Hôm nay ông Nam Tảo đi lên Tân Ngãi đặt làm ba cái bài vị cho ông bà nội mình và cho bà đích mẫu của cha mình để thờ tại trung đường. Ông không
ngại tốn kém, đặt làm bài vị sơn son thế vàng rực rỡ.
Nhà ông mái ngói móc, vách ván, gồm ba gian hai chái. Gian giữa, ông thờ bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Gian bên trái ông thờ cha mẹ mình. Gian
bên mặt ông thờ ông bà nội và bà tổ đích mẫu. Còn chái bên trái ông đặt
các hộc tủ chứa dược thảo cùng kệ sách. Chái bên mặt ông kê hai chiếc tủ kiếng bày đồ cổ ngoạn. Trước bàn thờ cha mẹ, ông bà, là bô ngựa bằng gỗ giáng hương. Nơi gian giữa ngoài bàn thờ Phật là chiếc bàn dài bằng gỗ
nu nổi vân, hai bên có hai chiếc trường kỷ chạm chim, sóc, trái nho.
Bà Năm Tảo đang soạn một mâm cơm nho nhỏ để cúng cô em nhà chú dù
hôm nay không phải là ngày giỗ của cô. Cô n ày từ trần cách đây mười
năm. Số là cô chị bị gã sở khanh dụ dỗ đến mang bầu. Hắn hứa cưới cô và
khuyên cô dưỡng thai. Ai dè chén thuốc hắn ân cần đứa cô uống, nói là
thuốc dưỡng thai đó, thật sự là Càn Nguơn sắc đặc, chuyên dùng phá thai. Cô uống vào, thai ra cùng lúc với cơn băng huyết. Mất máu nhiều nên cô
vong mạng. Đêm qua trong cơn chiêm bao, bà Năm thấy cô hiện hồn về mách
bảo:
- Tuổi em hạp với con Ba Tây Nguyệt. Từ nay em sẽ là vong cô phù hộ
cháu gặp duyên ưa phận đẹp. Còn bà đích mẫu của anh Năm là vong cô của
con Hai Túy Ngọc đó.
Mười năm qua rồi, tên sở khanh kia đã trải hai đời vợ nhưng người em gái yểu mạng bạc phước của bà vẫn chưa đi đầu thai. Tía má bà người gốc Quảng Nam, còn cha mẹ ông Năm gốc Quảng Ngãi. Mâm cơm cúng phải có một
món ăn ở hai tỉnh đó.
Hôm nay cô Hai Túy Ngọc mua được một mớ cá đối. Cá này kho lạt, rắc
hành và chan mỡ xát hột lựu ngon phải biết! Ông Năm thích ăn bánh bèo
Quảng Nam chan nước cá nục kho với ớt gừng sừng trâu. Không có cá nục,
dùng cá đối thay thế cũng được. Món bánh béo quê hương của bà làm bằng
bột gạo, lớn cỡ miệng chén đựng trôi nước, trắng mềm, thoa mỡ hành coi
thiệt ngon. Ngoài món bánh béo ăn cặp với cá đối kho, bà còn làm thêm
món bánh bèo lục tỉnh lớn cở đồng xu, trét nhưng đậu xanh và rắc tôm bằm nhuyễn. Mâm cơm cúng có thêm một canh sườn heo nấu với củ cải muối rắc
ngò gai xắt nhuyễn, dĩa dưa kiệu xé tơi xào tôm thịt và tộ cá bống cát
kho nước đặc sánh..
Ông Năm Tảo là một thầy lang giỏi, nhờ nghề xem mách hốt thuốc mà dư ăn đư để. Nhưng đối với người xung quanh, ông là kẻ trái đời. Vào những thập niên đầu thế kỷ, vợ không sanh con trai mà ông không nạp thiếp,
nạp hầu. Chẳng những vậy, ông còn dùng những chữ huê mỹ đặt tên cho các
con, và cho con học thêm chữ nho, chữ nôm, làm thơ làm phú ngoài việc
học bếp núc, vá may.
Cô Hai Túy Ngọc trắng da dài tóc, nhan sắc bóng bẫy, phẩm cách cao
sang. Cô Ba Túy Nguyệt nước da tuy mởn nhưng không trắng bằng chị, dung
nhan mặn mòi, ăn nói có duyên.
Bà Năm Tảo nhìn bóng nắng nơi ngạch cửa, gọi hai cô con gái cưng đang xới líp huệ bên hông nhà:
- Trời sắp đúng ngọ rồi, bay liệu mà vô nhà đi!
Cô Hai vừa bước tới ảng nước điểm loáng thoáng bông cau rụng bởi trận gió đêm qua, vừa giục em gái:
- Thôi chớ. Tạm nghỉ để ăn cơm cái đã. Chiều mát, chị em mình làm tiếp.
Bà Năm bưng mâm cơm từ bếp lên chái bên trái, đặt trên bàn hột xoài
bằng gỗ thao lao quang dầu bóng lộn. Bà ngó qua tấm phên mắt cáo, thấy
con gái còn lảng vảng ngoài nắng, liền hét:
- Mau vô nhà nghe chưa! Bây còn làm giống gì ở ngoài vậy? Giờ đúng
ngọ là giờ cực dương. Hễ cực dương thì hóa âm. Tao nói ít bây phải hiểu
nhiều.
Cô Ba Túy Nguyệt lật đật xách chiếc cuốc vào nhà. Cô Hai Túy Ngọc cũng đã rửa tay chưn xong, nối ót em.
Khắp xóm lặng ngắt. Cây cỏ thiêm thiếp say nắng rực rỡ màu vàng
ròng. Thỉnh thoảng có tiếng gà gáy lẻ tẻ vọng lên từ trong xóm. Đây là
xóm Chuồng Gà nằm bên mặt con lộ Trần Minh Tại, ngoại ô tỉnh Vĩnh Long.
Con lộ này từ dốc cầu Thiềng Đức đưa tới làng Long Thành, băng qua xóm
Thiềng Đức, xóm Bánh Phồng, xóm Chuồng Gà, xóm Cầu Kè. Bắt đầu từ cuối
xóm Thiềng Đức, con lộ đã xuyên vào vùng miệt vướn rợp bóng mát.
Nhà bà Năm Tảo ở đối diện với khu vườn làng nằm kế vùng tha ma mộ
địa. Tuy mồ mả nơi bãi tha ma này làm bằng vôi trộn nhựa cây ô đước rất
xưa, tròm trèm cả trăm năm chớ không ít, và người chết chắc đã đi đầu
thai cả rồi, nhưng lúc chạng vạng tối cũng chẳn mấy ai dám băng qua con
lộ trải đá xanh để qua bên kia vườn làng. Vườn làng đây là khu vườn công cộng của làng, do ban hương chức hội tề cai quản. Mấy ông đó chẳng nghĩ gì tới việc khẩn hoang, đốt lau sậy, bứt dây mây dây choại để trồng cây ăn trái. Khắp vườn mọc đầy cây đủng đỉnh, cây dầu, cây sao, cây thị,
cây giá tị, bụi tre gai, cụm tầm vông, khóm nứa. Lác đác có vài cây dâu
miền dưới, cây phù quân, cây cốc, cây ô môi, vài bụi chuối hột mà tụi
chăn trâu thường ghé vô hái trái, cạp ăn nghe rào rạo.
Ven đường là những cây còng lớn cỡ vòng ôm, các loại chùm gởi bám
đầy, thân phủ rêu xanh. Tàn cây còng tỏa bóng mát thâm u cả một khúc lộ. Trong bóng mát như chập chờn ẩn hiện bón u linh.
Sau nhà bà Năm là bên sông Long Hồ, cạnh cây da xà sống trên tám
chục năm rồi. Thân cây cao vút, tàn là tỏa rộng, rễ phụ buông xuống như
những con rắn lớn cỡ cườm tay. Dưới gốc cây, cà ràng cũ, ông táo, hỏa
lò, nồi, ơ, trách, trả, vịm, chậu lủng, bể...bày la liệt.
Bà Năm lấy chén gạo lưng thay thế bát nhang đặt lên bàn, cắm cây nhang huyền đàn vừa mới thắp. Bà vái van:
- Ưng ai, vong hồn dì nó sống khôn thác thiêng, nghĩ tình máu mủ mà phù hộ cho hai con cháu gái của dì.
Đúng ngọ, thời khắc ma quỉ xuất hiện cho tới đầu giờ mùi tức khoảng
một giờ trưa. Ai sao không biết chờ cô Hai và cô Ba đã có lần gặp ma vào lúc đúng ngọ. Cách đây ba năm, khi ông bà Năm Tào mới dọn về khu này,
hai chị em sau khi dùng cơm trưa xong, vô vườn làng câu cá. Ở đây có một bàu nước trong vắt lớn cỡ hai sào đất. Giữa bàu là những khóm ông súng, lá lớn cỡ cái dĩ a bàn trải trên mặt nước. Ven bàu, chỗ nước sâm sấp là những cọm bèo cánh tròn xinh xinh. Cả hai ngồi dưới bóng cây dâu miền
dưới, buông cần câu, chăm chú nhìn vào mặt ao. Ngồi mãi, không hiểu vì
sao hôm ấy cà không chịu cắn câu. Thời tiết nòng nực, chung quanh hoang
vằng, cô Ba Túy Nguyệt cởi áo, kéo chiếc quần lá nem rộng đáy lên tới
ngực, với chiếc rổ nhảy xuống bàu để xúc cá tép. Trời đang nắng chang
chang bỗng đâu một cơn gió thổ tới, xua áng mây đen che khuất mặt trời.
Cơn trốt nổi lên làm kẻ trên bờ, người dưới nước cảm thấy rát mí mắt.
Đến khi con trốt thoảng xa và dịu lại, thì cả hai thấy trong bàu nước có một bà già tuổi ngoài sáu mươi cũng đang xúc cÿ tép. Sự xuất hiện đột
ngột của bà làm hai chị em xững vững. Cô Hai Túy Nguyệt lễ phép hỏi:
- Thưa bác, bác từ đâu tới?
Bà già nét mặt xanh xao, da dùn, tóc bạc dã dượi, cái nhìn lộ vẻ
lãnh đạm, thờ ơ và đặc biệt có một nút ruồi đen, lớn bên mép. Bà nhìn kẻ trên bờ, người dưới nước, ấp úng:
- Tui hả? Tui ở đây, cạnh cái bàu này.
Câu trả lời có vè kỳ cục, bí mật. Cô Ba Túy Nguyệt hỏi nà:
- Bác tới hồi nào mà cháu không thấy? Bác xuống nước cách nào mà cháu không hay?
Bà già lãnh đạm:
- Làm sao cô thấy được! Nhưng thôi, tui không thể ở đây lâu. Mình xúc cả thôi kẻo trễ.
Bà cầm chiếc rổ xúc một cái, được ngay một con cá bông lớn, vảy ửng
xanh lè, một mớ tôm càng và hai con cÿ sặt bướm. Lúc nãy nước trong bàu
âm ấm vì nhốt hơi nóng suốt ba ngày nắng liên tiếp, giờ đây bỗng giá
lạnh. Ham bắt cá nên cô Ba cứ xẩn bẩn bên bà. Cô cũng xúc được ba con cá lóc bằng cườm tay, bốn con cá rô mề và một mớ tép bạc cùng tôm trứng.
Đôi lúc bà già xáp lại gần cô, hơi thở của bà lạnh như gió tháng chạp.
Bỗng một con chim thằng chài lông xanh bay lướt qua bên kia đám điên diển trổ bông vàng sát mé nước. Bà già bảo hai chị em:
- Tui phải đi, đã tới giờ có người kêu tui đó! Vậy tui cho mấy cô mớ cá tôm này.
Bà trút cá tôm vô giỏ cá của hai chị em. Và trong nháy mắt, bóng
dáng bà đâu mất biệt. Hai chị em sững sốt nhìn nhau, da thịt mọc ốc. Cô
Hai hỏi em:
- Hồi bà bước lên bờ, sao tao không nghe thấy tiếng khuấy nước, tiếng lau sậy khua động?
Cô Ba rùng mình:
- Bả biến đi thiệt lẹ. Hay là...
Cô không dám nói tiếp, hối hả bước lên bờ mặc áo vào. Bỗng cô nhìn vô giỏ cá, ré lên:
- Chị Hai! Chị coi đây nè! Trời ơi, sao lạ như vầy!
Cô Hai Túy Ngọc dán mắt vào đáy giỏ. Cá tôm đâu không thấy, chỉ có rác rến và vài cánh bèo mà thôi.
Hai chị em vội vã về nhà, thuật lại cho mẹ mình nghe. Lúc đó bà Năm
Tảo đang ngồi nói chuyện với bà Chín Thẹo ở bộ ngựa giáng hương. Bà Chín Thẹo vụt hỏi:
- Có phải hai đứa bay gặp bà già có mụt ruồi bên mép không?
Hai chị em gật đầu xác nhận. Bà Chín Thẹo vỗ đùi một cái bép:
- Vậy là hai con nầy gặp ma rồi! Hồn ma bà Bảy Cúc đó! Số là hồi năm Nhâm Tuất gì đó, quan Tây Bô- na đem quân đánh chiếm thành Vĩnh Long,
đội hỏa pháp vô thành. Quan tổng đốc cho đốt trại lính rồi rút lui. Tây
đuổi theo. Một số quân mình vừa chống cự vừa chạy tháo thân tới rạch
Nước Lạnh, bỏ mình hàng chục người. Con rạch đó ở sau vườn làng, cách
bàu một đám sậy rộng cỡ hai mẫu. Trong số nghĩa quân liệt sĩ đó có ông
Hai Phụng. Ổng chưa lấy vợ, nhà chỉ có một mẹ một con. Bà mẹ sau cái
chết của con, đau đớn quá nên tới rạch Nước Lạnh khóc lóc than thở. Bà
phải mượn rượu giải sầu. Một đêm nọ bà uống say rồi toan tới rạch khóc
than với vong hồn con. Ai dè mới tới bàu nước, bà té quị, nhiễm sương mà chết. Dân trong xóm bèn chôn cất bả vẫn chưa siêu sanh, còn lẩn quẩn
bên bàu.
Vụ quân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, sau đó hai cô Túy được cha thuật
lại như sau: Tháng hai năm Nhâm Tuất (1862), thiếu tướng Bonard đem 11
chiếc pháo hạm lẫn tuần dương đĩnh gồm một ngàn quân đậu phía trên đồn
Vĩnh Long, đổ bộ sát lũy. Thế giặc rất mạnh, trúc chẻ ngói tan. Đồn Vĩnh Tùng thất thủ. Nghĩa quân ta tử thương rất nhiều. Lãnh binh Tôn Thất
Thoan, Quyền Lãnh Binh Nguyễn Thái. Chánh quản cơ Lê Đình Cửu phải dồn
tất cả vào đồn Thanh Mỹ. Quân Pháp dội hỏa hổ (trái nổ để phá và đốt)
vào thành. Tổng đốc Trương Văn Uyển túng thế phải đốt doanh trại, đốt
kho lương rồi rút về huyện Duy Ninh, không kịp thủ tiêu kho võ khí. Lãnh binh Hồ Lực tiếp ứng mặt trận chạy sau. Một cánh quân của ông do Phó
lãnh binh Ngô Thành Riêng điều động bị tản lạc vào ven rạch Nước Lạnh và bị bắn gục tại đây.
Vừa vào nhà, bà Năm Tảo bắt hai cô xức dầu cù là ngay. Tiết trời
viêm nhiệt, bịnh thơi khí xảy đến biết đâu mà lường, cho nên bà phải đề
phòng, không cho cả nhà uống nước mưa chứa trong lu bầu, trong mái đầm
để ngoài hành ba phải uống nước trà huế pha gừng, quế.
Bà nhắc nhở:
- Con Hai ăn cơm xong nhớ khuấy bột trứng sam cho tía bây đùng. Con Ba thì nấu cho má nồi chè đậu xanh khổ tai bột bán.
Vừa từ bép đi lên, tay bưng dĩa bàn đựng rau sam luộc và chén mắm
nêm giã tỏi ớt, thì bà nghe cô Ba Túy Nguyệt kêu nhỏ, giọng run rẩy, nặt tái xanh:
- Má, chị Hai coi kìa!
Bà Năm Tảo đật dĩa rau và chén mắm cạnh mâm cúng rồi cùng cô Hai
bước ra hàng ba ngó về phía cây da xá. Quỉ thần thiên địa ơi! Cô em con
nhà chù của bà hiện về đó chăng? Cô ta nằm vắt vẻo trên hai nhánh cây
da, tóc buông xõa phất phơ trong gió, mặt xanh chành như lúc lâm chung.
Cô ta ôm một đức con trai cỡ ba tuổi mập mạp xinh xắn. Đứa bé bú tay, áp đầu vào ngực mẹ.
Bỗng cô Út Thoại Huê, tên cô em nhà chú của bà Năm Tảo, ngóc đầu ngồi dậy, ngoắc bà Năm:
- Chị và hai cháu lại gần đây cho em bày tỏ câu chuyện. Tới giờ mùi hai mẹ con em phải trở về cõi âm.
Bà năm Tảo ngó hai con rồi cả ba bước lại gần gốc cây da. Nắng bên
ngoài chang chang như đổ lửa, nhưng vũng bóng mát cây da sao mà rờn rợn, gây gây lạnh! Bà Năm ấp úng:
- Dì về ở luôn hay ghé chơi một chút rồi đi?
- Thân em đây vốn vô định sở, nhưng vẫn ở trong cuốc đất Vãng nầy.
Chỗ nào trong đất nầy cũng là nhà của em, vì bởi nghiệp lực oan trái em
không ở một chỗ lâu dài. Thằng Hai Luyện khốn nạn dụ dỗ em cho tới mang
bầu. Má con nhà nó còn bày mưu lập kế phá thai khiến em phải băng huyết
mà vong mạng. Trót nười năm nay cái ác quả của gia đình nó chưa chín mùi nên ác báo chưa hiện hành. Ai gieo mạ tháng ba thì tháng chạp sẽ gặt
lúa. Riêng dòng họ mình tu nhơn tích đức nhiều, anh chị ăn ở hiền lương
sẽ gặp nhiều sung sướng về sau. Em về thăm chị và cầu xin chị một điều:
Cây da nầy hạp với vong hồn các sản phụ chết trong lúc lâm bồn và các
thai nhi lỗi giờ sanh. Xin chị lập dưới gốc da một miếu nhỏ cao hai
thước, ngang một thước rưỡi, dài hai thước, có hướng án bên trong, liễn
đối bên ngoài. Mỗi kỳ rằm Vu Lan nhớ cúng kiếng cho các vong hồn được
hưởng. Có vậy em mới theo con Ba để phù hộ cho nó.
Bà Băm Tảo suýt soa khấn vái:
- Dì nó đã dạy thì mẹ con tui xin vưng. Chỉ mong rồi đây không lâu, vong linh mẹ con dì mau được tiêu diêu siêu thoát.
Cô Út Thoại Huê bảo:
- Chị nên giữ kín chuyện này, đừng để lối xóm hay biết. Thôi, chị và các cháu vô nhà đi. Em và các bạn ở đây vui chôi chốc lát rồi sẽ về cõi u linh.
Mẹ con bà Năm ngậm ngùi quay vô nhà. Cả ba nhìn qua tấm vách, về
hướng cây da. Trên ngọn cây, khắp các cành, vài chị đàn bà xỏa tóc
chuyền qua chuyền lại. Còn lũ con nít thì bay lượn như chim, cười nói
líu lo nhưng âm vang chỉ văng vẳng mơ hồ, lẫn trong tiếng gió xôn xao từ cánh đồng bên kia con lộ đá thổi tới.
Cô Út Thoại Huê cất tiếng hát:
- Nắng lên cho là héo hon
Cho đáng kiếp chàng phụ rẫy nghĩa xưa
Một chị đàn bà ru theo:
- Thuở xưa quả báo thời chầy
Thời nay quả báo một giây nhãn tiền...
Những lúc hát những câu trách móc đó, cơn giận làm mặt họ xanh như
chàm đổ, răng nanh dài ra, mắt sáng quắc như hai cục than ngún lửa. Rồi
đám trẻ nít dần dần biến mất, sau đó mới đến lượt các chị đờn bà. Sự yên tĩnh rờn rợn phủ xuống.
Ông Năm Tảo tác người roi roi. Nhờ ông dượt võ Bình Định đều đặn,
cũng như chịu khó làm vườn cuốc đất mỗi khi rỗi rảnh nên thân thể cường
tráng, bụng săn chắc chia làm sáu múi. Mặt ông bặm trợn nhưng hòa huỡn,
cằm vuông, mày sắc. Ông lớn hơn vợ một tuổi nhưng không giữ nét trẻ
trung bền dai bằng vợ. Gần tới tuổi năm mươi mà tóc bà Năm vẫn đen láng
như huyền, mặt không một vết nhăn, vóc mình hơi mập, tươi mát. Thương
yêu vợ nên dù vợ không có con trai, ông vẫn không chịu nạp hầu, nạp
thiếp. Nhớ ơn đó, bà chiều chuộng, săn sóc ông từng chút.
Trong khi cô Ba xuống bếp lấy đường cát mỡ gà và bột huỳnh tinh
khuấy trứng cá cho cha thì bà Năm Tảo thuật lại giấc chiếm bao đêm trước và vận sự các oan hồn hiển diện cho chồng nghe. Ông cứ gật đầu chấm
câu, không hề ngắt lời vợ. Nghe xong câu chuyện, ông nói:
- Má nó thấy tui có lý hay không? Hồi tui tính dọn về đây ở, má nó
cứ cằn nhằn tui sao chọn nhà gần chốn tha ma mộ địa. Nay má nó rõ rồi
đó: đức trọng quỉ thần kinh. Tui noi gương ông bà, giữ vững khí tiết. Má nó thì giữ dạ hiền lương, lại dạy con cái hiếu thảo, tiết trinh. Vậy
thì ma quỉ nào nỡ lòng khuấy phá, hãm hại mình.
Bà Năm Tảo hạ thấp giọng:
- Để rồi ông coi, gia đình ông Bang biện Huỡn sẽ trả quả!
Ông Bang biện Trần Văn Huỡn là cha của cậu Hai Luyện, nhà ở xóm Cầu
Đào, gần chùa Bảy Phủ. Ông nội của ông Bang biện vốn là bạn đồng hương
với ông nội ông Năm Tảo, quê làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng
Ngãi. Cả hai ông cùng vào Nam lập nghiệp. Nhưng trong khi ông nội ông
Năm Tảo sống bằng nghề xem mạch hốt thuốc thì ông nội ông Bang biện theo tên Việt gian trần Bá lộc chuyên đánh dẹp, bắt bớ các nghĩa quân chống
Pháp ở vùng Tiền Giang.
Vào năm 1862, trong trận đánh chiếm Vĩnh Long, nhờ ông nội ông bang
Biện Huỡn điềm chỉ mà quân Pháp đã tiêu diệt đám nghĩa quân của Lãnh
binh Hồ Lực. Để trả ơn, ông ta được Pháp cho làm tri huyện tại huyên Duy Ninh. Cha ông Bang biện Huỡn là con trai duy nhứt, thừa hưởng một gia
tài khổng lồ, ruộng đất cò bay thẳng cánh, trong tủ có trên ba trăm
lượng vàng. Ông Bang biện Huỡn là thứ nam, không được coi sóc nhà thừa
tự và hưởng ruộng đất hương hỏa. Nhưng ông thọ hưởng được tánh gian ác
của ông nội cung như quyền biến và biển lận của tía ông nên ông lập cơ
nghiệp to tát chẳng mấy chốc.
Nhà ông bang biện Hưỡn ở sâu trong rạch Cầu Đào, giữa khu vườn trồng cây ăn trái. Nhà lợp ngoái lưu ly màu ngọc thạch, nền đá da qui cao tới ngực, tường đúc, nền nhà lót gạch bông, sân trước, sân sau, sân bên đều lót gạch tàu. Trong nhà bàn ghế bằng ỗ nu, gỗ cẩm lai. Bàn thờ bằng gỗ
trắc khảm ốc xa cừ lóng lánh. Các gian bầy đầy đồ ngoạn khí: chậu, chóe, đôn đều bằng sứ quí giá. Đó là chưa kể hai chiếc tủ kiếng, đĩa, độc
bình cổ thời Gia Tĩnh, Khương Hy, Càn Long... Đáng kể nhựt là cái lẫm
lúa ba gian dài 12 thước đập vào mắt lối xóm, chứng tỏ ông là bực đại
điện chủ có tới 300 mậu ruộng tốt.
Ông bà Bang biện Hưỡn tuy giàu có nhưng cư xử rất khắc bạc với tôi
tớ, tá điền tá thổ. Bà cho vay ăn lời cắt cổ. Hễ con nợ túng hụt, không
kịp trả tiền lời đúng hạn là bà mắng nhiếc chửi bới. Có lần bà dám nhảy
lên bàn thờ ông bà của một con nợ tá điền. Ông khoái ngủ với những đờn
bà có chửa mà dân sành việc gối chăn gọi là "núp gò mối đâm heo".
Cậu Hai Luyện trải qua hai đời vợ. Người vợ trước của cậu chết trong buồn rầu, thất vọng vì lấy phải người chồng bạc bẽo, ưa đào đĩ. Người
vợ sau vốn là con ông tri huyện, tánh bướng bỉnh. Khi về làm dâu, mợ ta
gây gổ với cha mẹ và hai cô em chồng. Hễ cậu vắng nhà lâu là mợ ó ré
chửi mắng. Nếu cậu cự lại là mợ xách dao rượt cậu chạy vắt giò lên cổ.
Cô Ba Cẩm Tú, em kế của cậu, có trổi giọng chảnh lỏn là mợ lập tức ghịt
đầu, vả lịa lịa vô miệng. Sau đó, mợ mượn cớ về thăm nhà rồi ở luôn. Cậu qua rước, mợ chẳng những không về còn đon ren chửi xéo cha mẹ chồng.
Cô Ba Cẩm Tú chơi thân với một cô bạn học cùng lớp trường Áo Tím.
Thấy cô nọ có ông thầy thuốc tốt nghiệp trường y khoa Hà nội đi hỏi, cô
tìm cách rù quyến vị lang tây kia khiến cô bạn thất vọng uống á phiện
trộn dấm tự tử.
Cô Tư Cẩm Lệ, con gái út của ông Bang biện, nhảy vô làm bé một ông
thầy kiện ở Sài gòn rồi lấn quyền vợ lớn khiến bà kia buồn rầu mà chết.
Khi nắm quyền chủ phụ trong nhà, cô đối xử với con ghẻ tàn tệ còn hơn
đối với kẻ thù.
Ông Bang biện Hưỡn và ông Năm Tảo vốn là đôi bạn thơ ấu. Dù tánh khí khác nhau, nhưng cả hai vẫn giữ tình giao hảo. Lý do thứ nhứt là bởi
ông Năm coi mạch hột thuốc mát tay. Lý do thứ hai cũng là lý do chánh,
ông Bang biện cần có người để khoe khoang. Riêng bà Năm và hai cô Túy
chưa hề đặt chưn tới nhà ông Bang biện bao giờ! Hễ vô tình đụng đầu nhau ngoài đường, hai cô Túy chỉ chào hỏi lễ phép, nói vài câu rồi đường ai
nấy bước.
Cơm nước xong, ông Năm Tảo sao khử thổ hột muồng thơm, lá hắc phàn
diệp, thân, cành và rễ cây mật nhãn. Bà Năm cũng không quên nấu món
thang trị ho gồm bách bộ, gừng khô, bông sứ cùi phơi khô, rau tần dầy lá cho mình.
Cô Hai Túy Ngọc mở nắp thố sứ, múc bột huỳnh tinh khuấy trứng sam
vào cài chén sứ nhỏ bày lên mâm rồi mời ông Năm Tảo dùng. Bên ngoài,
trời vừa tắt nằng. Ông Năm vừa ăn bột, vừa lắng nghê tiếng bìm bịp vẳng
ngoài bến sông. Ông bảo cô trưởng nữ:
- Tía phải qua bên xóm Lò Rèn để trị bệnh cho cô Bảy Thược, con ông Hương bộ Hành, cuối canh hai tía mới về.
Cô Hai Túy Ngọc không nói gì. Ba tiếng "Xóm Lò Rèn" như vọng một ấn
tượng có một thoáng bàng hoàng. Nói là xóm Lò Rèn, nhưng ở đó chẳng có
một cái lò rèn nào. Muốn rèn dao, mác, xuổng, cuốc... dân xóm Cầu Kè nầy phải bơi xuồng vào tận làng Long Thanh.
Bà Chín Thẹo kể rằng, cách đây bảy năm, có gia đình người thợ rèn
gồm hai vợ chồng tuổi cở 30 và thằng con trai tuổi chừng 13. Hằng ngày,
vợ thụt ống bể, chồng rèn dao mác. Đứa con trai xẩn bẩn bên cha để học
nghề. Ai dè một hôm trời mưa, sét đánh chết cả ba. Chòm xóm và họ hàng
những người bất hạnh đó chôn họ trong miếng đất, cạnh lò rèn. Trải qua
hai mùa mưa nắng nền lò rèn mọc đầy cỏ ống, cỏ đuôi chồn, cây ké, cây
vòi voi, dây choại, dây nhãn lồng. Nhưng đêm đêm, những người neo xuồng
bên kia bến Lò Rèn để câu tôm thường thấy cảnh lò rèn hiện ra, đèn thắp
leo lét, lửa đỏ rực. Người vợ vẫn thụt ống bể, người chồng vẫn đập búa
lên thỏi sắt nung đỏ đặt trên đe, còn đứa con trai vẫn ngồi chồm hổm bên cha. Tiếng búa nện không chan chát như tiếng búa thường, nó chỉ văng
vẳng mơ hồ, vọng vào cõi âm u từng loạt mong manh rời rạc. Cảnh lò rèn
ma và ba chiếc bóng u lin cứ sinh hoạt như thế tới lúc gà gáy hiệp hai
mới tan.
Mỗi khi nớ tới vận sự gia đình người thợ rèn, cô Hai Túy Ngọc nao
nao tấc dạ. Cái chết giáng xuống thình lình biến hai vợ chồng và đứa con kia thành ba oan hồn uổng tử, tâm thần hoang mang mờ mịt. Bởi họ không
biết rằng họ đã bước vào cõi chết, họ không hay xương thịt họ đã vùi
trong lòng đất và đã vữa nát, hư hoại. Cho nên, nhiều đêm họ tái diễn
cảnh sinh hoạt mà họ vẫn làm thuở còn sanh tiền. Có ai tụng cho họ bài
chú vãng sanh và kinh cầu siêu để vong linh họ nhận biết được tình trạng của mình hầu sớm đầu thai kiếp khác!