nghe Tạ Giám gọi: “Thanh Nhi lại đây.” Linh Hồ Thanh chạy đến, thấy Tạ Giám vẻ mặt ôn nhu đứng nhìn một gốc cây hoa.
Hoa mẫu đơn.
Tạ Giám cực cẩn thận tỉa cành cây mẫu đơn kia, một bên nói: “Thanh Nhi xem, cái này gọi là “Kiều dung tam biến”, lúc hoa mới nở màu ngọc bích, nở rộ biến thành phấn hồng, tới khi tàn lại là màu trắng. Lúc trước trong viện nương ta trụ có trồng một cây.” Quay đầu gặp Linh Hồ Thanh vẻ mặt hưng phấn, ngạc nhiên nói: “Như thế nào, Thanh Nhi cũng thích hoa này hay sao?”
Linh Hồ Thanh gật gật đầu, vui mừng nói: “Thích thật sự.” Tạ Giám mạc danh kỳ diệu (không hiểu tại sao), không biết tiểu hồ ly này đang nghĩ cái gì. Hắn tỉa xong cây, liền cùng Linh Hồ Thanh trở về phòng.
Sắc trời dần dần tối, Tạ Giám cũng không đốt đèn, ngồi ở trước bàn cúi đầu thở dài. Bóng đêm thanh u (thanh tịnh và đẹp đẽ) theo song cửa tràn vào, xung quanh một mảnh mơ hồ, nhưng cũng vô cùng ôn hòa. Linh Hồ Thanh ngồi ở một bên, nói: “Có phải công tử nhớ nhà?”
Tạ Giám không đáp, hỏi lại: “Vậy Thanh Nhi có nhớ nhà không?”
Linh Hồ Thanh lắc đầu: “Ta chỉ nghĩ đến tỷ tỷ.”
Tạ Giám hơi hơi cười khổ một chút, hắn cũng không nghĩ đến ai, chỉ là nghĩ nhớ, nói: “Ta không nhớ nhà là giả, nhưng nói nhớ nhà cũng là giả.”
Linh Hồ Thanh nhìn hắn, vẻ mặt khó hiểu.
Tạ Giám thở dài, lại mỉm cười nói: “Thanh Nhi còn nhớ rõ mấy ngày trước đây, ta dạy cho ngươi niệm tiểu lệnh tư hương (điệu từ/bài thơ không thành bộ về nỗi nhớ nhà) ngắn không?”
Linh Hồ Thanh nghĩ nghĩ, nói: “Là “Nhàn mộng Giang Nam mai thục nhật, Dạ thuyền xuy địch vũ tiêu tiêu, Nhân ngữ dịch biên kiều.” đúng không?”
(Trích “Ức Giang Nam” của Hoàng Phủ Tùng, dịch thơ Nam Long:
Mộng thấy Giang Nam mơ chín cả,
Rì rào mưa tối sáo trên sông,
Cầu trạm tiếng người đông)
Tạ Giám lắc đầu: “Là “Vị lão mạc hoàn hương, hoàn hương tu đoạn tràng. (Đã lâu không về quê, về quê râu dài đứt ruột gan)”
Linh Hồ Thanh kỳ quái nói: “Nó không phải nói “mạc hoàn hương” (không về quê) sao không?”
Tạ Giám ngẩng đầu nhìn phù dung (hoa sen) sa trướng rũ xuống, ôn nhu nói: “Thanh Nhi không biết, câu thơ nói người không trở về quê hương, trong lòng lại vô cùng muốn trở về. Tuy nói là “mạc hoàn hương”, kia nếu chưa từng có ý niệm “hoàn hương”, làm sao có chữ “mạc”. Sau lại “Lạc Dương thành lí phong quang hảo, Lạc Dương tài tử tha hương lão” (thành Lạc Dương cảnh vật hảo, tài tử Lạc Dương nơi đất khách đã lâu), mới là tâm sự thật lòng của người.”
Linh Hồ Thanh nhìn hắn trong chốc lát, cúi đầu nói: “Như vậy công tử vì cái gì không quay về?”
Tạ Giám khẽ cười: “Ta nếu trở về, không quá ba ngày liền muốn chạy trốn đi ra.”
Linh Hồ Thanh nói: “Như vậy công tử vì cái gì còn muốn trở về?”
Tạ Giám cười cười: “Tục ngữ nói “kim oa ngân oa bất như tự kỷ đích hồ li oa” (ổ vàng ổ bạc không bằng ổ hồ ly của chính mình), đại khái chính là ý tứ này đi.” Tục ngữ vốn là “ổ chó”, hắn thấy Linh Hồ Thanh rầu rĩ không vui, cố tình trêu nó.
Linh Hồ Thanh quả nhiên bật cười, lại cười rất vui, đuôi mắt cong lộ vẻ vũ mị (quyến rũ), mái tóc đen mượt dưới ánh trăng nhẹ nhàng lay động. Bóng đen thăm thẳm, nhuộm đôi con ngươi thủy ngọc kia, như có như không toát lên nét buồn thương bi thiết, khiến hồn xiêu phách lạc.
Tạ Giám biết đây là hồ ly, dù thường ngày nó vẫn như con mèo con nhu nhuận ở trong lòng hắn, hiện giờ thấy đôi mắt câu hồn này, mới biết được hai chữ “mị hồ” đến tột cùng là cái gì ý tứ. Cho dù có chết, cũng không uổng đã được sinh ra trên đời này, “thuần thanh lưu li tâm, tam thiên bồ đề thân” (tâm ngọc lưu li thuần khiết, thân bồ đề ba nghìn năm), cũng không bằng đôi mắt này khẽ động.
Tạ Giám thở dài một tiếng, nói: “Đều nói hồ yêu mặc dù có thể biến thành hình người, nhưng vẫn còn đuôi, Thanh Nhi có đuôi không?”
Linh Hồ Thanh lắc đầu: “Không có, công tử nghe ai nói. Hồ yêu đều không có đuôi, trừ phi là đạo hạnh không đủ đã hóa hình người.” Cũng không hiểu được hắn vì cái gì đột nhiên nhắc tới đuôi mình.
Tạ Giám thấp giọng cười nói: “Thực có hay không, để ta xem xem.” Bế Linh Hồ Thanh để trên đùi, giải khai vạt áo nó, đưa tay hướng vào trong.
Linh Hồ Thanh lúc này mới hiểu được dụng ý Tạ Giám, trên mặt nhất thời xấu hổ đến ửng hồng, đầu chôn vào trong lòng ngực hắn.
Tạ Giám cười nói: “Thanh Nhi mặt như vậy hồng, không biết khi ta chạm đến còn như thế nào?” Vừa nói, tay ở nội y Linh Hồ Thanh di tới di lui. Linh Hồ Thanh hô hấp đã là không xong.
Tạ Giám ở bên tai nó a khẩu khí, cười nhẹ nói: “Thanh Nhi quả thực không có đuôi.” Nhẹ nhàng nâng lên Linh Hồ Thanh đang gắt gao cúi đầu, nhìn mặt nó – đã là một mảnh đỏ bừng như sắp xuất huyết, ôn nhu nói: “Thanh Nhi tối nay không cần biến hồ ly.”
Linh Hồ Thanh hơi gật gật, lại cúi xuống. Tạ Giám cười nhẹ một tiếng, cúi đầu hàm trụ miệng nó rồi ôm đến bên giường, tay xả màn rơi xuống. Một bên cùng nó miệng lưỡi dây dưa, một bên nhẹ nhàng chậm rãi đem xiêm y của cả hai đều giải.
Phù dung sa trướng, ánh trăng mờ mờ ảo ảo, Linh Hồ Thanh nằm trên giường, cảm nhận tay Tạ Giám ôn nhu ở trên người mình vuốt ve, trong lòng vừa bối rối vừa vui mừng. Lặng lẽ giương mắt hướng Tạ Giám liếc một cái, thấy hắn khóe miệng mỉm cười nhìn mình, hai má không khỏi một trận nóng lên.
Linh Hồ Thanh tuổi còn nhỏ, da thịt so với phàm nhân non mềm hơn rất nhiều, nhẹ nhàng xoa nắn vài cái liền nổi lên một mảnh hoa đào, mê người nói không nên lời. Tạ Giám say mê cúi đầu khẽ cắn lên dấu vết kia, có khi bất giác dùng sức chút, làm cho Linh Hồ Thanh thấp giọng kinh suyễn. Tạ Giám nghe thấy, chỉ cảm thấy dục hỏa không kiềm chế được, một tay dọc theo thắt lưng nhu hòa của người nằm dưới dò xét đi xuống.
Tạ Giám lúc trước tuy rằng phong lưu, đối với nam tử cũng không cự tuyệt, nhưng Linh Hồ Thanh là lần đầu tiên, nhất thời đau đớn không chịu nổi, nắm lấy tay Tạ Giám thấp giọng kêu đau, thân mình run nhè nhẹ. Tạ Giám không ngừng ôn nhu an ủi, nghe thiếu niên thấp giọng khóc nức nở, mặc dù thương tiếc, cũng nhịn không được càng thêm sáp nhập. Một hồi sau, thanh âm Linh Hồ Thanh cũng mang theo một chút vui thích.
Ngày hôm sau, nắng sớm nhàn nhạt, Tạ Giám vô cùng thỏa mãn tỉnh giấc, nghiêng đầu nhìn người bên cạnh, vẫn ngủ rất say, một đôi liễu yên mi (lông mi mỏng cong vút) như hoa tử đinh hương. Nhớ tới nó đêm qua sợ hãi rụt rè, rõ ràng còn là thiếu niên ngây ngô chưa trải đời, nào có nửa điểm bộ dáng mị hồ. Tay khẽ chạm vào mi nó, chỉ nghe “Ân” một tiếng, ngủ càng say. Tạ Giám trong lòng thương tiếc, ở mi tâm nó (điểm giữa hai đầu lông mày) hôn một cái, lặng lẽ đứng dậy mặc quần áo.
Nấu chúc trở về, trong màn trướng không có động tĩnh, Tạ Giám nhẫn nại không được, khẽ vén màn nhìn. Linh Hồ Thanh mới vừa ngồi dậy. Nó trên người chưa mặc quần áo, da thịt như ngọc, điểm nhiều dấu hồng ngân, đều bị Tạ Giám nhìn thấy. Linh Hồ Thanh cũng không động, kinh ngạc nhìn hắn một lát, đột nhiên liền lui vào trong chăn, cả thân người đều chôn vào, dường như hơi hoảng sợ.
Tạ Giám mất thật lớn công phu mới đưa được chăn túm xuống dưới, cười nói: “Thanh Nhi tỉnh, đứng lên đi.”
Linh Hồ Thanh không dám nhìn hắn, đỏ mặt gật gật đầu.
Tạ Giám thấy nó thẹn thùng, lại càng nghĩ muốn đùa, lấy quần áo, không có hảo ý cười nói: “Ta thay Thanh Nhi mặc quần áo.”
Linh Hồ Thanh giọng nhỏ như muỗi: “Không cần.” Nắm chặt chăn chết sống không chịu.
Tạ Giám chỉ phải từ bỏ, cười nói: “Thanh Nhi còn sợ bị ta ăn hay sao?”
Linh Hồ Thanh chậm chạp mặc quần áo, cúi đầu ăn điểm tâm. Tạ Giám dạy nó viết chữ đọc sách, nó cúi đầu học; kéo nó đến trong vườn, nó lại vẫn là cúi đầu nhìn đất. Cả ngày, Linh Hồ Thanh không được một lần nâng mắt lên nhìn Tạ Giám, lại càng không nói chuyện. Tạ Giám thật sự không thể tưởng được này tiểu hồ ly nhưng lại như thế xấu hổ. Buổi tối, Tạ Giám cũng không tái để ý tới nó có hay không xấu hổ, lại ôm nó lên giường.
Linh Hồ Thanh mặc dù cực kì xấu hổ, nhưng vốn là mị hồ, cùng người bình thường bất đồng, Tạ Giám ôm nó vào trong ngực, trong lòng tự than thở vưu vật (báu vật) trời sinh, chưa ngày nào chịu buông tha nó. Cái gì hấp nhân tinh khí vân vân, tất cả đều quẳng ra sau đầu, ngày qua ngày cùng Linh Hồ Thanh một chỗ, nhưng cũng chưa bao giờ cảm thấy được có chút không khoẻ. Linh Hồ Thanh dần dần cũng thành thói quen.
Bất giác sắp tới tháng ba, trong viên có ít hoa đã nở, mặc dù không phải bách tử thiên hồng, phong quang mê loạn (trăm tím ngàn hồng, phong cảnh đẹp đến mê hồn), nhưng cũng là cảnh đẹp hương thơm. Xuân phong (gió xuân) yêu kiều lả lướt. Sau giờ ngọ trời ấm, Tạ Giám liền ra vườn ngồi, đối hoa uống rượu. Tiền tài mặc dù không nhiều lắm, hắn cũng không tiếc uống hảo tửu. Linh Hồ Thanh cũng nhấp một ngụm, cay đến ho khan. Tạ Giám cười vỗ vỗ lưng nó.
Một đóa lục mai không biết khi nào rơi xuống trong chén rượu, ý thái phong lưu, tựa như hảo nữ. Mai hương vốn là thanh lãnh (trong trẻo nhưng lạnh lùng), cùng rượu hương, cũng lãnh cũng ấm, như gần như xa. Tạ Giám nhìn, chỉ cảm thấy không sao bằng người bên cạnh mình. Đem chén rượu kia uống một hơi cạn sạch, lại rót một chén.
Còn chưa tận hứng, rượu đã uống hết không còn đến một giọt dư thừa, Tạ Giám lắc lắc bầu rượu, chợt nhớ tới tiền cũng đã chẳng còn một xu. Cười nói: “Không có cách nào khác, đêm nay đành tìm nơi nào ăn nhờ (ăn chực =))). Chuyện ngày mai thì để ngày mai tính vậy.”
Linh Hồ Thanh nói: “Công tử muốn đi đâu?”
Tạ Giám mỉm cười: “Đi thăm Miên Khanh, Thanh Nhi cùng ta đi đi.” Linh Hồ Thanh đáp ứng.
Tạ Giám trở về phòng tìm một kiện áo choàng, thay Linh Hồ Thanh khoác vào, đem mũ trùm đầu che kín mặt nó.
Linh Hồ Thanh nói: “Ta không thấy đường đi.”
Tạ Giám cười nói: “Không sợ, ta ôm Thanh Nhi.” Nắm tay nó hướng Hoa Tuyết lâu đi.
Trên khung cửa sổ chạm trổ hoa văn tinh xảo, một tiểu tinh đình (chuồn chuồn) từ đâu hạ xuống, vài quả chuông bạc tô điểm cho màn trướng đang buông rũ lay động, những vật trang trí bằng thạch anh quý hiếm, huân hương thơm dìu dịu, khói nhẹ lượn lờ. Tiếng cầm réo rắt, giọng hát uyển chuyển:
“Tấn vân tùng, mi diệp tụ. Nhất khuyết li ca, bất vi hành nhân trú. Đàn bản đình thì quân khán thủ. Sổ xích giao tiêu, quả thị lê hoa vũ. Lộ phi diêu, thiên xích ngũ. Phượng các loan pha, khán tức phi đằng khứ. Kim dạ trường đình lâm biệt xử. Đoạn tiện phi vân, tẫn thị thương tình tự.”
(Nguyên văn: 鬓云松, 眉叶聚. 一阕离歌, 不为行人驻. 檀板停时君看取. 数尺鲛绡, 果是梨花雨. 鹭飞遥, 天尺五. 凤阁鸾坡, 看即飞腾去. 今夜长亭临别处. 断便飞云, 尽是伤情绪. Tựa “云鬓松令”)
Tiếng ca vừa dứt, liền nghe có người cười nói: “Mấy ngày không thấy, giọng hát Miên Khanh càng lúc càng du dương tuyệt mỹ.” Đúng là thanh âm Tạ Giám. Miên Khanh cười đứng dậy, thấy phía sau hắn có một người, từ đầu đến chân được che kín, sững lại một chút, liền đoán ra là Hồ Thanh. Hé miệng cười, nói: “Công tử mới đến. Công tử nói xem, là ta xướng hảo, hay là ca từ này hảo?”
Tạ Giám mỉm cười nói: “Ca từ câu giai, tế tế luận lai, ca thắng vu từ (ý khen ca từ đẹp).” Rồi bảo Linh Hồ Thanh cởi áo choàng, ngồi ở một bên.
Miên Khanh châm hai chén trà, cười nói: “Công tử đánh giá ca từ này thế nào?”
Tạ Giám thoáng trầm ngâm, nói: “Cũng chỉ có một câu: thắng tại tiêm xảo, thất tại tiêm xảo (có ưu điểm mà cũng có khuyết điểm). Viết nên ca từ này, khẳng định là thế gia quý công tử còn trẻ người non dạ, chưng từng ở bên ngoài nếm trải nỗi khổ của nhân sinh.”
Miên Khanh khẽ cười nói: “Công tử nói quả nhiên không sai, này khúc là Nam gia công tử viết. Ta mới nghe này khúc liền nói, luận về giai điệu hay ca từ đều khiến người khác mê say, nhưng luận về ý tình không thể nào so sánh với công tử.” Tiểu hoàn một bên hiểu ý, không đợi Miên Khanh phân phó, liền đem bút và nghiên mực ra.
Tạ Giám chỉ liếc mắt một cái, khẽ cười nói: “Ta mấy ngày nay chỉ an nhàn, không viết nhạc khúc. Miên Khanh cứ ra một đề mục, ta sẽ thuận theo, hay Miên Khanh muốn dùng ý tứ nhạc khúc lúc nãy (nhạc khúc trên nói về hai người ly biệt)?”
Miên Khanh biết Tạ Giám không có thời gian viết khúc tất nhiên là bởi vì Linh Hồ Thanh, trong lòng hơi hơi toan khổ. Còn chưa nói gì, Linh Hồ Thanh ở một bên đã lên tiếng: “Ta mấy ngày hôm trước xem mấy thi, rất giống với ý tứ này.”
Tạ Giám cười nói: “Thanh Nhi viết ra xem.” Nói xong đưa nó nghiên mực.
Linh Hồ Thanh cầm bút, Tạ Giám nhìn nó viết, là:
“Thanh thanh thủy trung bồ, hạ hữu nhất song ngư.
Quân kim thượng lũng khứ, ngã tại dữ thùy cư?
Thanh thanh thủy trung bồ, thường tại thủy trung cư.
Kí ngữ phù bình thảo, tương tùy ngã bất như.
Thanh thanh thủy trung bồ, diệp đoản bất xuất thủy.
Phụ nhân bất hạ đường, hành tử tại vạn lí.”
(Thanh thanh thủy trung bồ (Cỏ bồ xanh trong nước) Bài này Hàn Dũ viết gởi tặng vợ, tỏ niềm thông cảm với nỗi cô quạnh của nàng.
“Trong nước, cỏ bồ xanh,
Có đôi cá lượn quanh.
Chàng đi tận đất Lũng, (Đất Lũng, địa danh, nay thuộc tỉnh Cam Túc)
Thiếp ở lại một mình.
Trong nước, cỏ bồ xanh,
Ở hoài trong nước xanh.
Nnó cùng cánh bèo nổi,
Tiếc chẳng được bồng bềnh.
Trong nước, cỏ bồ xanh,
Mãi trong nước ngâm mình.
Thiếp không ra khỏi cửa,
Chàng muôn dặm viễn hành.
Bản dịch của Nguyễn Thị Bích Hải)
Viết xong, liền đưa Miên Khanh xem.
Miên Khanh còn chưa nhìn kỹ câu thơ, thấy kia chữ viết đoan trang thanh tú linh dật, cả kinh nói: “Linh Hồ công tử là từ ai học viết?”
Tạ Giám cười nói: “Còn có thể là ai, chính là ta dạy.”
Miên Khanh mày ngài khẽ dãn ra, mỉm cười nói: “Ta không tin, chữ công tử ta đã gặp qua. Này khinh dật lưu chuyển, chung linh dục tú (đất thiêng nảy sinh hiền tài), dù có ba phần tương tự chữ công tử, nhưng công tử không thể bì kịp. Nếu nói công tử là học từ Linh Hồ công tử, ta liền tin.”
Tạ Giám cười cười nói: ““Thanh xuất vu lam nhi thắng vu lam” (trò giỏi hơn thầy), Miên Khanh không có nghe nói qua sao? Không tin hỏi Thanh Nhi. Ta nghĩ tới, nghiên mực Đoan Khê Miên Khanh để ở viên kia là bảo vật quý giá, nhưng bút lại là loại thông thường, thật làm lãng phí nghiên mực kia.”
Miên Khanh nghe hắn nói, liền từ trên án (bàn) lấy một cái hạp bằng gỗ lim bảo tiểu hoàn đưa qua, nói: “Công tử xem này hay không hợp ý.”
Tạ Giám mở ra, trong hạp là nghiên mực vuông, ở bốn mặt khắc lần lượt các hoa văn màu đỏ thẫm á tự, duy văn, cửu vân, li hoàn. Linh Hồ Thanh nhẹ nhàng “Di” một tiếng, nghiên mực này này cùng vật Tạ Giám mua vài ngày trước đó giống nhau như đúc, Tạ Giám xem nó một màu xanh đen, chắc chắn tinh xảo, biết đây mới là chân chính nghiên mực bằng gỗ tùng. Cười nói: “Nếu này còn không hợp ý, thiên hạ làm sao còn có cái hợp ý…”
Lời còn chưa dứt, cửa phòng bị người mạnh mẽ đạp khai, liền nghe một thanh âm nam tử ngang ngược: “Có khách có khách, Miên Khanh cô nương mỗi ngày có khách, đại gia ta không phải là khách? Hôm nay ta thật muốn nhìn, người nào cả ngày đoạt lấy Miên Khanh cô nương, ngay cả đại gia ta cũng không thèm để vào mắt!” Trong phòng ba người đồng loạt quay đầu nhìn, người tiến vào mặc dù một tiếng hai tiếng “Đại gia”, nhưng tuổi cũng không lớn, cũng thật tuấn tú, chính là vừa thấy liền biết là cậu ấm. Phía sau là tú bà vẻ mặt sầu khổ.
Trường hợp này Miên Khanh đã gặp nhiều, lập tức chân thành đứng lên khỏi ghế, nhẹ giọng nói: “Được công tử yêu mến thật vinh hạnh, chính là hôm nay thật sự không được, nếu công tử không chê, Miên Khanh ngày sau nhất định ổn thỏa thiết yến tương đãi.”
Người nọ tức giận quét mắt trong phòng vài lần, bỗng tươi cười: “Miên Khanh cô nương có khách liền thôi, chính là sao không để tiểu thỏ nhi này bồi ta.” Linh Hồ Thanh không hiểu người nọ có ý gì. Tạ Giám tuy biết, cũng không tức giận, chỉ lạnh lùng xem xét đồ vật trong phòng, ánh mắt dừng ở một đôi nến thanh liên (sen xanh). Nếu tên này lại xuất ngôn làm nhục Linh Hồ Thanh, nhất định phải ném gã xuống lầu.
Tú bà vẻ mặt đau khổ nói: “Chung thiếu gia, vị công tử này cũng không phải là người Hoa Tuyết lâu chúng ta. Chung thiếu gia đã yêu thích, liền thỉnh đi xuống lầu, có nhiều đứa nhỏ đáng yêu cho thiếu gia chọn.”
Người nọ “Hừ” một tiếng, nói: “Ta thích trên lầu này đó…” Lại nghe bên ngoài có người nói: “Quan Hiến, không được vô lễ.” Lại tiến vào một vị công tử tuổi còn trẻ, hướng Miên Khanh vái chào, nói: “Đường đệ nhất thời vô lễ, mạo phạm cô nương, còn thỉnh cô nương thứ tội.”
Miên Khanh thản nhiên cười nói: “Là đường đệ của Nam công tử, nào có cái gì thứ tội không thứ tội. Nhị vị công tử mời ngồi.” Lại hướng tú bà: “Mụ mụ, mời ngươi truyền một bàn tiểu yến (tiệc rượu).” Tú bà vội đáp ứng rời đi.
Miên Khanh giới thiệu mọi người với nhau. Kia Nam công tử tên là Nam Tề Vân, là “Nam gia công tử” lúc nãy Miên Khanh nhắc đến, Tạ Giám cảm thấy có chút quen, lại nhớ không nổi làm sao gặp qua.
Nam Tề Vân thấy Tạ Giám, giật mình cười nói: “Tạ huynh còn nhớ rõ ta không, trừ tịch đêm đó từng có gặp mặt một lần.”
Tạ Giám mới nhớ tới đêm tuyết ở đạo quan gặp kia cẩm y công tử, cười nói: “Thứ tiểu đệ mắt vụng về, không nhận ra Nam huynh. Nam huynh phong thái đã thay đổi so với lúc xưa, chẳng thể trách ta nhận không ra.”
Nhất thời tiệc rượu mang lên, Chung Quan Hiến đến gần bên Linh Hồ Thanh ngồi xuống. Tạ Giám liếc Chung Quan Hiến một cái, có chút khó chịu. Nam Tề Vân xem ở trong mắt, mỉm cười, kính Tạ Giám một ly, nói: “Ta ở Trường An nghe đến đại danh Tạ huynh đã lâu, nghĩ là vô duyên, không ngờ lại được gặp.”
Tạ Giám uống, mỉm cười nói: “Nghe nói tiểu đệ đại danh “phong lưu bạc hạnh” sao, vẫn là không nghe thật là tốt.”
Nam Tề Vân nói: “Đâu có, là cẩm tâm tú khẩu, tự tự châu ki (văn hay chữ tốt =))); còn phong lưu, đúng là cũng có nghe thấy.” Hai người cười to rồi lại cùng Miên Khanh luận khởi từ khúc.
Linh Hồ Thanh vốn ít nói, chỉ ngồi một bên nghe bọn họ đàm luận. Chung Quan Hiến cũng không kiên nhẫn, im lặng trong chốc lát liền đề nghị chơi đoán uống rượu. Tạ Giám không thích, nhưng Miên Khanh cùng Nam Tề Vân không nói gì, cũng không biết như thế nào phản đối. Lượt thứ nhất, Linh Hồ Thanh đoán đúng nên phải uống sáu chén, Tạ Giám liền lấy bầu rượu rót vào chén của mình, Chung Quan Hiến vội kêu to: “Không được thay”, Tạ Giám coi như không có nghe, cười uống hết cả sáu chén.
Rượu uống xong, đáng lẽ đến Linh Hồ Thanh làm chủ, nhưng Tạ Giám vội ngăn lại, lấy mấy cái cây tăm nắm trong tay, thản nhiên cười nói: “Thanh Nhi đoán trước.” Tạ Giám chơi gian cực tinh, đợi mọi người đều đoán xong, mở ra bàn tay, quả nhiên là số mà Chung Quan Hiến đã đoán.
Như thế đoán mấy lượt, Chung Quan Hiến bị Tạ Giám lừa uống không ít, đã say chuếnh choáng, Nam Tề Vân liền dẫn nó cáo từ. Chung Quan Hiến nắm tay áo Nam Tề Vân, khen Linh Hồ Thanh thật đẹp, Nam Tề Vân nhíu mày không đáp. Y đoán Linh Hồ Thanh chính là tiểu bạch hồ ngày ấy, biết đường đệ suốt ngày sinh sự, nhưng mị hồ là không thể trêu chọc.
Miên Khanh gọi người dọn dẹp, hé miệng cười nói: “Công tử hảo công phu.”
Tạ Giám cười nói: “Miên Khanh quá khen, nói tới đánh cuộc rượu, Chung và gì đó công tử đã chọn sai người.”
Miên Khanh lại nói cho hắn nghe về Nam, Chung hai người, đều là thế gia đệ tử. Tạ Giám nhớ cũng đã từng nghe nói qua Nam thị là Trường An vọng tộc, cùng Tạ gia tựa hồ cũng có chút lui tới. Nói chuyện một hồi, liền cáo từ dẫn Linh Hồ Thanh trở về.
-oOo-