Lần đầu tiên trong đời, Tôn Ân hy vọng bản thân chưa từng sáng lập Thiên Sư đạo.
Con thuyền buồm nhỏ chở lão tiến thẳng vào hải cảng của đảo Ông Châu, trước mắt hiện ra hàng trăm chiến thuyền lớn nhỏ, tinh kỳ như biển, cuồn cuộn bay trong gió, cùng với mặt biển phẳng lặng cùng tôn lên một khung cảnh kỳ thú, cảnh tượng thật hùng tráng.
Tiếng hò reo kêu gọi nhau đầy vui sướng chợt nổ ra vang dậy thấu trời xanh, mọi giáo đồ Thiên Sư quân đang cung kính chực tại ven bờ đều nhất loạt phủ phục quỳ xuống đất mà lạy, mồm hô vang Thiên Sư.
Tôn Ân lại hoàn toàn không có chút tâm tình nào mà hòa mình vào trong bầu không khí dạng này. Nhận thức của lão đối với Ngũ Đẩu Mễ giáo, bắt nguồn từ người chú ruột Tôn Thái, cũng chính Tôn Thái tự thân ra mặt khẩn cầu đạo gia đệ nhất nhân lúc đó là Nhàn Vân thu nhận lão làm đệ tử, truyền cho công pháp vô thượng của đạo gia.
Điểm hấp dẫn lão nhất ở Ngũ Đẩu Mễ giáo chính là hai lý tưởng “Hoàng Thiên Thái Bình và “Vũ Hóa Phi Thiên”. Lý tưởng trước ám chỉ đạo trị quốc giữ cho quốc gia hòa bình hưng thịnh, còn lý tưởng sau lại là phép tu đạo phá bỏ mọi mê muội mà xuất thế.
“Thiên tham nhân sinh, địa tham nhân dưỡng, nhân tham nhân thi”*. Bậc làm vua phải ứng theo đạo đối nhân xử thế, phải phân chia công bằng tất cả tài phú, lấy “Thái Bình” để trị quốc, dưới khí vận chuyển biến “Thương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” **, Thiên Sư đạo liền ứng theo mệnh vận đó mà sinh xuất.
Trước thời nhà Tấn, đạo Ngũ Đẩu Mễ chủ yếu lưu truyền trong dân gian, cho tới khi nhất đại tông sư của đạo giáo là Cát Hồng xuất thế, đem Ngũ Đẩu Mễ Đạo hợp nhất cùng Nho giáo, đề xuất lên hoàng đế rằng “Tiên trị thế nhi hậu đăng tiên”***, từ lúc đó Ngũ Đẩu Mễ giáo bắt đầu được truyền bá trong tầng lớp thế gia vọng tộc. Trong thế tộc Kiến Khang, có không ít người thờ phụng Ngũ Đẩu Mễ giáo nhưng không phải tín đồ Thiên Sư Đạo của Tôn Ân, ngược lại còn coi Tôn Ân như dị đoan tà thuyết.
Chính bởi lý tưởng trị quốc “Hoàng thiên thái bình”, mà Tôn Ân thành lập Thiên Sư Đạo, vừa tụ tập thứ dân trăm họ đã chịu nhiều bức hiếp bóc lột tại các quận Đông thổ, vừa thu hút một lượng lớn các thế tộc bản địa bị ức hiếp, lấn áp bởi các thế tộc từ bên ngoài dời đến****. Nhóm thế tộc xuất thân bản địa này, một mặt đọc sách thánh hiền Khổng Mạnh, làm quan to, nắm quyền thế, một mặt khác chọn tìm thuốc để luyện đan, “Trước phục dùng thảo mộc để bổ cứu khiếm khuyết, sau phục dùng kim đan để định vô cùng”. Như vậy vừa có hy vọng thành tiên, vừa không cần buông bỏ bổng lộc, chức quyền, nên tự nhiên cũng toàn lực trợ giúp Tôn Ân.
Mãi cho tới giờ, đây là ý tưởng mà Tôn Ân luôn luôn vững tin không chút hoài nghi, “Tiên trị quốc hậu thành tiên” là lý tưởng và chí hướng gây xúc động lòng người biết bao. Nhưng sau khi tam bội hợp nhất làm xuất hiện tiên môn, quả thực đã làm lay động lòng tin từ trước tới giờ của lão. Sự thực tiên môn vẫn như hiển hiện, tố cáo lão tất cả những sự việc phát sinh trong nhân thế, chỉ là trò chơi trong một trường sinh tử, so với việc có thể phá không mà bay đi, thì cũng chỉ là chuyện nhỏ nhặt không đáng quan tâm mà thôi. Tất cả cái gọi là sinh tử thành bại, cũng chẳng thể chiếm được vị trí trong lòng của lão được nữa.
Tôn sùng Thiên Sư Đạo, hay bỏ mặc Thiên Sư Đạo, cũng không còn phân biệt gì nữa. Có thể đạt được “Chân chính giải thoát” mà “Phá không nhi khứ+ hay không, đối với tin đạo hay không tin đạo, cho tới việc luyện đan phục dược, cũng không còn một chút quan hệ nào cả.
Nếu như Thiên Sư Đạo không phải một tay lão sáng lập, lão có thể vĩnh viễn không quay trở lại đảo Ông Châu, sẽ không cần đối mặt với tình cảnh trước mắt. Trong thiên hạ chỉ có phá không bay đi, mới có thể khiến lão động lòng.
Chiếc thuyền buồm đã cập vào bến. Lư Tuần cùng Từ Đạo Phúc tiến lại nghênh đón. Tôn Ân giật mình tung người lên bờ, tức thì nhận được tiếng hoan hô vang dội khắp hải cảng.
Tôn Ân chân đạp đất, tay chắp sau lưng mà bước đi, hai đồ đệ theo phía sau lão, thức thời không nói lời nào cả. Trong chớp mắt Tôn Ân đã bước lên sơn đạo dẫn lên ngọn núi cao nhất Phi Lai Phong, lạnh lùng hỏi: “Tình huống thế nào?”
Lư Tuần vội vã đáp: “Hảo hán hưởng ứng theo về từ các phương đạt được bảy vạn người, chiến thuyền hơn tám trăm chiếc, vẫn còn đang lần lượt kéo đến. Tất cả đều đã chuẩn bị thỏa đáng, chỉ chờ Thiên Sư hạ lệnh một tiếng, chúng ta sẽ có thể đánh thẳng vào Kiến Khang, để lý tưởng của Thiên Sư bao trùm thiên hạ.”
Từ Đạo Phúc đứng một bên hưởng ứng: “Tình thế vô cùng có lợi đối với chúng ta, Tư Mã Đạo Tử vừa mới tăng thêm binh lực Kiến Khang quân, lại muốn lập một đạo quân mới để đối chọi với Bắc Phủ Binh, cưỡng ép tá điền khu vực phía Đông Chiết Giang gia nhập quân ngũ, khiến cho dân ở các quận Đông thổ oán hận xung thiên, vì thế Thiên Sư Đạo ta chỉ cần phất cờ một cái, lập tức sẽ khiến thiên hạ quy phục.”
Tôn Ân bật cười khanh khách: “Cối Kê vẫn do tên tín đồ Ngũ Đẫu Mễ giáo giả mạo gì đó nắm quyền chứ?”
Từ Đạo Phúc hoan hỉ đáp: “Đây là minh chứng rõ rệt nhất cho việc khí số của nhà Tấn đã tận. Tư Mã Đạo Tử chọn đi chọn lại, lại chọn anh rể Tạ Huyền là Vương Ngưng Chi làm nội sử Cối Kê, đối phó với chúng ta tại tiền tuyến đầu tiên. Bộ hạ của hắn thấy hắn không sửa sang võ bị, ngày ngày đều lánh mình trong tịnh thất cầu thần khấn phật, bèn cảnh tỉnh hắn, ai dè hắn thực sự đã đáp lời rằng đã thỉnh đạo tổ của hắn, tới đây sẽ phái xuống thần binh thiên tướng để cứu hắn.”
Cối Kê là thành trì chiến lược quan trọng hàng đầu, cách Ông Châu chỉ có hai ngày hành trình đường thủy, một khi Cối Kê thất thủ, thì các quận Đông thổ sẽ rơi vào hiểm cảnh, còn Thiên Sư quân lại nắm được cứ điểm quan trọng có thể xa gần cùng hỗ trợ lẫn nhau với đảo Ông Châu.
Tôn Ân đột nhiên nói: “Yến Phi chưa chết.”
Từ Lư hai người đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ khó ngờ được Tôn Ân lại thu thập không xong được Yến Phi?
Tôn Ân nói: “Lý do Yến Phi vẫn còn có thể sống sót được, là do liên quan đến vấn đề khác, tình huống tại đó, các ngươi không cần biết. Chỉ cần biết rõ một điều việc Yến Phi đã biến thành việc của cá nhân ta, do ta tự tay xử lý.”
Hai người hoài nghi không hiểu, nhưng cũng không dám hỏi cặn kẽ.
Lư Tuần lo âu hỏi: “Hiện tại chúng ta nên làm gì?”
Tôn Ân ung dung ngừng bước, hỏi lại: “Tình huống mặt bên Kiến Khang thì thế nào?”
Từ Đạo Phúc đáp: “Hoàn Huyền đích thân thống lĩnh thủy quân, từ mặt Đông tấn công Kiến Khang, bị thủy quân Kiến Khang ra sức chống cự bên ngoài Thạch Đầu thành, Hoàn Huyền không rõ căn cứ vào nguyên nhân nào, mặc dù thắng lợi trận đầu, nhưng vẫn không dám mạnh tay công kích Kiến Khang, chân tướng sự việc sâu xa khiến người khác phải suy nghĩ.”
Tôn Ân hời hợt nói: “Lưu Lao Chi đã phản lại Hoàn Huyền, quay đầu theo Tư Mã Đạo Tử.”
Lư Tuần run lên: “Thiên Sư tinh mắt, đạo lý phải là như vậy, bằng không Kiến Khang đã xong từ sớm rồi.”
Từ Đạo Phúc biến sắc: “Nếu Lưu Lao Chi chuyển hướng trung thành với Tư Mã Đạo Tử, thì đối với chúng ta sẽ bất lợi vô cùng.”
Lư Tuần tiếp lời: “Nếu bọn chúng tự kéo nhau lưỡng bại câu thương, thì lại là một chuyện khác.”
Tôn Ân lắc đầu: “Hoàn Huyền không để tiện nghi cho chúng ta đâu, hắn chỉ có đường lui binh. Chúng ta phải thay đổi sách lược, cứ tạm hoãn việc tấn công Kiến Khang đã, mà dùng kế dẫn dụ địch nhân đến xâm phạm.”
Từ Đạo Phúc và Lư Tuần đều cảm thấy thảng thốt kinh ngạc.
Tôn Ân chầm chậm quay người lại đối mặt với hai người, hai mắt ánh lên tinh quang mà hai người chưa từng thấy qua, trầm giọng nói: “Tư Mã Đạo Tử và Lưu Lao Chi sao xứng là địch thủ của Tôn Ân ta? Hai ngươi thay ta huyết tẩy Cối Kê, chém chết Vương Ngưng Chi. Do thân phận đặc thù của Vương Ngưng Chi, việc này ắt sẽ gây chấn động Kiến Khang. Lưu Lao Chi bởi trở ngại từ giao tình với Tạ Huyền, sẽ không thể ngồi yên không ngó ngàng gì, tất phải xin được xuất chiến, Tư Mã Đạo Tử vì vậy sẽ rơi vào cục diện hai mặt đều khó. Nói đáp ứng, thì sợ Lưu Lao Chi nắm được quân quyền lớn; mà muốn phản đối lại sợ cao môn vọng tộc Kiến Khang không ưng. Chúng ta cứ đưa ra một nước đi khó xem xem năng lực ứng biến của Tư Mã Đạo Tử thế nào?”
Từ Đạo Phúc vô cùng mừng rỡ nói: “Thiên Sư tiện tay chọn lấy một kế sách bất kỳ thì cũng đã là một diệu kế rồi.”
Lư Tuần hưng phấn hưởng ứng: “Tư Mã Đạo Tử sóng này chưa yên, sóng khác lại tới, xem hắn làm thế nào ứng phó nổi?”
Tôn Ân nói: “Việc Biên Hoang tập được rồi lại mất, là bài học kinh nghiệm tốt cho chúng ta. Làm hao mệt sức lực quân sĩ khi viễn chinh, thật không phải là hành động của bậc trí giả, cũng vì chúng ta đánh giá không đúng mức lực lượng phản kích của hoang nhân, lại thêm tin lầm Hồ nhân. Vì vậy sách lược lần này của chúng ta trước hết sẽ là tạo lập nên vị thế không thể thất bại, lấy khỏe đối phó với mệt, đánh vài trận thắng thật hoành hoành tráng tráng, chấn hưng thanh uy Thiên Sư quân chúng ta, khiến người người các quận Đông thổ hướng theo quy phục, giảm yếu đi thế lực nhà Tấn, cũng sẽ phải cùng Hoàn Huyền so tài nhẫn nại. Đây là tình thế trai cò tranh nhau, thành bại ở tay ai đi nữa thì cũng sẽ là ngư ông đắc lợi. Đã hiểu rõ chưa?”
Từ Đạo Phúc và Lư Tuần phục xuống đất lạy, thật lòng khâm phục mà đồng thanh hô to: “Lĩnh mệnh”
Tôn Ân vuốt râu mỉm cười: “Vi sư chuyến này có được ích lợi to lớn, thật không ngôn từ nào có thể hình dung ra được. Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ lưu lại Phi Lai Phong bế quan tu hành, trừ hai người các ngươi, bất kỳ ai cũng không được bước chân nửa bước lên Phi Lai Phong, bằng không nghe ta sẽ giết không tha.”
Từ Đạo Phúc và Lư Tuần cao giọng đáp ứng.
Tôn Ân ngửa mặt lên trời cười to một tràng dài, nỗi hân hoan vui sướng đẹp ý vừa lòng không sao nói hết nổi, khi hai người ngẩng đầu lên, Tôn Ân đã rời đi không còn thấy tung tích.
:77:
Hoàn Huyền ngạo nghễ đứng trên đài chỉ huy của soái hạm, mắt chăm chú nhìn về hướng Thạch Đầu thành.
Trên mặt sông cách đây gần dặm, thủy quân Kiến Khang do Tư Mã Nguyên Hiển chỉ huy dựa theo Thạch Đầu thành mà bố trí trận thế, cùng là một chút cự li gần dặm này, khiến hắn phải nhìn Thạch Đầu thành mà than thở.
Chiến đấu ngày qua ngày, Hoàn Huyền trổ hết thần uy, vượt thành chém tướng hướng thẳng đến Thạch Đầu thành, gặp phải kẻ mà hắn chưa từng để vào trong mắt là Tư Mã Nguyên Hiển, lại bị y liều chết phản kháng. Tư Mã Nguyên Hiển mặc dù hao binh tổn tướng, vẫn không hề sụp đổ, phối hợp với phòng ngự kiên cường của Thạch Đầu thành, khiến Hoàn Huyền không sao vượt qua Thạch Đầu thành được nửa bước, cuối cùng hình thành nên cục diện hai bên so kè nhau như hiện giờ.
Hoàn Huyền vốn đã có chủ ý quyết định sau khi mặt trời mọc sẽ lại phát động một đợt tấn công mới, ai ngờ hoàng hôn ngày hôm qua tin tức Vương Cung bị giết nhanh chóng truyền tới, khiến hắn trận thế đại loạn, không dám mạo hiểm tiến lên.
Không biết thế nào, tối qua hắn suốt đêm trằn trọc, không ngừng tưởng nhớ đến Vương Đạm Chân lưu lại ở Giang Lăng. Nếu sau khi nàng biết được cha nàng đã bị Lưu Lao Chi giết chết, mỹ nữ này liệu sẽ đối mặt với sự thật tàn khốc này như thế nào? Bản thân vì sao lại quan tâm đến phản ứng của nàng? Khó biết có phải bởi quá đam mê nhục thể của nàng mà dẫn đến động mối chân tình với nàng hay không?
Hoàn Huyền thở dài một tiếng. Lưu Lao Chi! Có một ngày ta sẽ đem thịt trên người ngươi , róc xẻ từng miếng từng miếng một, để hòng trút hết mối hận khó nguôi trong lòng ta.
Mắt thấy Kiến Khang sắp sửa đoạt được vào tay, thực đáng chết lại mọc ngang ra một Lưu Lao Chi ngáng đường, khiến hắn tiến không được mà lùi cũng không xong. Nhưng hắn cũng không cách nào trách được bất kỳ ai, phán đoán sai lầm chính là do bản thân hắn. Những mong việc Hà Khiêm gặp nạn sẽ là nguyên nhân khiến Bắc Phủ Binh rơi vào tình huống chia năm xẻ bảy, công phạt lẫn nhau cuối cùng lại không hề xuất hiện.
Hắn sao có thể đơn độc một mình đối phó liên quân Kiến Khang cùng Bắc Phủ Binh cho được? Kể cả có giành thắng lợi tại Đại Giang, muốn công hãm Thạch Đầu thành cũng không phải chuyện dễ, tiếp đó lại còn cuộc chiến đoạt thành Kiến Khang. Huống hồ hắn hiện tại không còn danh nghĩa mà xuất binh, Vương Quốc Bảo đã bị xử tử, không thể lợi dụng danh nghĩa thảo phạt Vương Quốc Bảo, mà tranh thủ sự hưởng ứng và trợ giúp của thế tộc Kiến Khang được nữa.
Ân Trọng Kham cùng Dương Toàn Kỳ đến cạnh hai bên thân hắn, thần sắc nghiêm trọng. Dương Toàn Kỳ nói: “Lưu Lao Chi tự thân thống lĩnh thủy quân Bắc Phủ Binh, đã đến được hạ du Kiến Khang.”
Hoàn Huyền hừ lạnh một tiếng, trong lòng thầm nghĩ nếu không tự tay chém chết tên khốn này, thề không làm người.
Ân Trọng Kham nói: “Tôn Ân tập kết quân lực tại đảo Ông Châu, chiến thuyền vượt quá năm trăm chiếc, binh lực tầm bảy, tám vạn người , tùy thời có thể vượt biển tấn công các thành ven bờ, khiến cho lòng người các quận vùng Đông Hải hoang mang lo sợ, dân chúng trốn chạy tan tác tứ phía để lánh nạn.”
Hoàn Huyền bản thân đã có ý rút lui, nhưng khi nghe được những lời này của hai người, tức thì lửa giận xung thiên, trầm giọng nói: “Lưu Lao Chi thì tính toán được cái gì? Chẳng qua chỉ là chó săn của Tạ Huyền, năm đó Tạ Huyền còn không đáng cho Hoàn Huyền ta để vào mắt, huống hồ là Lưu Lao Chi.”
Dương Toàn Kỳ là thuộc hạ của hắn, thời chỉ có thể câm miệng không nói câu nào. Ân Trọng Kham thân làm tới quan thứ sử một châu, Hoàn Huyền lại từ chối không nhận chức Đại Tư Mã, chính xác mà nói Ân Trọng Kham có quyền cai quản cái chức Nam Quận Công này của hắn, đương nhiên không chịu phục tùng lời lẽ sáo rỗng này của hắn. Cau mày nói: “Chúng ta nếu trong tình huống trước mắt mà miễn cưỡng tấn công Kiến Khang, thì vừa là không có danh nghĩa xuất sư, lại vừa khó định liệu được thắng bại, dù cho thắng lợi được, quân sĩ ắt gặp tổn thất nghiêm trọng, cục diện chính trị tại phương Nam bất lợi, đổi lại chỉ tạo nên tiện nghi cho Tôn Ân.”
Hoàn Huyền biết rõ lời Ân Trọng Kham có lý, nhưng vẫn không sao kiềm chế được nỗi bất bình oán giận trong lòng, bèn cười lạnh nói: “Thứ sử đại nhân không phải nghĩ đến việc nửa đường rút lui đấy chứ?”
Ân Trọng Kham trong lòng vô cùng giận dữ, chỉ có điều nhìn trên thuyền toàn là cao thủ thân vệ của Hoàn Huyền, lại thêm thanh “Đoạn Ngọc Hàn” của Hoàn Huyền là lợi khí giết người không thấy máu, tên này một khi điên lên, nói không chừng sẽ bạt kiếm đối phó với mình. Hảo hán không chấp nhất thua thiệt trước mắt, bèn nhẫn nhịn hạ giọng nói: “Tất cả do Nam Quận Công định đoạt.”
Hoàn Huyền suýt nữa thì nghẹn lời, một lần sai sao có thể sai thêm lần nữa, huống chi lại có quan hệ đến vinh nhục tồn vong của Hoàn gia. Chính lúc không biết nói gì, thì một chiếc thuyền nhỏ từ trận địa địch tiến ra, nhằm hướng bọn hắn mà đến. Dương Toàn Kỳ ngạc nhiên nói: “Đứng đầu thuyền không phải Phạm Trữ đại phu chứ?”
Hoàn Huyền ngây người hỏi: “Không ngờ lại là Phạm Trữ?”
Phạm Trữ là trọng thần đương triều, cương trực công chính, không a dua nịnh bợ, trước đến nay vẫn không phụ họa cùng bọn Tư Mã Đạo Tử, Vương Quốc Bảo, được cả triều đình lẫn dân chúng kính trọng.
Hoàn Huyền vội vã hạ lệnh: “Không cho phép bất kỳ ai được vọng động.”
Mệnh lệnh được truyền đi bởi lính thổi tù và.
Chiếc thuyền nhỏ dần dần tiếp cận, Phạm Trữ giơ cao trục cuộn, lớn giọng hô vang: “Thánh chỉ đến, hoàng thượng hạ chiếu tự nhận lỗi với dân, đã ứng thiên cơ, yên định nỗi phẫn nộ của dân chúng, người tiếp chỉ không cần phải quỳ để tiếp.”
Hoàn Huyền trong lòng bất lực, biết được quyền chủ động đã rơi vào tay Tư Mã Đạo Tử, lão đã thắng một bàn quá đẹp, mà Hoàn Huyền hắn lại không thể có lựa chọn khác được, chỉ đành tiếp nhận lối thoát để lui binh này. Đồng thời cũng hiểu được cố kị của Tư Mã Đạo Tử đối với Lưu Lao Chi, tuyệt không dưới Hoàn Huyền hắn.
:77:
Bên trong soái trướng Thác Bạt Khuê đang xem xét kỹ lưỡng tấm địa đồ bằng da dê được gã vuốt trải ra trước mặt, nghe thấy tiếng Sở Vô Hạ bước vào trướng, vẫn không quay đầu lại mà hỏi: “Sao lại muốn gặp ta?”
Sở Vô Hạ chầm chậm quỵ chân xuống, bình tĩnh đáp: “Ngươi không phải muốn ta cân nhắc à?”
Thác Bạt Khuê cau mày nhìn ả một cái, khuôn mặt trắng trẻo của ả đã thêm chút sắc hồng, khiến ả càng thêm đẹp kiều diễm không vương chút bụi trần. Gã đáp: “Ta cũng nghĩ ngươi sẽ sớm có quyết định. Người không phải đã nói muốn mê hoặc chết ta, lại còn muốn có thể khiến ta sau này sẽ có một ngày phải hối hận à? Những lời này liệu có phải là nói rồi thôi không?
Sở Vô Hạ yếu ớt thở dài một hơi, nói: “Thác Bạt Khuê à! Ngươi thực là một kẻ trời sinh đã lạnh lùng, ác nghiệt, vô tình hay sao?”
Thác Bạt Khuê nhấc tấm địa đồ da dê lên, cẩn thận cuộn lại, sau đó cất vào trong ngực, hai mắt đồng thời ánh lên thần quang sắc nhọn, quan sát Sở Vô Hạ từ trên xuống dưới.
Mục quang của gã trực tiếp mà táo bạo, nữ nhi thông thường khẳng định không chịu đựng nổi, nhưng Sở Vô Hạ lại không có nửa điểm biểu hiện thẹn thùng.
Thác Bạt Khuê nói: “Có vấn đề gì? Trách ta lạnh nhạt với ngươi hả?”
Sở Vô Hạ khổ não nói: “Hai ngày nay theo ngươi men Đại Hà mà bôn ba tứ xứ, chỉ thấy qua bóng lưng ngươi từ đằng xa, mỗi tối đều phải chờ đợi mòn mỏi trong trướng không, ngươi chớ nói là không thèm đoái hoài gì tới ta chứ?”
Thác Bạt Khuê phá lên cười khanh khách: “Hiện tại là thời kỳ đặc biệt khác thường, quan hệ đến sinh tử tồn vong của Thác Bạt tộc ta, nếu như ta ham mê nữ sắc, thử hỏi bộ hạ của ta sẽ nghĩ như thế nào?”
Sở Vô Hạ đột nhiên cúi đầu, nhẹ nhàng nói: “Ta muốn rời đi một quãng thời gian.”
Thác Bạt Khuê lạnh lùng nói: “Tùy ngươi! Chỉ có điều đi rồi thì không cần phải quay lai.”
Sở Vô Hạ dịu dàng nói: “Vì sao lại nói những lời như vậy?”
Thác Bạt Khuê cười đáp: “Ta không muốn vì một nữ nhân nào mà làm lòng ta phiền muộn, ngươi lại chẳng phải trinh phụ liệt nữ gì cả. Theo ta thì ta không cho phép để nam nhân khác chạm vào người ngươi dù nửa ngón tay. Ngươi đi tới chỗ khác, thì trời mới biết được ngươi có phóng đãng chung chạ với nam nhân khác hay không. Ta đã còn nghi thần nghi quỷ, chi bằng dứt khoát buông bỏ ngươi.”
Thân hình kiều diễm của Sở Vô Hạ khẽ rung lên, ngẩng đầu chằm chằm nhìn gã, hai mắt hồi phục lại dáng vẻ thường ngày, cặp mắt to đẹp lạ thường ánh lên những tia nhìn diễm lệ, khẽ thốt: “Ngươi nói là buông bỏ ta, có phải biểu thị muốn giết ta?”
Thác Bạt Khuê nhún vai nói: “Không cần đa nghi, ngươi có thể tự do mà rời đi? Ta mặc dù tự nhận định bản thân tàn độc so với bất kỳ kẻ nào, song cũng không đến nỗi vì ngươi chọn ra đi lại giết ngươi.”
Sở Vô Hạ nói: “Nếu như ta rời đi một quãng thời gian là vì ngươi mà hành sự, ngươi có nguyện thu hồi những lời vừa nói hay không?”
Thác Bạt Khuê ngạc nhiên hỏi lại: “Vì ta hành sự?”
Sở Vô Hạ đáp: “Cha ta trong nhiều năm không biết đã dẹp tan bao nhiêu Phật tự Đạo quán, đoạt được tài vật tập trung lại tại một chỗ, gọi là “Phật Tàng”, trừ châu báu tiền tài ra, còn có lô đỉnh luyện đan cùng dược vật khó kiếm của Đạo gia, chỉ cần ngươi phái một đội tráng đinh giao cho ta, ta có thể đem Phật Tàng lên giao lại cho ngươi, coi như là của hồi môn của ta!”
Thác Bạt Khuê trong lòng rúng động, gạn hỏi: “Sao lại có đồ vật luyện đan của đạo gia vậy?”
Sở Vô Hạ đáp: “Ni Huệ Huy có được chân truyền của cha bà ta, là kẻ rất giỏi việc luyện đan, vì vậy đối với phương diện này đặc biệt cảm thấy hứng thú. Ngươi có biết cha của bà ấy là người thế nào không? Ông ấy chính là sư tôn của bọn người “Đan Vương” An Thế Thanh, Tôn Ân và Giang Lăng Hư.”
Thác Bạt Khuê động dung nói: “Không ngờ có chuyện này? Ngươi biết thuật luyện đan không?”
Sở Vô Hạ ngạc nhiên đáp: “Đương nhiên là biết. Ta từ nhỏ học cái gì cũng đều nắm trong tay thứ hạng đầu, lại thêm ta dồn hết tâm trí để lấy lòng Phật nương, vì vậy cũng có được hết chân truyền của bà ấy. Ngươi cân nhắc kỹ chưa?”
Thác Bạt Khuê trấn tĩnh nhìn ả hồi lâu, từ từ nói: “Ngươi không được lừa ta. Bằng không dù có phải truy tới chân trời góc bề, Thác Bạt Khuê ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.”
Sở Vô Hạ dịu giọng nói: “Trong thiên hạ liệu có người nào ngươi hoàn toàn tin tưởng hay không?”
Thác Bạt Khuê nhớ tới Yến Phi, cười nói: “Hy vọng có một ngày ta có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi, nhưng ngươi phải bằng hành động và sự thật mới tranh thủ được tín nhiệm của ta. Nói cho ta hay! Ngươi vì cái gì lại sẵn lòng cam tâm tình nguyện theo ta? Thế lực của ta hiện tại vẫn còn xa mới hơn được Mộ Dung Thùy, mà với bọn Diêu Trường, Mộ Dung Vĩnh, Khất Phục Quốc Nhân cũng còn cách một khoảng cự ly, bằng vào thủ đoạn mỹ sắc của ngươi, lại còn thêm bảo tàng, đúng là có nhiều tuyển chọn mà!”
Sở Vô Hạ nhẹ nhàng đáp: “Bởi vì chỉ có ngươi mới là nam nhân chân chính trong lòng ta, theo bên ngươi đi đánh thiên hạ, vừa thú vị vừa kích thích. Nếu như ngươi bất hạnh mà bại vong, ta sẽ cùng chết với ngươi. Hiểu rõ chưa? Đồ ngốc!”
Thác Bạt Khuê ha ha cười lớn: “Đồ ngốc? Ta lần đầu tiên bị người gọi là đồ ngốc. Hy vọng ngươi thực sự không coi ta là đồ ngốc! Nghe lời ta ngoan ngoãn về ngủ đi, sau khi ta chuẩn bị ổn thỏa, sẽ phái một đội binh mã trăm người, cùng ngươi lên đường. Bọn chúng sẽ không nghe chỉ huy của ngươi, nhưng sẽ trợ giúp ngươi hoàn thành nhiệm vụ. Rõ chưa?”
Hết chương 284
~*~*~*~*~*~*~*~*~
Chú thích:
*“Thiên tham nhân sinh, địa tham nhân dưỡng, nhân tham nhân thi”: Trời thiết tha sự sống của con người, đất mong muốn sự sinh sôi nảy nở của con người, người thèm khát sự giúp đỡ bố thí của người
** “Thương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập”:Trời xanh đã chết, trời vàng dựng lên – Câu này trích từ câu nói 16 chữ nổi tiếng của Trương Giác, tiếng Anh gọi là Zhang Jiao, một trong ba thủ lĩnh của đội quân Khăn Vàng thời Tam Quốc “Thương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập, tuế tại giáp tử, thiên hạ đại cát”. Bối cảnh lịch sử ra đời của câu nói này như sau. Thời Tam quốc, Trương Giác tự xưng Đại Hiền lương sư cùng hai em Trương Lương, Trương Bảo lập nên một khu vực Đạo giáo tại tỉnh Sơn Đông. Ba anh em Trương Giác tự cho mình theo “Thái Bình Đạo”, tôn kính Hoàng Lão, người đã truyền cho Trương Giác 3 cuốn Thái Bình yếu lĩnh thư vốn thuộc về thần linh. Khu vực đạo giáo này của ba anh em họ Trương truyền bá tư tưởng bình quyền và phân chia đất đai một cách công bằng. Khi quân Khăn Vàng nổi loạn, Trương Giác đã nói câu nói trên, hàm ý dịch ra là “Trời xanh – nhà Hán - đã chết, trời vàng – triều đại mới của Khăn Vàng - sẽ sớm được lập, trong vòng một giáp – 60 năm đó, thiên hạ sẽ đại cát” – nguồn Tam Quốc Diễn Nghĩa.)
***“Tiên trị thế nhi hậu đăng tiên”: Trước trị quốc sau sẽ hóa thành tiên
****Đây là thời kỳ sau loạn Bát vương, Tây Tấn suy yếu và bị các tộc phương Bắc xâm chiếm. Các quý tộc nhà Tấn chạy xuống phía Nam tái lập nên nhà Đông Tấn ở đất nhà Ngô thời Tam Quốc cũ.
+ “Phá không nhi khứ”: Phá không bay đi