Doãn Thanh Nhã từ khoang thuyền gấp rút chạy ra, được mọi người nhường chỗ thẳng đến mũi thuyền, hướng đến bảy chiếc Xích Long thuyền vẫn còn ở khoảng cách nửa dặm chăm chú nhìn, bình tĩnh nói: “Quả nhiên đã xảy ra chuyện, là Phi Ngư bộ của tiểu Ngụy.”
Cao Ngạn thở hổn hển đến bên cạnh nàng, hỏi: “Tiểu Ngụy là ai thế? Phi Ngư bộ là cái gì?”
Yến Phi và Trác Cuồng Sinh đưa mắt nhìn nhau, đều biết trong lòng đối phương nảy sinh cảm giác dị dạng. Dường như sau đêm hôm đó Doãn Thanh Nhã đã trở nên trưởng thành hơn, thần thái lạnh lùng không bình thường, so với hành vi đối nhân xử thế từ trước đến giờ của kiều nữ điêu ngoa này hoàn toàn thay đổi. Điều đó khiến mọi người có cảm giác thực sự phi thường cổ quái.
Doãn Thanh Nhã đáp: “Tiểu Ngụy là Ngụy Phẩm Lương, thủ hạ rất đắc lực của Hác đại ca, cũng là người đứng đầu của Phi Ngư bộ, nắm trong tay bảy chiếc Xích Long thuyền, tính năng có thể so với chiến thuyền Ẩn Long của Hác đại ca, có uy danh rất lớn trong Lưỡng Hồ bang bọn ta. Gã chuyên trách tập kích trong đêm, làm nhiệm vụ tối nguy hiểm là đột kích và thâm nhập địa bàn địch nhân. Ồ! Bọn họ đã nhìn thấy ta!”
Hai bên không ngừng tiến gần.
“Tiểu thư!”
Doãn Thanh Nhã đáp lời: “Phẩm Lương!”
Đứng giữa bang chúng Lưỡng Hồ bang trên chiếc Xích Long thuyền dẫn đầu, nổi bật là một thanh y đại hán trạc hai sáu, hai bảy tuổi, trường đao dắt trên lưng, hướng về phía Song Đầu thuyền của bọn họ nhảy tới, chỉ nhìn thân pháp, cũng biết là cao thủ hạng nhất.
Yến Phi đến lúc này mới không còn tâm ý đề phòng. Vào lúc ranh giới địch bạn khó phân như thế này, không ai dám có ý lơ là, hiện tại thủ lĩnh của đối phương một mình đến, lập tức cởi bỏ hết những nghi kỵ của bọn họ.
Chúng nhân lùi lại phía sau, để Ngụy Phẩm Lương có chỗ hạ thân, tiếp đó vượt ra ngoài ý liệu của mọi người, gã nấc lên một tiếng ‘hức’ rồi quỳ xuống trước mặt Doãn Thanh Nhã, khóc rống lên: “Tiểu thư! Bang chủ cùng Hác đại ca đã bị hại rồi!”
Chúng nhân nghe xong tâm thần chấn động, nói không ra lời, không ai nghĩ rằng Hác Trường Hanh cũng gặp tai họa.
Thân hình kiều diễm của Doãn Thanh Nhã run lên, hai hàng lệ không kiềm chế được trào ra, thốt: “Hác đại ca...Hác đại ca cũng...”
Trình Thương Cổ nói: “Xin Ngụy huynh trước hết lệnh cho thuộc hạ quay mũi thuyền.”
Gương mặt Ngụy Phẩm Lương đầy bi phẫn đứng dậy, phất tay ra hiệu, hướng về thuyền đội đưa ra mệnh lệnh, hai mắt hiện ra thần sắc kiên quyết.
Cao Ngạn âu yếm lấy tay áo lau nước mắt cho Doãn Thanh Nhã.
Doãn Thanh Nhã hồi phục trở lại, trầm giọng hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Ngụy Phẩm Lương đưa tay quệt ngang dòng lệ vương trên trên mặt, nhìn quanh mọi người, mục quang trước hết dừng lại trên người Yến Phi, giật mình thốt: “Yến Phi?”
Yến Phi gật đầu vẻ xác nhận, tiếp đó giới thiệu gã với mọi người.
Lúc này chín chiến thuyền, hợp thành một đội thuyền, tiếp tục theo hướng Đại Giang lướt tới.
Ngữ điệu Ngụy Phẩm Lương vẫn còn mang vẻ kích động: “Bọn ta phụng mệnh Hác đại ca, hộ tống tiểu thư bắc thượng đến Hoài Thủy, sau đó mới quay đầu trở lại Đại Giang. Y theo chỉ thị của Hác đại ca, tiềm ẩn ở Giang Lăng trên một nhánh sông nhỏ ở thượng du Đại Giang. Ba hôm trước thuộc hạ đột nhiên nhận được mật hàm đóng ấn vàng của Hác đại ca. Mật hàm đóng ấn vàng chính là mệnh lệnh tối cao của Hác đại ca, trong đó có ẩn chứa ấn ký mà chỉ có thuộc hạ nhận biết để phân biệt thật giả, khiến cho thuộc hạ biết là có chuyện khẩn cấp, vội vàng ly khai nhánh sông, từ chỗ trú chuyển sang Đại Giang.”
Doãn Thanh Nhã đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại, lãnh đạm hỏi: “Trong hoàng hàm* có chỉ thị gì?”
Ngụy Phẩm Lương đáp: “Trong hoàng hàm Hác đại ca nói rằng đại ca phụng mệnh bang chủ, nhất thiết phải lập tức quay về Lưỡng Hồ, dặn thuộc hạ đề cao cảnh giác, ngoại trừ hồng hàm** của bang chủ, không cần lý đến bất kỳ chỉ lệnh nào khác. Đại ca cũng nói tình thế rất nguy cấp, bọn ta và Hoàn Huyền lúc nào cũng có thể trở mặt động thủ, dặn dò thuộc hạ phải tùy cơ ứng biến, lúc cần thiết thì chạy về Lưỡng Hồ.”
Trác Cuồng Sinh hỏi: “Còn có chỉ thị gì khác không?”
Ngụy Phẩm Lương cười như mếu: “Tất cả chỉ có bấy nhiêu.”
Tiếp đó nói: “Đêm đó bọn ta toàn diện giới bị, gối lên vũ khí chờ trời sáng. Đến lúc bình minh, quả nhiên bang chủ cho người đưa hồng hàm đến, lệnh cho bọn ta đến Biên Hoang tập đón tiểu thư trở về, sáu chiến thuyền khác thì quay về hạ du nhập với đội ngũ.”
Diêu Mãnh tức giận nghiến răng ken két: “Hoàn Huyền đích thị là tên gian tặc ti bỉ số một thiên hạ, nhất định Thanh Nhã không bao giờ bỏ qua cho hắn.”
Ngụy Phẩm Lương than vãn: “Nếu ngay từ đầu trong mật hàm của Hác đại ca không cảnh cáo, khẳng định là thuộc hạ đã trúng kế. Khi nhận được một phong mật hàm rất khác với tác phong quyết đoán trước nay của bang chủ, trong lòng thuộc hạ biết là bất diệu, lập tức bắt lấy kẻ đưa thư, sau đó dùng nghiêm hình bức cung, mới biết được sự tình. Ôi!”
Nói đến đó, lại không nhịn được rơi lệ, khiến người ta cảm thấy gã đúng là một hán tử bộc trực.
Trình Thương Cổ là lão giang hồ, nhíu mày hỏi: “Phẩm Lương ngươi không hề biết đến chuyện bang chủ lão mưu thâm toán đã xảy ra chuyện, mà người đến khẳng định phải là người có tư cách làm được việc và được tin tưởng, lại giữ hồng hàm khiến ngươi vô pháp hoài nghi. Tại sao ngươi dám mạo hiểm vi phạm mệnh lệnh, xuất thủ bắt giữ người, rồi lại nghiêm hình bức cung?”
Trác Cuồng Sinh không thể không đồng ý với những lời của Trình Thương Cổ, tính đến một phương pháp thận trọng khác, là sau khi đem tín sứ giam cầm, lại sai người thám thính tình huống, xem Nhiếp Thiên Hoàn có biết rõ tình hình hay không.
Doãn Thanh Nhã bình tĩnh nói: “Ta có thể thay mặt Phẩm Lương hồi đáp vấn đề đó. Bởi vì chuyện ta đến Biên Hoang tập làm nhiệm vụ, ngoại trừ sư phó và Hác đại ca, thì chỉ có Phẩm Lương biết được sự tình, là do chính miệng ta nói cho y biết.”
Chúng nhân đều sực tỉnh, đồng thời hiểu rõ Doãn Thanh Nhã tín nhiệm Ngụy Phẩm Lương, bằng không sao lại để cho gã biết chân tướng sự việc chuyện nàng đến Biên Hoang tập. Mà Ngụy Phẩm Lương chính là do biết rõ Doãn Thanh Nhã lưu lại Biên Hoang tập vì có việc trọng đại, liên quan đến chuyện Lưỡng Hồ bang có khai chiến với Hoang nhân hay không, vì thế mới tỉnh ngộ mật hàm đó không phải là từ Nhiếp Thiên Hoàn.
Doãn Thanh Nhã thình lình lại mất đi vẻ bình tĩnh, hai mắt ngấn lệ, giọng run rẩy: “Nói đi! Phẩm Lương ngươi nói đi! Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Cao Ngạn vội ôm lấy đôi vai thon của Doãn Thanh Nhã.
Ngụy Phẩm Lương hít vào một hơi thật sâu, cố gắng đè nén tâm tình đang kích động, nói: “Mã Quân cùng Chu Thiệu đã bán rẻ bang chủ cùng Hác đại ca, theo về với Hoàn Huyền rồi. Bọn chúng giúp Hoàn Huyền liên thủ sắp đặt, trước sau sát hại Hác đại ca và bang chủ, lại dùng gian kế đột tập các huynh đệ bọn ta, khiến thuyền đội bọn ta toàn quân bị diệt. Thuộc hạ nhất định vì bang chủ báo thù. Thuộc hạ sợ Hoàn Huyền sai Mã Quân hoặc Chu Thiệu đến Biên Hoang tập lừa gạt tiểu thư, cho nên trước tiên chạy đến Biên Hoang tập.”
“Trời!”
Doãn Thanh Nhã lại chịu không thấu, vừa khóc vừa đổ vào người Cao Ngạn.
Yến Phi trầm giọng nói: “Cách làm của Phẩm Lương ngươi rất đúng đắn. Lần này các ngươi đã thua đến không cách gì cựa mình, chỉ cần có khả năng đi trước một bước so với Mã Quân và Chu Thiệu trở về Lưỡng Hồ, triệu tập tất cả các huynh đệ, rồi phân tán lại lực lượng, tạm thời tránh khỏi khí thế mạnh mẽ của địch nhân, thì có thể chờ thời cơ tái quật khởi.”
Lưu Mục Chi tiếp lời: “Vào lúc Lưu Dụ phản công Hoàn Huyền, là lúc cơ hội của các ngươi đã tới.”
Ngụy Phẩm Lương giật mình thốt: “Lưu Dụ?”
Lưu Mục Chi gật đầu khẳng định: “Chính là Lưu Dụ. Gã không chỉ là hy vọng duy nhất của các ngươi, mà còn là hy vọng cuối cùng của Nam phương. Chỉ có gã mới có khả năng đánh bại Hoàn Huyền, vì bang chủ của các ngươi mà báo mối huyết hải thâm cừu.”
Nhãn tình của Ngụy Phẩm Lương đã sáng trở lại, tựa như đã nhìn thấy một tia sáng lóe lên trên bầu trời.
:77:
Lúc Lưu Dụ thúc ngựa tiến vào mộc trại, các chiến sỹ Bắc Phủ binh ở Lâm Hải vận, bất luận đã bước lên chiến thuyền, hay là đang phòng thủ bảo vệ mộc trại, tất cả đều hô vang tên Lưu Dụ, người người trong trạng thái giống như điên cuồng, hào hứng cuồn cuộn, tiếng kêu la gào thét làm chấn động toàn bộ khu bến thuyền.
Lưu Dụ dẫn đầu một nhánh kỵ binh sau cùng, rút khỏi Cối Kê, cuối cùng an nhiên về đến Lâm Hải vận.
Chu Tự đích thân ra đại môn nghênh đón Lưu Dụ, cùng gã cưỡi ngựa đi giữa binh sĩ hai bên đường đang tung hô tiến vào Lâm Hải vận.
Vào lúc Lưu Dụ vượt qua cổng trại, gã không những biết rằng trong cuộc chiến lần này với Thiên Sư quân, thời điểm gian khó nhất đã qua, mà còn hiểu rằng thắng lợi đã nằm trong tầm tay gã.
Tiếng hoan hô như sóng dậy vang lên từng đợt, xu thế không có đến nửa điểm giảm bớt hoặc yếu đi. Chỉ có mang sự nhiệt tình trong lòng phát tiết ra bên ngoài như vậy, mới thể hiện hết sự tôn kính và cảm kích của Bắc Phủ binh đối với Lưu Dụ. Chính Lưu Dụ là người đã cứu họ ra từ trong vực sâu tuyệt vọng và nỗi ám ảnh tử vong, gây dựng lại uy vọng và tín tâm đối với Bắc Phủ binh. Mà Lưu Dụ đã thực hiện lời hứa của gã, là người cuối cùng rút khỏi Cối Kê. Sự thật đó có sức kích động nhân tâm và sự phấn chấn rất lớn so với bất kỳ ngôn ngữ nào, khiến cho những người trong lòng còn nghi hoặc không thể không thừa nhận gã đúng là một thống soái tối hảo vì thủ hạ mà lo lắng.
Lưu Dụ cũng chứng minh rằng tài năng của gã không hề dưới Tạ Huyền. Toàn bộ hành động rút quân thật là sảng khoái linh hoạt, không có một chút hàm hồ, mà rút nhưng không loạn, bày bố đầy rẫy cạm bẫy lớn nhỏ, dẫn dụ Thiên Sư quân đến tập kích, cuối cùng từng bước tiêu diệt. Sau Tạ Huyền, Lưu Dụ chính là minh soái thứ hai có thể phát huy ưu điểm của Bắc Phủ binh đến mức lâm ly như vậy, biểu hiện phong độ khí phách của một đại tướng, đem chuyện rút lui nguyên bản là cực kỳ đáng thất vọng, biến thành một trường thắng lợi của việc điều binh khiển tướng.
Dùng hành động triệt thoái phối hợp với cuộc chiến phản kích tiêu hao vành đai bao vây, làm cho quân tâm phấn chấn.
Quả như sở liệu của Lưu Dụ, ba ngày trước một trăm thuyền lương cùng gần ba trăm thuyền chiến của Thiên Sư quân, chia ra từng đoàn theo đường sông tiến ra cửa biển, chuẩn bị quyết chiến ở Hải Diêm, đã bị Đồ Phụng Tam với “Kỳ Binh hào” dẫn đầu, tự mình chỉ huy một đội chiến thuyền gồm bốn mươi chiến thuyền hợp thành, theo vùng biển phía tây nam Hải Diêm chặn đánh. “Kỳ Binh hào” do Lão Thủ chỉ huy, phát huy được hết bản lĩnh siêu việt của chiếm hạm, tham chiến còn có hai mươi chiếc Song Đầu thuyền, thể hiện đầy đủ tính năng linh hoạt dùng ít địch nhiều, đột phá qua đội chiến thuyền vũ trang bảo vệ xung quanh đội thuyền lương, đánh chìm đội thuyền vận lương của Thiên Sư quân, đập tan giấc mộng đẹp công hãm Hải Diêm của Từ Đạo Phúc.
Chiến dịch này đã làm cho phía Lưu Dụ tổn thất hai mươi tám chiến thuyền, trong đó có tám Song Đầu hạm. Thiên Sư quân thì bị đánh chìm và thiêu hủy hơn một trăm chiến thuyền, con số thuyền vận lương chạy thoát chỉ có mười chiếc. Cuộc chiến này đã triệt để đảo ngược ưu thế của Thiên Sư quân trên mặt biển, cũng khiến chúng mất quyền khống chế khu vực cửa biển. Cho dù Từ Đạo Phúc có ý đồ phản kích, cũng chỉ có thể bằng vào cuộc chiến trên bộ để quyết định thắng bại vinh nhục.
Mà cơn ác mộng của Thiên Sư quân tịnh không dừng ở đó. Lý do là Lưu Nghị đã suất lĩnh ba ngàn kỵ binh hợp thành lực lượng bộ đội ứng biến nhanh, đột kích Thiên Sư quân rút chạy lên bờ, cắt đứt đường rút lui về Gia Hưng của chúng.
Vào lúc Từ Đạo Phúc biết là bất diệu, một ngàn binh sĩ có nhiệm vụ công thành của Khoái Ân đã đến bên dưới thành Gia Hưng, đối đầu với chỉ hơn năm trăm quân phòng thủ thành Gia Hưng, phát động cuộc chiến công thành ngày đêm không ngừng nghỉ. Thiên Sư quân chống cự được hai ngày hai đêm thì bỏ thành đào tẩu, Gia Hưng lại rơi vào tay của Bắc Phủ binh.
Khoái Ân lập tức phái quân cắt đứt lộ tuyến giao thông mặt bắc Ngô Quận, lại cho một cánh quân khác đến khu vực giữa Ngô Quận và Thái Hồ thiết lập trận địa lũy trại kiên cố vừa có khả năng cư trú và phòng thủ. Đến nước này Ngô Quận đã biến thành một tòa cô thành, không hề còn sức phản kích nữa.
Tất cả mục tiêu quân sự mà Lưu Dụ đặt ra đang sắp sửa hoàn thành, chỉ còn chờ sau khi Lưu Dụ cùng một lượng lớn Bắc Phủ binh yên ổn tại Hải Diêm, sẽ cùng Từ Đạo Phúc quyết đấu một trận cuối cùng.
Trong tiếng reo hò đến khản giọng kiệt lực của đám thủ hạ, Lưu Dụ hiên ngang trèo lên “Kỳ Binh hào”, nghênh đón gã chính là Đồ Phụng Tam và Lão Thủ, tâm tình của hai người cũng cực kỳ kích động.
Đồ Phụng Tam quát: “Gióng trống!”
Tám tay trống chỉ chờ có thế, đồng thời đánh mạnh vào tám chiếc trống cái đặt trên boong ‘Kỳ Binh hào’ phát ra tiếng kêu rung chuyển trời đất, át hẳn tiếng reo hò đang dần dần lắng đi.
Tiếng trống bỗng ngừng lại, toàn bộ Lầm Hải vận biến thành im lặng không tiếng động, tại nơi bến thuyền có hai mươi chiến thuyền Bắc Phủ binh, cùng đám quân sĩ Bắc Phủ binh đang đứng trên bờ chờ để lên thuyền. Toàn thể mọi người đều hướng về Lưu Dụ oai phong lẫm lẫm đang đứng trên đài chỉ huy của “Kỳ Binh hào” – người anh hùng trong lòng bọn họ.
Thần sắc Lưu Dụ bình tĩnh nhìn xung quanh nơi các huynh đệ xa gần đang trông ngóng về phía gã, đột nhiên vung quyền lên cao, thét lớn: “Các huynh đệ! Bọn ta quay về Hải Diêm. Bắt đầu từ ngày hôm nay, bọn ta đồng sinh đồng tử, cho đến khi người người an cư lạc nghiệp, cơm no áo ấm, thiên hạ thái bình.”
Tiếng gã lập tức vang vọng xa gần như tiếng sấm bên tai. Trên bờ Chu Tự lập tức hạ lệnh, binh lính trật tự theo hàng lối từng người lên thuyền, bắt đầu giai đoạn cuối cùng của cuộc đại rút lui.
Lúc này mười chiếc Song Đầu hạm của Giang Văn Thanh xuất hiện nơi mặt biển phẳng lặng ở phía đông, càng tăng thêm khí thế như mặt trời giữa ngọ của Lưu quân.
‘Kỳ Binh hào’ là chiến thuyền cuối cùng rời khỏi Lâm Hải vận, Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam đứng trên đài chỉ huy đều phát sinh cảm giác động lòng người là đã ổn định được đại cục.
Lưu Dụ lúc này mới có cơ hội cùng Đồ Phụng Tam nói chuyện, hỏi: “Mặt Kiến Khang có tin tức gì mới không?”
Đồ Phụng Tam đáp: “Trước khi ta ly khai Hải Diêm, nhận được một tin tức kinh người, nhất định Nhiếp Thiên Hoàn và Hác Trường Hanh đã bị Hoàn Huyền giết rồi, chiến thuyền Lưỡng Hồ bang gần như toàn quân bị diệt.”
Lưu Dụ đại chấn hỏi: “Sinh tử của Tiểu Bạch Nhạn ra sao?”
Đồ Phụng Tam ngẩn người: “Thật không ngờ phản ứng của ngươi lại là câu nói đó, ta còn tưởng rằng ngươi sẽ nói điều đó là không có khả năng, Hoàn Huyền bằng vào cái gì mà có thể dễ dàng thu thập Nhiếp Thiên Hoàn.”
Lưu Dụ cười gượng: “Thì Cao Ngạn chính là hảo bằng hữu của ta mà! Ta vì quan tâm đến y nên lo lắng cho Tiểu Bạch Nhạn. Một mỹ nhân bé bỏng như Tiểu Bạch Nhạn, rơi vào tay Hoàn Huyền thì không thể tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra.”
Không khỏi nhớ đến Vương Đạm Chân, trong lòng cực kỳ thống khổ.
Đồ Phụng Tam nói: “Không hề có tin tức về Tiểu Bạch Nhạn. Nói thực ra, ta cũng rất lo lắng cho nàng, nếu mà nàng có bề gì, thì khẳng định là Cao Ngạn sẽ tự tận để trọn tình. Ài! Thực là làm người ta nghĩ không ra, với tài trí và bản lĩnh của Nhiếp Thiên Hoàn, sao lại vấp ngã trong tay Hoàn Huyền. Sau khi thu thập Nhiếp Thiên Hoàn, Hoàn Huyền lập tức tiến đánh Giang Lăng, đem hai người Dương Toàn Kỳ và Ân Trọng Kham chém đầu, còn đem thủ cấp hai người bọn họ, cùng với thủ cấp Nhiếp Thiên Hoàn và Hác Trường Hanh, sai người đưa về Kiến Khang, nói bản thân đã có công tru diệt phản tặc, bắt Triều đình lập tức phong cho hắn chức Đại tư mã. Ta chửi con mẹ hắn, Hoàn Huyền thật là bức người thái quá.”
Lưu Dụ lấy lại bình tĩnh, không gỡ bỏ được mối nghi hoặc hỏi: “Hoàn Huyền bằng vào cái gì mà có khả năng dễ dàng nuốt chửng Lưỡng Hồ bang vậy?”
Đồ Phụng Tam bình tĩnh đáp: “Theo ta thấy thì chuyện này có quan hệ đến Tiều Tung. Tiều Tung chắc chắn là người của Ma môn, đã nhiều năm ở trong bóng tối an bài. Nói không chừng có cả giáo đồ Ma môn nằm vùng trong Lưỡng Hồ bang, giành được sự tín nhiệm của Nhiếp Thiên Hoàn. Bằng không bất luận Hoàn Huyền và Tiều Tung có lợi hại như thế nào, cũng vô pháp đánh đổ Nhiếp Thiên Hoàn dễ dàng như vậy.”
Rồi thở dài: “Mà có lẽ đây là thiên lý tuần hoàn. Năm đó Đại Giang bang có Hồ Khiếu Thiên tiết lộ cơ mật, hại Giang Hải Lưu táng mạng trong tay Nhiếp Thiên Hoàn. Hiện tại đến lượt Nhiếp Thiên Hoàn bị nội gian bán đứng, đó chẳng phải là báo ứng sao?”
Lưu Dụ hỏi: “Văn Thanh đã biết chuyện này chưa?”
Đồ Phụng Tam lắc đầu đáp: “Ta vẫn còn chưa gặp mặt nàng. Chuyện trọng đại như thế này, hãy để ngươi chính miệng nói cho nàng biết thì thích hợp hơn.”
Lưu Dụ gật đầu thể hiện đồng ý. Nói: “Ta thực sự sợ rằng Tư Mã Nguyên Hiển không giữ được Kiến Khang.”
Đồ Phụng Tam nghiêm mặt: “Trên con đường tranh bá của bọn ta, tuyệt không có chỗ cho lòng nhân ái kiểu đàn bà. Tình huống của Kiến Khang hiện tại, đúng như là trước đây bọn ta đã dự liệu. Tư Mã Hoàng triều không còn một chút hy vọng gì nữa, vấn đề là người thay đổi thời đại rốt cuộc là Hoàn Huyền, Lưu Lao Chi hay là tiểu Lưu gia ngươi. Minh bạch rồi chứ?”
Lưu Dụ vớt vát: “Ta đã hiểu! Nhưng mà bọn ta đã từng cùng Tư Mã Nguyên Hiển có một đoạn giao tình thực sự.”
Đồ Phụng Tam nói: “Làm người cần nhất là thật sự cầu thị. Chuyện tối trọng yếu trước mắt, là thu thập Từ Đạo Phúc, bình định Nam phương, thiết lập cứ điểm và lãnh địa của bọn ta, những chuyện khác bọn ta không cần lý đến, cũng bởi thực lực của bọn ta chưa đủ. Tình huống có điểm giống với Cối Kê và Tạ Diễm, bọn ta chỉ có khả năng chờ đến khi có cơ hội tốt nhất, mới có thể toàn lực phản kích.”
Ngừng một chút rồi tiếp tục: “Sự thật là toàn bộ tình huống phát triển như vậy đối với bọn ta chỉ có lợi mà vô hại. Nói cho cùng Tư Mã thị vẫn là chính thống ở Nam phương, Hoàn Huyền soán ngôi Tư Mã Hoàng triều, trong lòng của giới cao môn đại tộc, chính là gian tặc cướp nước. Cho nên chỉ cần bọn ta mang chiêu bài tiễu trừ giặc cỏ, sau khi thu thập Thiên Sư quân thì hồi sư Bắc phạt, vừa danh chính ngôn thuận, vừa tiết kiệm cho bọn ta không ít công phu.”
Lưu Dụ gật đầu: “Phụng Tam nói đúng lắm. Được! Tất cả phải lấy đại cục làm trọng.”
Rồi nhíu mày hỏi: “Hoàn Huyền thấy Gia Hưng lọt vào tay bọn ta, khẳng định sẽ không lãng phí thời gian, chắc sẽ lập tức tiến đánh Kiến Khang. Như vậy Lưu Lao Chi sẽ có phản ứng thế nào?”
Đồ Phụng Tam khinh bỉ: “Lưu Lao Chi tuy là ngu xuẩn, cũng không ngu xuẩn đến mức cùng Hoàn Huyền liên thủ tấn công Kiến Khang đâu! Ta thấy hắn sẽ án binh bất động ở Quảng Lăng, cách sơn quan hổ đấu. Tốt nhất là Hoàn Huyền và Tư Mã Nguyên Hiển cùng lưỡng bại câu thương, thì Lưu Lao Chi mới có thể có tư thế cần vương, thu thập tàn cục, trở thành người có thực lực nhất Kiến Khang.”
Lưu Dụ thở dài: “Ta sợ là tao ngộ của Nhiếp Thiên Hoàn, sẽ lại tái diễn đối với Tư Mã Nguyên Hiển.”
Đồ Phụng Tam than thở: “Khả năng rất lớn, đó là quân cờ Trần công công có thể phát huy uy lực cực đại.”
Lưu Dụ gật đầu nói: “Không sai, nếu quả Tư Mã Nguyên Hiển thất bại vừa nhanh chóng vừa thê thảm, Lưu Lao Chi chỉ ngồi đó làm ngư ông đắc lợi như dự tính, thì nhất định sẽ bị đánh mà không kịp kêu.”
Đồ Phụng Tam hừ lạnh: “Không chỉ bị đánh không kịp kêu, mà còn chết rất thảm nữa. Trong số cao môn Kiến Khang những kẻ ủng hộ Hoàn Huyền không phải là ít, mà chi trì Lưu Lao Chi thì tìm mãi không được nửa người. Đương nhiên khi Hoàn Huyền ngồi lên ghế Hoàng đế, Lưu Lao Chi có thể làm được cái gì đây? Chỉ riêng phương diện lương thảo thiếu thốn, cũng làm cho Lưu Lao Chi không thể không khuất phục. Hơn nữa phía sau Hoàn Huyền còn có Ma môn với thực lực chân chính là khó lường, khẳng định là Lưu Lao Chi không thể có sức hoàn thủ.”
Lưu Dụ lạnh lùng nói: “Đó là Lưu Lao Chi mình làm mình chịu, không thể oán người khác. Bất quá trước khi Lưu Lao Chi bị đánh tan, bọn ta phải thu thập Từ Đạo Phúc. Chỉ cần bọn ta có khả năng chiếm được Quảng Lăng trước Hoàn Huyền, đi trước một bước quay về Quảng Lăng, thì bọn ta có đầy đủ tư cách cùng Hoàn Huyền tranh đoạt Kiến Khang.”
Đồ Phụng Tam đồng tình: “Tình huống đại thể là như vậy. Lúc này điều nên làm là nghiên cứu làm thế nào để thu thập Từ Đạo Phúc đây!”
Trong lòng Lưu Dụ nổi lên một trận kích động, ánh mắt hướng về mặt biển mênh mông phía trước, tâm tình tựa như mặt biển sóng trào mãnh liệt.
Sau bao năm gian khổ cuối cùng cơ hội đã nắm trong tay, cho dù chỉ còn một binh một tốt cuối cùng, gã cũng tuyệt không bỏ qua cho Hoàn Huyền.
Chú thích:
* và ** Hoàng hàm: Thư có màu vàng. Hồng hàm: Thư có màu đỏ. Người xưa hay dùng màu sắc để phân cấp độ của người gửi.
Hết chương 497
~*~*~*~*~*~*~*~*~