Ba chiếc Song đầu thuyền xuyên Dĩnh Thủy thẳng tiến lên phía Bắc, đích đến là vùng đất hoang hóa thần bí, vô thiên vô pháp Biên Hoang tập.
Trong khoang thuyền, Lưu Dụ và Giang Văn Thanh ngồi tại chiếc bàn tròn đặt giữa trung tâm cùng nhau đối thoại.
Sáng sớm đã gặp mặt, nhưng đến lúc này họ mới có cơ hội được cùng nhau dốc bầu tâm sự. Tống Bi Phong biết Lưu Dụ có đại sự cần thương lượng với Giang Văn Thanh bèn cố ý lánh vào thương phòng, đồng thời tranh thủ nghỉ ngơi chuẩn bị ứng phó với mọi đột biến có thể xảy ra.
Cuộc đàm phán thương mại với Khổng Tĩnh diễn ra khá thuận lợi với thành ý hợp tác của cả hai bên. Tới lúc Khổng Tĩnh đề xuất trao đổi một trăm xe muối lấy năm trăm thớt chiến mã thượng đẳng, Giang Văn Thanh bèn cố ý xin ý kiến của Lưu Dụ, thấy gã gật đầu, nàng lập tức đáp ứng yêu cầu của Khổng Tĩnh, chẳng những nâng cao thể diện cho Lưu Dụ mà còn khiến cho Khổng Tĩnh hiểu rõ mối quan hệ giữa hai người không phải tầm thường, vì vậy mà nàng mới chịu một chuyến làm ăn lỗ vốn không tiền lệ như vậy.
Khổng Tĩnh là lão giang hồ, lập tức tỏ thái độ từ sau nhất định không có chuyện này nữa, cho dù Lưu Lao Chi còn có những yêu cầu vô lý khác, Khổng Tĩnh sẽ tự có cách ứng phó. Suy cho cùng thì Khổng Tĩnh cũng tuyệt chẳng có ý muốn làm người phụ họa cho Lưu Lao Chi.
Giang Văn Thanh cẩn thận quan sát Lưu Dụ, lộ vẻ hoan hỉ ra mặt, nói: ”Lưu huynh thật sự thần thông quảng đại, ra tay là giải quyết được mọi vấn đề đang làm bọn ta nhức đầu. Khổng Tĩnh là đối tác kinh doanh tin cậy, chúng ta sớm đã nghe danh từ lâu”.
Lưu Dụ lúng túng than: “Lần này ta thực phải cám ơn nàng mới đúng, yêu cầu của tham quân đại nhân lần này thực có phần quá đáng”.
Giang Văn Thanh mắt long lanh lườm yêu, mỉm cười mà nói: “Tặng lão năm trăm thớt chiến mã thì sao chứ? Ít nhất cũng thấy rõ được lão là người hám lợi, lại càng minh bạch Huyền soái tại sao chọn chàng chứ chẳng phải lão. Chúng ta từ Yến Nhân và Hoàng Hà bang đã thu được rất nhiến chiến mã, năm trăm thớt bất quá chỉ là con số nhỏ. Biên Hoang Tập đến giờ vẫn là vùng đất giàu có và đông đúc nhất thiên hạ, duy có điều lương thực thật sự khan hiếm. Về phương diện này Khổng Tĩnh là người có kinh nghiệm, so với cả hai chúng ta, làm hai thua một nào có đáng kể gì để nói đến”.
Lưu Dụ vô cùng cảm kích việc nàng hiểu và thông cảm với người khác, đồng thời trong lòng cũng xuất hiện cảm giác kỳ dị, khó diễn tả. Nếu nói hắn cùng Tống Bi Phong là đồng bệnh tương lân, thì gã với nàng là có phúc cùng hưởng có họa cùng chia. Nếu có bên nào thất bại tất sẽ kéo theo bên kia đi cùng.
Sở dĩ gã không sợ Giang Văn Thanh hiểu thấu bí mật của mình, vì điểm tối quan trọng là Giang Văn Thanh minh bạch tại sao gã phải lánh dữ cầu sinh, và rằng gã không có sự lựa chọn tốt hơn.
Gã hỏi: “Có tin tức gì của Nhiếp Thiên Hoàn và Tôn Ân không ?”.
Giang Văn Thanh lạnh lùng nói: “Nhiếp Thiên Hoàn mặc dù ngoài miệng nói chưa thể phục hồi sau trận tập kích Biên Hoang tập, nhưng thực sự binh lính chưa bị tổn thương nguyên khí và và thuyền chiến vẫn chưa bị mất mát nhiều, hiện tại đang thừa cơ ẩn mình dưỡng sức, che giấu thực lực, chân chính chỉ cần tránh được Hoàn Huyền không phái hắn đi đánh trận là được, đích thị là muốn ngư ông đắc lợi. Mưu ma chước quỷ của hắn chỉ giấu được thiên hạ chứ đâu thể giấu được muội”.
Nàng nhìn Lưu Dụ trầm ngâm không nói, rồi tiếp: “Tôn Ân thì rục rịch muốn động, phái Từ Đạo Phúc chiếm đảo Ông Châu làm đại bản doanh, cường hào các quận, huyện duyên hải rối rít hưởng ứng, chỉ cần phát động, các vùng duyên hải nam Kiến Khang sẽ lập tức rơi vào tay Thiên Sư Quân, loạn động sẽ giống như lửa bén rừng khô lan khắp Kiến Khang, tình thế nguy cấp đến cực điểm, vậy mà Tư Mã Diệu vẫn đang cùng Tư Mã Đạo đấu đá chí tử quả thật khiến người ta dở khóc dở cười. Gã ngu xuẩn Vương Cung không biết đại họa sắp đến, lại thông qua Âu Trọng Tham cấu kết với Hoàn Huyền, thật là không biết sống chết”.
Trong lòng Lưu Dụ thầm kêu: “Tuyệt!”, Giang Văn Thanh với tình thế phương Nam quả thực nắm rõ như lòng bàn tay, so với các thế lực chính trị khác, chỉ có hơn chứ không thể kém.
Đại Giang bang tổn thất vị tiền bang chủ và rất nhiều chiến thuyền, nhưng sớm đã có ảnh hưởng dân gian, khắp nơi đều có tai mắt. Do vậy hiểu biết của Giang Văn Thanh đối với tình thế phương nam thật là đáng quý.
Đột nhiên, gã cảm thấy mình như một ông chồng xa nhà lâu ngày, về nhà nghe bà vợ thì thầm bên gối kể lể tâm tình, tuy rằng Giang Văn Thanh vẫn trong lốt hoa hoa công tử Tống Mạnh Tề, đàm thiên thuyết địa đại sự quốc gia, nhưng hàng my khóe miệng vẫn tràn đầy xuân ý, đôi lúc cười cười nói nói đậm nét phong tình, khiến tâm tình nặng nề của gã như tạm thời thoát ly bão táp phong ba. Ai da, ta làm sao thế này!
“Lưu huynh suy nghĩ gì vậy?”
Lưu Dụ chột dạ, hoang mang nói: “À, không có gì, chỉ là đang nghĩ đến tình thế của Kiến Khang, cho dù Tôn Ân có thâu tóm được hết các quận huyện phía Nam, thì Kiến Khang chỉ e cũng không phải dễ hạ, bất quá cũng gây tổn hại nghiêm trọng đến kinh tế và tình hình ổn định của Kiến Khang hiện nay mà thôi”.
Giang Văn Thanh dương cặp mắt diễm lệ dán chặt vào gã mà rằng: “Thế sao huynh lại đỏ mặt thế?”.
Nói ra câu này, nàng tựa hồ nhận thấy tình huống có điểm bất thường, hai má ẩn ước như có đám mây hồng, khiến nàng càng thêm kiều diễm mê người, phối hợp với y phục nam trang càng mang lại vẻ mỵ lực khác thường.
Lưu Dụ thấy nàng chẳng hề tránh né mục quang của mình như vậy, trong lòng rung động, vội vàng đè nén tạp niệm, bối rối nói: “Đỏ à, lạ nhỉ!?”
Giang Văn Thanh trừng mắt nhìn hắn nói: “Lưu huynh!”
Lưu Dụ tâm hoảng ý loạn, hoang mang nói: “Ta và Tống thúc tới Biên Hoang tập là vì một việc vô cùng quan trọng. Ai da, đừng nhìn ta như thế chứ, ta phải thú nhận thật thà thế nào đây? Tiểu thư nàng hôm nay thật là xinh đẹp quyến rũ”.
Sắc hồng trên hai má Giang Văn Thanh tan dần, hiện xuất biểu tình thế nào cũng được, khôi phục lại dáng vẻ lạnh lùng ban đầu. Đoạn nhẹ nhàng nói: “Không cho huynh ăn nói hàm hồ, mà Lưu huynh tới phải chăng là muốn đối phó với Di Lặc giáo?”.
Lưu Dụ ngạc nhiên nói: ”Tiểu thư đoán rất đúng”.
Giang Văn Thanh tiếp: “Ta dựa vào tình hình gần đây của tử địch Di Lặc giáo là Thái Ất giáo mà suy ra, Ni Huệ Huy đích thân xuất động Tứ Đại Kim Cương và hơn ngàn giáo đồ Di Lặc giáo đột kích tổng đàn Thái Ất giáo ở phụ cận Thái Nguyên, xém chút nữa thì nhổ tận gốc rễ Thái Ất giáo. Giang Lăng Hư địch không lại Ni Huệ Huy, thụ thương đào vong không biết tung tích ở đâu. Kỳ quái là Trúc Pháp Khánh tuyệt không hề tham gia hành động lần này, nếu có lão tại đó, Giang Lăng Hư khẳng định không thể nào chạy thoát”.
Lưu Dụ nói: “Nhân vì Trúc Pháp Khánh bế quan tu luyện Thập Trụ Đại Thừa Công tầng cao nhất, Ni Huệ Huy ắt hẳn muốn thanh trừ các thế lực phản đối ở phương bắc, để đến khi xuôi nam hợp quân cùng Trúc Pháp Khánh, Di Lặc giáo đồ sẽ không bị Thái Ất giáo hội đối phó, đây là hành động tiên phát chế nhân”.
Giang Văn Thanh ngạc nhiên nói: “Lưu huynh thân tại Quảng Lăng, tại sao đối với các việc phát sinh tại bắc phương lại rõ ràng như vậy”.
Lưu Dụ nhân đó đem chuyện gặp Phụng Thiện ra kể hết.
Giang Văn Thanh nhíu mày: “Sở Vô Hạ?”
Lưu Dụ nói: “Tiểu thư đã nghe nói đến cô ta rồi ư?”
Giang Văn Thanh gật đầu đáp: “Thiên kiều mỹ nhân mà, đương nhiên là nghe qua, cô ta là nữ đệ tử chân truyền giỏi nhất của Ni Huệ Huy mà, lại còn là ái nữ của Trúc Pháp Khánh nữa chứ, võ công cao cường là tất nhiên, nhưng công phu mê hoặc nam nhân lại càng là cao thủ. Không biết bao anh hùng hào kiệt đã phải nuốt hận trong tay ả. Nghe nói ả và Từ Đạo Phúc đều có thủ đoạn, nội tình ra sao chỉ e có riêng hai người đó biết. Thị tới Kiến Khang chắc hẳn là nhằm giúp đỡ Vương Quốc Bảo, nói không chừng đó là chủ ý của Tư Mã Đạo Tử nhằm đối phó hôn quân”.
Lưu Dụ đối với tâm tư mẫn tiệp của nàng cảm thấy bội phục vô cùng, đoạn nói: “Ả chủ yếu là muốn cùng tranh giành với Trương quý nhân, hồng nhân của Tư Mã Diệu”.
Giang Văn Thanh biến sắc nói: “Lần này thật là hỏng rồi”.
Lưu Dụ rất muốn nghe ý kiến của ngàng, bèn hỏi: “Trương quý nhân khẳng định là cao thủ mê hoặc nam nhân, nếu không sao vừa nhập cung đã khiến Tư Mã Diệu thần hồn điên đảo, bảo gì làm nấy. Tiểu thư có biết Trương quý nhân là do Tư Mã Đạo Tử tiến nhập vào cung không?”
Giang Văn Thanh đáp: “Đấy chính thị là chuyện khiến người ta không cách nào lý giải, Tư Mã Diệu đối với Tư Mã Đạo Tử từ tín nhiệm trở thành nghi kỵ, nghe truyền là do Trương quý nhân bên gối tố cáo, sau khi kiểm chứng Tư Mã Diệu cũng thấy bất ổn bèn sai Vương Cung đi tiếp quản Dương Châu, hình thành thế tranh đấu kịch liệt với phe phái của Tư Mã Đạo Tử”.
Lưu Dụ trầm giọng thốt: “Tiểu thư có biết thân phận chân chính của Trương quý nhân là ái phi của Nhậm Dao Man Diệu phu nhân, hơn nữa còn là thân tỷ của Yêu hậu Nhậm Thanh Thị, rõ ràng là Nhậm Dao đã chết rồi thì quan hệ liên minh giữa Tư Mã Đạo Tử và Trương quý nhân phải buộc phải thay đổi theo”.
Giang Văn Thanh động dung nói: “Có chuyện vậy kia à? Lưu huynh làm sao mà biết vậy?”
Lưu Dụ hít thở một hơi sâu, gã không thể không cho Giang Văn Thanh biết bí mật, tương lai nếu nàng mà biết được gã lừa dối mình, quan hệ mật thiết giữa họ sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Điểm quan trọng hơn cả là gã tín nhiệm Giang Văn Thanh.
Lưu Dụ cười khổ nói: “Chuyện này nói ra rất dài, nên bắt đầu từ lúc Nhậm Dao bị Tôn Ân giết chết”.
Giang Văn Thanh mỉm cười cổ vũ: “Chúng ta còn thời gian mà, bất luận là điều Lưu huynh nói ra kinh thiên động địa đến đâu, Văn Thanh đã có sự chuẩn bị, nếu không Huyền soái đã không chọn chàng làm người kế thừa, phải không?”
oOo
Yến Phi một người ba ngựa, từ rừng rậm phi ra, vội vàng hướng về Nam.
Chàng đối với vùng đất này khá là quen thuộc, phía trước trăm dặm có bốn tòa thành trì, gần nhất là Định Tương và Tân Hưng, xa hơn chút là Thái Nguyên và Nhạc Bình, luận quy mô đương nhiên Thái Nguyên đứng đầu, bất luận là chiến lược hay kinh tế thì đây cũng là thành thị quan trọng bậc nhất trong khu vực.
Chàng không biết là Ni Huệ Huy sử dụng loại yêu thuật gì, bất quá nghe nói mụ có loại dị thuật cực kỳ tà môn theo truyền thuyết là “Sưu Hồn Đại Pháp”, so với huyền môn chánh tông của Tôn Ân rõ ràng có điểm khác biệt.
Ngựa phi như bay trong khu rừng thưa.
Điều khiến Yến Phi khó hiểu là mục tiêu tìm kiếm của dị thuật này rất xa, thuật giả thi hành nhất định phải có liên hệ tâm linh với người bị tìm kiếm, ví như đã từng tiếp xúc qua, mới có thể tiến hành triển khai dị thuật. Nhưng Yến Phi tự vấn mình tại nơi ẩn náu chỉ nhìn Ni Huệ Huy có một lần, tại sao mụ lại có khả năng thi triển yêu pháp với mình được?
Chàng và Tôn Ân tiếp xúc tâm linh là có định hướng, hoặc giả là do công pháp đạo môn là cùng chung nguồn gốc.
Nhưng Sưu Hồn Thuật của Ni Huệ Huy chỉ là đơn hướng. Chỉ khi bị tà tâm của Ni Huệ Huy bao vây thì Yến Phi mới nảy sinh cảm ứng.
Hiện tại, Ni Huệ Huy đã bị bỏ lại phía sau nhưng đang không ngừng tiếp cận chàng.
Yến Phi ghìm cương, nhảy xuống ngựa.
Ba con ngựa đều sức cùng lực kiệt, không thể chạy xa hơn.
Chàng lấy đồ đạc trên lưng ngựa xuống, lấy tiểu bao phục, lần lượt ôm đầu từng con ngựa nói: “Thôi, về nhà đi”.
Cả ba con ngựa chiến này đều thuộc loại tinh tuyển, chỉ cần không rời quá xa khỏi Bình Thành, tất sẽ biết đường về nhà.
Đoạn vỗ lên mông con ngựa vừa cưỡi, mã nhi như hiểu tính người hý dài một tiếng, dẫn hai con ngựa còn lại quay lại rừng rậm.
Yến Phi một mình một kiếm tiếp tục lên đường.
oOo
Giang Văn Thanh nghe xong, hồi lâu không nói.
Lưu Dụ nói một cách khó nhọc: “Yến Phi và Huyền Soái đều không hiểu chuyện của ta và Nhậm yêu hậu”
Giang Văn Thanh ánh mắt trở nên sâu lắng, đoạn nhẹ nhàng nói: “Hiện tại quan hệ giữa huynh và Nhậm Thanh Thị là như thế nào?”
Lưu Dụ trong lòng nghĩ nàng không những chẳng để ý đến “nước cờ tối hậu” của Nhậm Thanh Thị, càng không quan tâm đến việc gã bị buộc phải thay Nhậm Thanh Thị bảo quản tâm bội, mà chỉ quan tâm đến mối quan hệ giữa mình và Nhậm Thanh Thị, tâm sự con gái thật là khó hiểu. Chả nhẽ nàng ta có chân tâm với mình chăng?
Nghĩ đến đó, lòng gã bỗng nóng bừng lên: “Ta và ả thuần túy chỉ là lợi dụng lẫn nhau, yêu nữ chung quy vẫn là yêu nữ, ta tuyệt đối không thể phóng tâm tín nhiệm ả được”.
Giang Văn Thanh bình tĩnh nói: “Nếu Man Diệu đúng như huynh dự đoán đã giết chết Tư Mã Diệu, Nhậm Thanh Thị có còn giá trị để huynh lợi dụng nữa hay không?”
Lưu Dụ ngớ ngẩn nói: “Ta còn chưa nghĩ đến vấn đề này, bất quá ta đáp ứng ả cùng đối phó Tôn Ân, mà Tôn Ân cũng là kẻ địch của ta, do đó nếu ta có năng lực này, đương nhiên sẽ hoàn thành cả tâm nguyên của ta và ả”.
Giang Văn Thanh nói: “Đó là lời hứa nam nhi, việc cha ta thảm tử Tôn Ân phải chịu phân nửa trách nhiệm, do vậy ta ủng hộ việc cùng nhau đối phó Tôn Ân, bất quá Lưu huynh đối với Nhậm Thanh Thị phải để tâm đề phòng, ả có thể trợ giúp huynh nhưng cũng có thể khiến huynh thân bại danh liệt, huynh phải hết sức thận trọng, đừng để ả dùng thủ đoạn bàng môn tả đạo mê hoặc”.
Đoạn thấp giọng nói: “Lưu huynh tín nhiệm Văn Thanh như vậy, Văn Thanh thực lòng rất cảm kích”.
Nghe đến “lời hứa nam nhi”, trong lòng Lưu Dụ thấy đau đớn, gã đã từng hứa với Vương Đạm Chân, nhưng chưa hề có hành động nào.
May là Giang Văn Thanh đối với gã thông cảm và ủng hộ, khiến gã cảm thấy an ủi phần nào.
Tự đáy lòng đã thốt lên: “Cảm ơn nàng”.
Giang Văn Thanh song mục lấp lánh, nói: “Đối phó với Di Lặc giáo vốn là do cha đáp ứng An công, người còn chưa làm được, vậy để con gái này thay cha chuộc tội vậy”.
Lưu Dụ than rằng: “Trúc Pháp Khánh là một loại Tôn Ân khác, muốn giết hắn tuyệt chẳng dễ dàng, huống hồ còn có Ni Huệ Huy và rất nhiều yêu nhân, yêu nữ của Di Lặc giáo nữa”.
Giang Văn Thanh nói: “Trác Cuồng Sinh tất biết rõ mối quan hệ giữa chàng và Nhậm Thanh Thị, do vậy ông ta đối với Đại Giang bang bọn ta đều có sự chiếu cố. Chỉ cần ông ấy giúp đỡ, nói không chừng chúng ta có thể dốc toàn lực của Biên Hoang tập đối phó Trúc Pháp Khánh, như vậy khả năng thắng sẽ tăng lên nhiều”.
Lưu Dụ nhíu mày nói: “Trừ phi Trúc Pháp Khánh uy hiếp đến suy thịnh tồn vong của Biên Hoang tập, nếu không trừ Trác Cuồng Sinh, chẳng ai muốn có một kình định như vậy”.
Giang Văn Thanh nói: “Nếu Yến Phi vẫn còn đó, chúng ta hoàn toàn toàn có thể thay đổi tình thế, thật là đáng tiếc!”
Lưu Dụ ngầm cười khổ, giả như Yến Phi vẫn còn tại Biên Hoang tập, mình không biết phải làm như thế nào mới đúng.
oOo
Yến Phi chung quy cũng thành công phong bế linh thức.
Từ trước đến giờ, linh thức chàng luôn rộng mở, tự do chu du khắp nơi, không ngừng tiếp thu mọi hoàn cảnh xung quanh, có lúc thậm chí không thể chế ngự, có lúc ý niệm vừa mới hiện lại bị ý niệm khác thay thế.
Dưới áp lực yêu thuật nặng nề của Ni Huệ Huy mang lại, chàng bất đắc dĩ vì sinh tồn mà dồn hết tâm trí tìm cách ẩn giấu linh thức.
Tập trung tinh thần vào nê hoàn cung tại não bộ, chàng cảm giác rõ tâm linh mình đang hướng ra ngoài, thông qua Tổ Khiếu huyệt tại mi tâm, không ngừng tìm tòi và tiếp nhận các tin tức thuộc về tâm linh.
Phát hiện này khiến chàng kinh ngạc và vui mừng, bởi vì như vậy khả năng truyền tâm giữa chàng với Kỷ Thiên Thiên sẽ đại tăng.
Một mặt suy ngẫm đến yếu nghĩa của “Tham Đồng Khế”, mặt khác lại mang từng đại khiếu huyệt trên người ra lần lượt thử nghiệm công năng.
Đến khi tinh thần tập trung tại đan điền, chàng hiểu rõ như lòng bàn tay rằng mình đã thành công trong việc ẩn tàng linh thức.
Sưu Hồn Thuật của Ni Huệ Huy lập tức bị cắt đứt.
Yến Phi tức thì cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm, một mặt ý thủ Đan điền, đồng thời triển khai lớp lớp mê hoặc thủ đoạn của kẻ địch nhằm thoát khỏi địch nhân, mặt khác dốc toàn lực tiến về phía Nam.
Khi mặt trời ngả về phía tây, địa thế đột nhiên biến đổi, một dãy núi dài có sườn dốc chắn ngang trước mắt, cản trở đường đi.
Yến Phi nghĩ sớm muộn gì cũng phải đối chọi với giáo phái Di Lặc, hiện tại đã có biện pháp tuyệt diệu tránh được thuật truy tung thần kì của kẻ địch, sao không dựa vào đó mà ám sát địch nhân, đánh mà không được thì cùng lắm là chạy. Đám yêu nhân này giết một tên thì coi như tích thêm âm đức, giết nhiều tên thì cũng tạm gọi là công đức vô lượng, hơn nữa còn làm suy yếu thực lực của Di Lặc giáo, giảm thiểu uy hiếp đối với Biên Hoang Tập.
Nghĩ đến đây, quyết ý tiến vào thâm sơn. Lấy ít địch nhiều, đương nhiên là phải dựa vào hoàn cảnh địa thế thiên biến vạn hóa của vùng thâm sơn u cốc.
Càng nghĩ đến đó, không chút do dự, gia tăng tốc lực, nhằm đỉnh cao nhất của ngọn núi mà tiến.
Thoạt nhìn cứ tưởng chớp mắt là đến, nào ai hay khi mặt trời lặn xuống núi, trời chuyển dần tối mới đến được chân núi.
Đi ngược ngoài dự đoán của Yến Phi, đường vào núi dựng lên một tòa sơn môn, phía sau là đường nhỏ dẫn lên núi, cũng không biết là thông đến chỗ nào trên núi.
Sơn môn cũng không còn hoàn chỉnh, chỉ còn lại hai bên là hai trụ đá tròn, phía trên vốn dĩ có bia đá khắc tên của sơn môn cũng bị người dùng trọng vũ khí đánh vỡ, biến thành những mảnh nhỏ ngổn ngang dưới chân trụ đá, cảnh tưởng thật là quỷ dị cổ quái.
Không thể không nghĩ đến mọi sự, Yến Phi không phí công tưởng tượng, đạp chân trên con đường nhỏ tiếp tục hành trình.
Lối lên ngoằn nghèo, tựa như dẫn thẳng lên đỉnh núi.
Vầng trăng khuyết chiếu sáng trên bầu trời xanh xám, ánh sao lấp lánh càng làm lối lên thêm bí hiểm khôn lường.
Con đường này nhất định khai phá chẳng hề dễ dàng, xung quanh cây rừng hiểm trở, vực sâu trăm trượng, lúc thì vòng qua núi lúc thì xuyên qua tán cổ thụ mà lên. Sau nửa canh giờ, Yến Phí đã có thể thấy đỉnh núi, bất quá con đường đi tới đó vẫn còn khó có thể nói được.
Vượt qua một rừng cổ thụ dày đặc, hốt nhiên có tiếng nước chảy ào ào, chỉ thấy bên trái từ độ cao trên mười trượng, hình thành tầng tầng lớp nước đổ xuống, trước mặt lại có một cây cầu treo xuyên qua thác nước tiếp với con đường bên kia, cầu treo lơ lửng giữa không trung, gió núi thổi qua khiến cầu lay lay, động động, kẻ thiếu đảm lược chỉ nhìn qua thôi cũng đảm bảo chân tay mềm nhũn, chưa nói gì tới lúc đặt chân lên cầu.
Yến Phi nổi lòng hiếu kỳ, quên cả sự uy hiếp của Ni Huệ Huy, nhằm hướng điếu kiều mà bước tới.