HAVEN KHÔNG THÈM TRẢ LỜI ĐIỆN THOẠI CỦA CHÚNG TÔI, nên tôi liên lạc với Miles, thuyết phục cậu ấy ghé nhà sau buổi diễn tập. Cậu ta đến với Eric. Bốn chúng tôi có một buổi tối rất vui, ăn uống, bơi lội, và xem phim kinh dị. Hình như lâu lắm rồi tôi chưa có một buổi tối chơi đùa thoải mái đến vậy. Điều đó hầu như làm tôi quên đi chuyện Riley, Haven, Evengeline, Drina, bãi biển – tất cả những sự kiện đã xảy ra chiều nay.
Hầu như tôi quên đi cái nhìn xa xăm của Damen mỗi khi anh nghĩ không có ai nhìn mình.
Hầu như tôi bỏ qua những nỗi lo lắng ngấm ngầm đang sục sôi ngay bên trong.
Hầu như. Nhưng không phải là hết hẳn.
Cô Sabine đã đi chơi xa nên tôi rủ Damen ngủ lại. Nhưng anh chỉ ở nhà tôi đủ lâu cho đến khi tôi buồn ngủ, sau đó thì lặng lẽ ra về.
Sáng hôm sau, anh đứng chờ tôi ngay trước thềm nhà, với ly cà phê, bánh nướng và một nụ cười rạng rỡ. Tôi thấy mình thật thanh thản, bình yên và hạnh phúc. Chúng tôi cố gọi Haven thêm lần nữa, rồi nhắn tin, nhưng chẳng cần đến năng lực siêu linh cũng biết cô bạn không muốn nói chuyện với cả hai chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi phải gọi đến nhà Haven và đứa em trai của cô – Austin – bảo rằng Haven suốt tối không về nhà.
Sau nguyên một ngày thơ thẩn với nhau cạnh bờ hồ, tôi định gọi thêm một chiếc bánh pizza nữa nhưng Damen đã kịp nhào tới chụp lấy cái điện thoại trong tay tôi và nhoẻn cười: “Anh sẽ nấu bữa tối!”
“Anh nấu được à?” Tôi trợn mắt, dù tự nhủ mình không nên ngạc nhiên làm gì. Sự thật là tôi chưa từng thấy có việc nào anh nói sẽ làm mà không làm được.
“Anh sẽ cho em làm giám khảo…”, Damen bật cười trước vẻ mặt ngố không chịu nổi của tôi.
“Anh… có cần em giúp gì không?” Tôi gợi ý dù biết toàn bộ khả năng nấu nướng của mình chỉ bao gồm nấu nước sôi, chế sữa và pha ngũ cốc.
Đáp lại lời tôi, Damen chỉ lắc đầu đi thẳng đến bếp lò. Tôi lên lầu để tắm, thay quần áo. Và khi anh gọi tôi xuống để ăn tối, tôi tròn xoe mắt khi trước mặt mình là một bàn ăn được bày biện như khách sạn năm sao bằng những đồ sứ tốt nhất của cô Sabine, vải lanh, nến. Cả một bình hoa thủy tinh lộng lẫy với hàng tá bông tulip.
“Xin mời quý cô!” Anh làm một cử chỉ lịch thiệp đến duyên dáng, kéo ghế cho tôi ngồi. Câu nói thốt ra bằng tiếp Pháp của anh du dương trong cách phát âm hoàn hảo.
“Em không thể tin anh có thể làm được…”. Tôi lắp bắp không nói nên lời.
“Tất cả là cho em!”
“Chỉ mình em? Anh không ăn à?”
Anh đáp lời tôi bằng một nụ cười và thoăn thoắt làm một đĩa rau trộn cho tôi. Thứ nước sốt rất đậm đà, hương vị thanh thoát đến mức tôi tự hỏi anh dùng đến nguyên liệu nào mới làm được như thế.
“Con gái không thể ăn pizza hoài được!”, anh cười.
Trong khi chúng tôi dùng bữa với nhau, tôi đặt cho anh hàng tá câu hỏi. Bao nhiêu là điều tôi muốn hỏi, nhưng có vẻ như lúc nào hỏi xong rồi tôi cũng quên bẵng đi mất, khi nhìn vào đôi mắt sâu thẳm quyến rũ của anh.
Càng nói chuyện, tôi càng ngạc nhiên vì thấy chúng tôi có nhiều điểm tương đồng với nhau đến thế. Cả hai đều mồ côi, dù cha mẹ anh đã mất đi và để anh lại một mình trên cõi đời này khi anh còn nhỏ hơn tôi rất nhiều.
“Vậy cuối cùng là sau chừng đó lần chuyển chổ ở, anh thích ở đâu nhất?”, tôi hỏi, nhận ra mình đã ăn sạch đến miếng cuối cùng, bụng vừa vặn với cảm giác no.
“Ngay ở đây”, Damen cười.
Tôi hơi trề môi, tỏ ý không tin lắm. Đúng là ở đây cũng đẹp nhưng không thể so sánh với hàng lô hàng lốc các thành phố sinh động khác trên thế giới, nơi anh đã từng sống qua.
“Thật đấy. Anh thấy rất hạnh phúc trong những ngày tháng ở đây…”. Damen gật đầu dứt khoát, nhìn thẳng vào tôi như để chứng minh cho câu nói của mình.
“Vậy anh không hạnh phúc khi ở Rome, Paris, New Delhi, hay New York sao?”
Anh nhún vai, bất ngờ quay đi, đôi mắt thấp thoáng một nỗi buồn xao động.
“Cái gì vậy?”, tôi hỏi khi thấy anh cầm chiếc ly thủy tinh lên, hớp một ngụm nước lạ màu đỏ sẫm được rót ra từ một chai thủy tinh bé xíu khác.
“Cái này à?”, Damen cười, nâng cái chai lên để tôi nhìn thấy nhưng không đưa nó cho tôi để tôi trực tiếp cầm xem.
“Món uống bí mật của gia đình…”. Anh lắc xoay vòng thứ nước trong chai. Tôi có thể thấy chất lỏng màu đỏ bên trong lóe sáng lên khi chạm vào thành chai rồi vỡ xuống thành muôn ngàn hạt bé li ti. Trông giống như hỗn hợp của rượu vang, máu, những tia sét giữa cơn giông tố, cộng với vô vàn hạt bụi kim cương.
“Em thử một chút xíu được không?”, tôi tò mò, dù không thực sự muốn uống cái gì mình chưa biết rõ.
Nhưng anh lắc đầu. “Em không thích nó đâu. Vì nó đắng như vị thuốc ấy. Thật ra nó là thuốc mà.”
Tôi nhìn Damen, tưởng tượng ra một căn bệnh gì đó đang gặm nhấm, hoành hành trong cơ thể anh, thấy mình xót xa trước một cơn đau mà anh có lẽ từng phải chịu hay đang phải chịu. Tôi biết anh không thể quá hoàn hảo như thế này được.
Nhưng anh nheo mắt cười và nắm chặt lấy tay tôi, trả lời cho tôi một câu hỏi mà tôi chưa kịp hỏi. “Em đừng lo. Anh không đau bệnh gì đâu. Đôi khi năng lượng của anh thấp đi một chút và cái này có thể giúp được. Giống như… giống như kiểu em vẫn hay uống một thứ nước tăng lực vậy!”
“Không phải ma túy chứ?”
“Chắc chắn”.
“Anh lấy nó ở đâu thế?”, tôi hỏi, lòng nhẹ nhõm hơn, nhưng vẫn cố tìm một nhãn hiệu, một ký hiệu nào đó trên chiếc chai thủy tinh. Song không có gì trên đó cả.
Damen cười.
“Anh nói rồi mà, đó là công thức bí mật của gia đình!”
Anh nói rồi cầm cái chai bé xíu lên, không cần rót ra ly nữa mà nốc một hơi dài cho đến hết. Sau đó, anh đẩy cái vỏ chai rỗng không sang một bên cùng với đĩa thức ăn đầy nguyên của mình. “Chúng ta đi bơi nhé?”
“Phải đợi một giờ sau khi ăn chứ!”, tôi lắc đầu quầy quậy.
Nhưng Damen nhất quyết kéo tay tôi và cười nghịch ngợm. “Đừng lo. Anh sẽ không để em chết đuối đâu!”
Nói vậy thôi, chứ anh vẫn đủ kiên nhẫn chờ thêm nửa tiếng đồng hồ để những món tôi ăn kịp tiêu hóa. Và sau đó, thay vì đi bơi, chúng tôi quyết định tắm chung với nhau trong bồn tắm trên phòng (vì đã có cả ngày trong hồ bơi còn gì!).
Sau thêm nửa giờ đùa nghịch trong bồn tắm đến khi bắt đầu run lên vì lạnh, chúng tôi quấn quanh người chiếc khăn bông khổ lớn, đi lên phòng tôi.
Damen dịu dàng kéo chiếc chăn bông trên người tôi ra. Hai cánh tay anh choàng quanh tôi, rắn chắc, ấm áp và mạnh mẽ.
Tôi cảm giác như thân thể chúng tôi hòa tan lẫn vào nhau. Nhưng sau một nụ hôn dài, tha thiết và nóng bỏng, tôi biết tôi nên nói ra những quy tắc đặc biệt khi đầu óc mình còn đủ tỉnh táo.
“Em rất muốn anh ở lại với em tối nay…”, tôi lắp bắp, luống cuống, cố nói cho rõ từng lời. Hai má tôi đỏ hồng trong khi anh vẫn chăm chăm nhìn vẻ bối rối của tôi với một nụ cười thích thú. “Em muốn anh ở lại. Nhưng… Ừm… Em… Em không chắc là chúng ta nên… Anh biết đó…”.
Ôi trời đất ơi, mình đang nói cái gì vậy? Có cô gái nào xử sự như mình không? Một buổi tối cuối tuần đẹp lung linh, không có cha mẹ hay người giám hộ ở bên… Và tuổi thì đã gần mười bảy – À không, chính xác là 16 rưỡi. Có khi nào anh ta trợn mắt nhìn mình như thể mình là một bà cô ế chồng cứng ngắc, lập dị, còn sót lại từ thế kỷ mười bảy hay mười tám?
Nhưng tất cả những gì Damen làm là dịu dàng dùng mấy ngón tay để dưới cằm của tôi và nâng nó lên ngang với anh. “Ever, anh hiểu mà…”. Anh thì thầm, vén tóc tôi ra sau vành tai, đặt một nụ hôn mơn man lên cổ tôi. “Anh biết chờ đợi, thật đấy. Anh đã chờ đợi rất lâu để được gặp em… Và anh còn có thể chờ nữa… Chờ mãi mãi…”.
Với một bộ quần áo ngủ ấm áp, với vòng tay của Damen bên cạnh cùng những lời thì thầm làm yên lòng tôi, tôi ngủ ngay sau chừng mười phút. Một cảm giác ấm áp và an toàn làm tôi dễ chịu.
Nhưng khi tôi thức dậy lúc 3 giờ 45’ sáng, tôi phát hiện ra Damen không còn ở đây nữa. Tôi quăng cái mền sang một bên, chạy ào ra cửa sổ, cái cảm giác hoảng sợ vì bị bỏ rơi như lúc trong hang đá lại ùa về. Tôi nhìn xuống sân trước tìm chiếc xe của anh, và ngạc nhiên khi thấy nó vẫn còn nguyên ở đó.
“Em tìm anh hả?”
Tôi quay ngoắt người lại, thấy anh đang đứng ngay trước cửa phòng, đôi mắt dịu dàng. Tim tôi đập loạn xạ, mặt tôi đỏ bừng lên. “Em… Em lăn qua và thấy anh không có ở đó. Và…”, tôi mím chặt môi, thấy mình thật trẻ con, lố bịch, nhỏ bé và lúng túng không biết phải làm gì.
“Anh xuống bếp uống nước…”. Damen cười, nắm tay tôi dẫn tôi trở lại giường.
Nhưng khi tôi nằm bên cạnh anh, tay để nhẹ lên tấm chăn của anh, tôi nhận ra nó lạnh lắm. Hình như anh đã ra khỏi phòng trước đó lâu rồi chứ không phải chỉ là đi uống nước.
Lần thứ hai tôi trở mình thức giấc, cái giường lại trống không.
Song, lần này thì tôi nghe tiếng của Damen trong phòng bếp ở tầng dưới. Tôi mặc áo choàng vào, đi xuống cầu thang thăm dò.
“Anh dậy bao lâu rồi?”
Tôi hỏi, nhìn căn bếp sạch sẽ gọn gàng. Những dấu tích của tối hôm trước đã được dọn đâu vào đấy cả. Giờ chỉ còn lại trên chiếc bàn gỗ một hàng dài đủ các loại bánh rán, bánh vòng, ngũ cốc… Những thứ không phải từ trong tủ đựng thức ăn của nhà tôi.
“Anh có thói quen dậy sớm”. Damen nhún vai. “Vì thế anh dọn dẹp lau chùi một chút trước khi chạy ra cửa tiệm bánh ngọt. Có lẽ anh mua hơi nhiều tí xíu, tại anh không biết em thích ăn gì!”
Anh cười, đến bên tôi và đặt một cái hôn nhẹ lên má tôi.
Tôi nhấp một ngụm nước cam vắt, vớ ngay lấy một chiếc bánh. “Anh muốn ăn một ít không? Hay anh vẫn ăn kiêng?”
“Ăn kiêng?”, anh nhướng mày, ngơ ngác nhìn tôi.
Tôi lắc đầu. “Anh ăn ít hơn bất kỳ người nào mà em từng biết. Ăn cứ như siêu mẫu giữ dáng. Chỉ uống nước, uống thuốc của anh và đẩy thức ăn sang một bên. Híc, tự dưng em thấy mình giống kẻ tham ăn béo phì bên cạnh một người bạn trai như anh đấy!”
Damen phá lên cười, vớ ngay lấy chiếc bánh rán và cắn một miếng rõ to.
“Đây này cô nương. Như vầy thì em có thấy tốt hơn chưa?”
Tôi mỉm cười giấu một nụ cười hài lòng, nhìn ra ngoài cửa sổ. Những tia nắng rực rỡ chói lọi bao phủ trên khắp cành các cành cây ngọn cỏ, dù thời tiết sắp vào Đông.
“Hôm nay chúng ta sẽ làm gì?”, tôi quay lại nhìn anh.
Anh nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của mình, rồi nhìn tôi.
“Anh phải đi thôi”.
“Nhưng cô Sabine đến chiều tối mới về mà”, tôi nói, ghét cái giọng như van xin của mình và ghét cái cảm giác thắt tim lại khi anh đong đưa cái chìa khóa xe trong tay.
“Anh phải về nhà làm một số việc. Em có muốn gặp anh ở trường vào ngày mai không?”, môi Damen dịu dàng áp lên má, lên tai, lên tóc và sau gáy của tôi.
“Trường học? Ô… Thế chúng ta vẫn tới đó à?”, tôi bật cười, nhớ đến những lần trốn học triền miên gần đây.
“Phải đến trường học vì em nghĩ đấy là việc quan trọng”. Damen nhún vai. “Chứ nếu cho anh quyết định, thì ngày nào cũng là ngày thứ Bảy!”
“Nhưng thứ Bảy thì cũng có gì đặc biệt chứ? Thứ Bảy nào chẳng giống thứ Bảy nào…”. Tôi cắn nhẹ một miếng bánh rán, chợt thấy chạnh lòng khi nhớ ra đã khá lâu rồi mình chẳng còn mong mỏi chờ đến ngày cuối tuần một cách đầy háo hức.
“Những ngày thứ Bảy dài mệt mỏi, chẳng có gì để làm, chẳng có gì để trông chờ. Chẳng có gì thú vị cả…”.
“Đừng có chắc chắn như thế!”, Damen cười.
“Thế chính xác việc nhà bí ẩn anh phải làm hôm nay là gì?” Tôi hỏi, hi vọng sẽ có một chút mô tả dù lờ mờ nhất nào đó về nhịp sinh hoạt cũng như cuộc sống thường nhật của anh, về những thứ anh làm trong lúc không có tôi ở bên.
Damen nhún vai. “Trời, vài chuyện vặt thôi mà!” Anh cười khi nói điều đó, nhưng rõ ràng là đã sẵn sàng đi.
“Ồ, em có thể…”.
Trước khi tôi có thể kịp kết thúc câu thì anh đã lắc đầu.
“Không được đâu. Em không phải giặt đồ, làm việc nhà hay dọn dẹp mấy thứ linh tinh giùm anh đâu!”
“Nhưng em muốn biết nơi anh sống. Em chưa bao giờ đến nhà một ai trạc tuổi em mà lại sống một mình được tự do hoàn toàn. Em rất tò mò!”
Dù tôi cố nói bằng giọng bông đùa nhất có thể, nhưng tôi nhận ra trong câu nói ấy vẫn có vẻ van xin và tuyệt vọng.
Damen lắc đầu, nghiêm nghị nhìn ra ngoài cửa.
Rõ ràng đã đến lúc tôi vẫy cờ trắng, thừa nhận sự thua cuộc. Nhưng tôi vẫn cố vớt vát thêm một câu hỏi cuối: “Nhưng tại sao?”
Mắt anh dịu lại. Môi lại nở một nụ cười hài hước.
“Bởi vì nhà anh là một đống hỗn độn kinh dị. Hàng tá chén đĩa dơ ăn xong chưa rửa. Quần áo bẩn vứt khắp nơi. Báo chí, tập vở, đồ dùng nằm dưới đất trên bàn. Anh không muốn em thấy điều đó và ác cảm về anh. Anh cũng không thể nào dọn dẹp được nếu có em bên cạnh. Lúc nào em cũng làm anh xao lãng…”
Damen nói trơn tru, nhưng cặp mắt lộ rõ vẻ sốt ruột đến mất kiên nhẫn. “Tối nay anh sẽ gọi cho em!” Anh quay đi, bước thẳng ra cửa.
“Thế chuyện gì sẽ xảy ra nếu em quyết định đi theo anh? Anh sẽ làm gì?”, tôi ngập ngừng, gượng nở một nụ cười lo lắng.
“Đừng theo anh, Ever!”
Anh chỉ nói thế, rồi đi.
Khi bóng Damen khuất xa rồi, tôi lấy điện thoại gọi cho Haven. Cuộc gọi được chuyển thẳng vào hộp thư thoại nhưng tôi không buồn để lại lời nhắn.
Tôi lên phòng của mình, tắm, rồi ngồi vào bàn giải quyết hết mớ bài tập tồn đọng nhiều ngày. Được chừng vài tiếng đồng hồ tập trung thì sau đó, hình ảnh Damen lại hiện lên trong tôi. Những điều kỳ lạ, những hành động bí ẩn, những thoái thác khi tôi muốn đến nhà. Thật sự tôi không thể lơ đi chuyện đó hoài được.
Làm sao mà anh có vẻ như biết hết những điều tôi suy nghĩ, trong khi tôi không thể biết tí gì về suy nghĩ về anh? Làm sao mới có mười bảy tuổi thôi, mà anh có đủ thời gian sống qua nhiều nơi như thế? Làm sao anh đủ thời gian để giỏi tất cả các môn, mỹ thuật, bóng đá, lướt ván, nấu ăn, văn chương, lịch sử thế giới… Làm sao anh di chuyển nhanh đến nỗi cứ như biến mất? Rồi chuyện về những đóa hoa hồng, những bông tulip như ảo thuật?
Làm sao anh có thể thuộc làu những câu nói trong những tác phẩm kinh điển của Bronte? Thậm chí có những lúc cư xử hoặc nói năng cứ như một nhân vật bước ra từ trong tác phẩm? Thêm nữa, có lúc anh hành động giống như là anh nhìn thấy Riley!
Sao anh không có vầng hào quang bao bọc xung quanh người và Drina cũng không có? Anh giấu tôi điều gì về mối quan hệ của anh với Drina? Và bây giờ thì anh lại còn không muốn tôi biết nhà anh ở đâu?
Sau khi chúng tôi ngủ với nhau…
Vâng, có lẽ tất cả những gì chúng tôi làm là ngủ, hiểu theo đúng nghĩa đen của nó, nhưng tôi nghĩ tôi xứng đáng nhận được những câu trả lời, ít nhất là cho một số câu hỏi của tôi chứ.
Tôi không chắc mình có nên cuốn Riley vào chuyện này không. Chưa kể đến rắc rối nho nhỏ là tôi không bết phải làm sao để kêu con bé tới. Trước giờ, con bé luôn tự xuất hiện, tự tung tăng nhí nhảnh trong phòng. Vậy bây giờ, nếu muốn gặp nó, tôi phải làm sao? Thắp một cây nến? Nhắm mắt và cầu nguyện?
Nghĩ đến đó thì tôi phì cười vì không tưởng tượng ra được cái cảnh mình đứng giữa phòng với một cây nến trên tay, mồm lẩm bẩm các lời thần chú.
Thay vì thế, tôi chỉ nhắm mắt lại, tự nói trong tâm thức của mình.
“Riley? Chị thật sự cần nói chuyện với em. Chị cần em giúp đỡ. Nhưng nếu em không muốn giúp, thì chị cũng hiểu, không có gì khó chịu cả. Bởi vì chuyện này có một chút kỳ quái, và… Ừm, thật tình chị thấy mình giống như một kẻ ngốc nghếch khi đứng đây lẩm bẩm một mình cái kiểu này. Nếu em có ở xung quanh chị. Thì ra dấu hiệu gì cho chị biết đi nhé!”
Tôi nói đến đó thì cái máy cassette bất ngờ nổi lên bài hát của Kelly Clarkson, bài mà Riley thường hay hát. Tôi mở mắt và thấy nó đang đứng trước mặt mình, cười sằng sặc.
“Em bó tay với chị luôn đó!”
“Ừa, chị cũng tự thấy mình như kẻ ngốc nghếch có vấn đề về tâm thần vậy”, tôi thở dài, mặt đỏ ửng lên.
“Thôi, nói ngắn gọn đi. Đại loại là chị muốn hối lộ em gái chị để nó theo dõi giùm bạn trai của chị phải không?”
“Sao em biết?”, tôi há hốc mồm nhìn nó, lần đầu tiên thấy ngạc nhiên đến thú vị vì đứa em của mình.
“Thôi nào!”, nó trợn mắt và nhảy lên giường tôi, “Chị nghĩ chị là người duy nhất ở đây đọc được ý nghĩa của người khác sao? Rốt cuộc chị có muốn biết nơi ở của bạn trai chị hay không?”
Tôi đến bên giường, ngồi xuống cạnh nó cười cầu hòa.
“Em có thể giúp thật không? Chị không biết nữa… Thật ra chị rất muốn biết, nhưng chị ngại kéo em dính vào chuyện này!”
“Nhưng nếu em đã làm rồi? Nếu em đã biết rồi?”
Con bé ngọ nguậy mấy ngón chân.
“Em đã đi vào trường?”, tôi trợn mắt, tự hỏi Riley còn biết những gì về Damen và tôi.
Nhưng nó chỉ cười.
“Còn hơn thế nữa. Em đi theo anh ấy… về nhà!”
Tôi há hốc mồm không nói được tiếng nào. Vài giây sau, tôi lắp bắp: “Nhưng bao giờ? Và bằng cách nào?”
Con bé thở dài đánh thượt một cái. Nó phát hiện ra rằng trong tâm trí tôi, tôi vẫn luôn nhầm nó như một đứa-em-còn-sống, một đứa em bình thường chứ không phải là đã chết.
“Thôi nào, bà chị của em! Bây giờ em đâu có cần xe để đưa em đến nơi mà em muốn đến! Em biết chị yêu anh ấy và em không trách gì chuyện đó cả. Đúng là anh ấy quá tuyệt. Nhưng… Anh ấy chỉ như giấc mơ. Chị còn nhớ cái ngày mà anh ấy lên phòng chị lần đầu tiên, rồi hành động như thể thấy được em không?”
Tôi gật đầu. Làm sao tôi quên được chứ!
“Anh ấy làm em hoảng sợ. Vì thế em quyết định điều tra!”
Tôi chồm người tới. “Sau đó thì sao?”
“Sau đó… Em không biết phải nói làm sao. Em hi vọng chị sẽ không kích động hay hiểu sai, nhưng… anh Damen hơi kỳ lạ!”
Con bé nhún vai.
“Anh ấy sống trong một căn nhà rộng thênh thang ở Newport Coast. Chị nghĩ xem… Với độ tuổi của anh ấy và với một căn nhà như thế!!! Anh ấy kiếm tiền ở đâu ra? Rõ ràng là em chưa thấy anh ấy đi làm việc bao giờ!”
Tôi nhớ lại cái ngày trong trường đua. Nhưng quyết định không đề cập đến.
“Nhưng đó chưa phải là phần lạ lùng nhất!”
Riley tiếp tục. “Bởi vì điều lạ lùng nhất nằm ở chỗ căn nhà hoàn toàn trống rỗng. Không có đồ đạc gì!”
“Trời ạ, thì anh ấy là con trai mà… Em muốn anh ấy phải có lỉnh kỉnh một đống đồ đạc linh tinh lang tang như chị hay em sao?” Tôi lên tiếng, rồi lại tự hỏi mình rằng sao tôi lại cần bảo vệ anh ta?
Con bé quyết liệt lắc đầu.
“Em nói không có đồ đạc gì theo đúng nghĩa đen ấy, chứ không phải ít đồ đạc hay chỉ có vài thứ vật dụng cá nhân đơn giản. Tất cả những gì có trong căn nhà đó là một chiếc iPod và một cái tivi màn hình phẳng. Chấm hết. Chỉ có vậy thôi. Tin em đi, em đã kiểm tra khắp nhà. À, trừ một cái phòng nhưng nó bị khóa”.
“Khóa mà ngăn được em sao?”, tôi nhíu mày, vì đã từng chính mắt thấy Riley đi xuyên qua các bức tường trong nhà tôi và những ngôi nhà khác hàng trăm ngàn lần.
“Không phải cái khóa ngăn em mà là em tự ngăn mình lại. Híc, chị đừng tưởng em chết rồi thì nghĩa là em không biết sợ cái gì!”
“Nhưng… theo chị biết thì Damen mới dọn về đó mà!”, tôi vẫn cố bào chữa, “Có thể anh ta còn chưa kịp đi mua các vật dụng…”.
Riley lắc đầu, nhìn tôi với vẻ như nó sắp thốt ra cho tôi biết một bí mật đằng sau. Nhưng rồi nó chỉ nhún vai: “Có lẽ chị nên tự tìm hiểu thì hơn!”
“Ý em là sao?”, tôi gặng hỏi, biết rằng vẫn có chuyện gì đó nó chưa nói với tôi.
“Chị nghe này…”, con bé đứng lên, “Có thể em sai… Thực tế em chỉ là một đứa trẻ. Có thể chẳng có gì nghiêm trọng cả, nhưng…”.
“Nhưng sao…?”
Nó hít một hơi thật sâu.
“Nhưng em nghĩ chị nên tự tìm hiểu!”
“Vậy làm sao chúng ta đến đó?”, tôi đứng dậy chộp lấy chùm chìa khóa xe.
Con bé lắc đầu quầy quậy ngay.
“Không thể được. Quên đi. Em tin là anh ấy thấy em!”
“Thì anh ta cũng thấy chị mà! Có gì khác đâu!”
Con bé ngập ngừng. “Không được. Em không muốn. Thôi, em sẽ vẽ đường cho chị vậy!”
oOo
Riley không giỏi vẽ bản đồ. Nó mất đến nửa tiếng đồng hồ để liệt kê ra một mớ danh sách tên đường, quẹo trái, quẹo phải, đủ hướng đông tây nam bắc.
Tôi phát nhức đầu.
“Em có chắc là em không muốn đi cùng chị không?”, tôi hỏi trước khi chụp lấy cái ba lô đi ra khỏi phòng.
Nó gật đầu khẳng định, nhưng vẫn lẽo đẽo theo tôi xuống cầu thang.
“Chị Ever…”.
Tôi quay lại.
Con bé chợt ngập ngừng.
“Nếu em không đến đây một thời gian… Em muốn chị biết rằng không phải vì em giận chị hay trừng phạt chị, hay bất cứ chuyện gì giống như vậy, nhé! Em hứa em sẽ vẫn quan sát cuộc sống của chị, để bảo đảm rằng chị không sao. Nhưng có lẽ em phải đi một thời gian. Có lẽ em sẽ bận rộn…”.
Người tôi đông cứng lại. Đó là dấu hiệu phản ứng đầu tiên của cơ thể khi hoảng sợ bắt đầu nổi lên.
“Em sẽ trở lại, đúng không?”
Nó gật đầu.
“Chỉ là…”, nó nhún vai. “Em hứa sẽ quay lại, em chỉ không biết là khi nào thôi!” Tôi thấy con bé cố cười, nhưng nụ cười đầy vẻ gượng gạo.
“Em không phải bỏ chị chứ, phải không?”
Tôi nín thở. Và chỉ thở hắt ra được khi nó lắc đầu.
“Ừ, thế là tốt rồi!” Tôi lẩm bẩm, muốn được ôm nó, giữ chặt nó một lần, nhưng biết rằng điều đó là không thể.
Vì vậy, tôi đi ra xe và khởi động máy.