Yến Phi cùng với Tạ Chung Tú và Tạ Phinh Đình đến Vọng Quan hiên trị thương lần thứ hai cho Tạ Đạo Uẩn. Lưu Dụ và Tống Bi Phong thì do Lương Định Đô tiếp đãi, đợi tại biệt sảnh Đông viện nơi có thể nhìn thấy sông Tần Hoài.
Tạ Hỗn có lẽ đã đi với hội của hắn, không thấy xuất hiện, cũng không ai nhắc tới hắn. Không có hai cha con Tạ Diễm, Tạ Hỗn, hai người cảm thấy thoải mái hơn nhiều, tựa hồ như Tạ gia hồi phục lại một chút hào quang ngày trước. Đương nhiên, đó chỉ là ảo giác của riêng bọn họ. Thanh thế của gia tộc họ Tạ từ ngày Tạ An, Tạ Huyền tạ thế đã một đi không trở lại, liên tục chịu những sự đả kích nghiêm trọng, hết cái này đến cái khác.
Tống Bi Phong nhẹ hít lấy hương trà Tiểu Kỳ dâng lên, thấy Tiểu Kỳ còn ngồi bên cạnh, lão liền nói chuyện câu được câu chăng với nàng. Lương Định Đô cũng thường xuyên tham gia vào, câu chuyện không gì khác ngoài chuyện trong phủ Tạ gia.
Tiểu Kỳ trước đây là tì nữ hầu hạ Tống Bi Phong, tâm tính lương thiện, khéo hiểu ý người khác. Ngày đó Yến Phi gặp chuyện không may, tạm ở lại Tạ gia, Tống Bi Phong cũng phái nàng chăm sóc sinh hoạt hàng ngày cho chàng. Trước đây Tống Bi Phong nhiều lần về thăm Tạ gia nhưng không gặp nàng, lần này Tạ Chung Tú cho phép nàng ra gặp lại chủ cũ.
Lưu Dụ thần sắc bình tĩnh đứng trước cửa sổ, nhìn xuống sông Tần Hoài phía dưới, từng đợt sóng lòng trỗi dậy, nguyên nhân là từ Tạ Chung Tú.
Trước khi rời sảnh, nàng có chút không kiềm chế được, đưa ánh mắt sâu thẳm nhìn gã làm gã chút nữa mất hết tự chủ. Như đê không ngăn nổi nước lũ, gã một lần nữa không thể khống chế tình cảm kích động đang dâng lên như sóng trong lòng. Ánh mắt đó gã dường như đã từng gặp qua.
Đúng rồi!
Gã đã từng gặp qua.
Đó là lúc Vương Đạm Chân bị ép gả đi Quảng Lăng, Lưu Dụ đến gặp từ biệt nàng trên thuyền. Gã muốn đem nàng chạy thật xa, nhưng bị nàng cự tuyệt. Lúc Lưu Dụ không thể không đi, nàng nhìn gã với ánh mắt nồng cháy ngọn lửa yêu thương pha lẫn với sự tuyệt vọng làm người khác đau xót tận tâm can. Tuyệt vọng và bi phẫn, ánh mắt đó đã làm tan nát trái tim gã.
Lịch sử lại lặp lại.
Gã đã mất Đạm Chân, nỗi nuối tiếc không bao giờ có thể sửa chữa. Gã có thể để xảy ra chuyện đó thêm một lần nữa sao? Như vậy làm người còn có ý nghĩa gì? Gã không hiểu, một Tạ Chung Tú luôn kiêu ngạo hơn Vương Đạm Chân tại sao gần đây đột nhiên lại để ý đến gã. Nhưng Lưu Dụ gã không còn hoài nghi gì nữa, ánh mắt nàng đã biểu lộ tình cảm của nàng. Gã cũng không thể giải thích nổi, bản thân gã cũng không biết rõ mình có yêu nàng hay không, nhưng có một lực lượng không thể gọi tên gắn kết bọn họ với nhau. Bọn họ đã không còn là hai cá nhân không có quan hệ gì với nhau.
Mọi chuyện phát sinh đột ngột như trời long đất lở. Lưu Dụ đã luôn dùng lí trí để khắc chế cảm giác vi diệu tựa như không có đối với nàng, nhưng tình cảm ấy vẫn dậy lên, lớn đến nỗi làm bản thân gã cũng phải kinh hãi.
Nhưng gã tuyệt đối không thể chạm vào nàng, thậm chí cho dù sau này gã có thể biến thành một Lưu Lao Chi khác, cho dù đánh bại Tôn Ân và Hoàn Huyền, một bước thành người có quyền lực nhất phương Nam. Nhưng gã vẫn là một kẻ áo vải. Nếu muốn lấy Tạ Chung Tú, sẽ làm cho cao môn Kiến Khang nổi giận, xem gã như kẻ phá hoại chế độ hiện có đã thành quy tắc. Đó chính là phương thức phá hoại mà cao môn Kiến Khang khó tiếp thu nhất.
Hảo sự của gã và Tạ Chung Tú là không thể có. Nàng cũng biết rất rõ điểm này, cho nên ánh mắt nàng mới u oán, vô vọng như vậy. Nàng càng hiểu rõ rằng gã tuyệt không thể cùng nàng trốn đi thật xa.
Ôi! Huống chi gã đã từng hứa với Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong rằng sẽ không gặp nàng nữa.
Nhưng gã đã để mất Đạm Chân rồi, còn phải mất thêm nàng nữa sao? Sinh mệnh còn có ý nghĩa gì đáng nói nữa đây? Vào sinh ra tử là vì cái gì? Biện pháp giải quyết duy nhất chính là phải trở thành hoàng đế của tân triều. Lúc đó thân ngồi trên ngai vàng, không còn là thân phận áo vải, gã muốn làm gì thì làm, ai dám nói chữ “không”? Kẻ áo vải muốn thành Hoàng đế, ở xã hội Nam phương hiện nay là gần như không thể, nhưng không phải là hoàn toàn không có biện pháp.
Từ khi nhà Tấn xuống phương Nam, an phận với Giang Tả, trục xuất rợ Hồ, thống nhất giang sơn luôn là đại nguyện vọng của Hán nhân phương Nam. Ai có thể huy quân Bắc phạt, thống nhất thiên hạ thì có đủ tư cách thành Hoàng đế tân triều. Điều đó đã trở thành niềm tin ăn sâu vào lòng người dân. Cho nên chỉ cần Lưu Dụ gã có thể nắm binh quyền, khống chế đại cục, sau đó tiền hành Bắc phạt, thu phục Trung nguyên, thì ngai vàng chí tôn kia sẽ như đồ nằm trong túi gã.
Chưa bao giờ có lúc nào Lưu Dụ lại kiên trì nghĩ đến việc muốn làm Hoàng đế như vậy. Từ trước đến nay, Lưu Dụ đều thấy việc này mơ mơ hồ hồ. Giờ phút này mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, không những có phương hướng cụ thể, mà mục tiêu còn mở rộng. Là do gã biết tương lai bản thân gã sướng hay khổ toàn bộ liên hệ tới quyết định trước mắt.
Đột nhiên gã nghĩ đến Giang Văn Thanh.
Từ khi chia tay với nàng ở Biên Hoang tập, gã càng ngày càng ít khi nghĩ tới nàng, ngược lại thời gian nghĩ đến Nhậm Thanh Thị còn nhiều hơn chút đỉnh. Có phải là gã đối với nàng không có tình cảm giữa nam và nữ với nhau? Tự vấn lòng mình, sự thật lại không phải như vậy. Khi ở cùng nàng, gã cảm thấy rất dễ chịu. Nàng bất luận là tính cách bên trong hay dáng vẻ bề ngoài đều rất tốt, lại cùng mọi người trải qua sinh tử kiếp nạn, tình sâu nghĩa nặng. Nhậm Thanh Thị và Tạ Chung Tú còn xa mới có thể so sánh với những điều đó. Nhưng tại sao bản thân gã lại không cảm thấy bị hấp dẫn như đối với Tạ Chung Tú hay Nhậm yêu nữ. Đạo lý bên trong gã có thể hiểu được, là vì gã khát cầu loại kích thích có thể làm gã quên đi tình yêu nồng cháy với Vương Đạm Chân.
Sức hấp dẫn của Nhậm Thanh Thị là vô cùng nguy hiểm, chưa kể bản thân thị hành vi phiêu hốt khó đoán. Tạ Chung Tú lại càng không cần phải nói, rõ ràng đó chính là một Vương Đạm Chân thứ hai, luôn cả hoàn cảnh cũng rất giống nhau.
Đối với Giang Văn Thanh là cảm giác có lỗi trong lòng, nhất là khi gã động tâm với nữ nhân khác, gã thấy như mình không công bằng với nàng. Hiện tại, nàng đem hy vọng phục cừu chấn bang toàn bộ kí thác trên mình gã, càng làm gã cảm thấy không thể phụ nàng.
Nhưng nếu như gã trở thành Hoàng đế thực sự, mọi chuyện đều có thể giải quyết thuận lợi. Gã tuyệt đối không nghĩ đến cuộc sống hậu cung với vô số phi tần, nhưng …
Yến Phi đến bên cạnh gã, thấp giọng: “Vương phu nhân muốn gặp một mình ngươi.”
:77:
Tạ Đạo Uẩn ngồi một mình trong hiên, chỉ có hai ngọn đăng phong chiếu sáng hai bên. Bà mặc áo bông dày, tinh thần dường như khá tốt. Nếu như Lưu Dụ không biết, tuyệt không cách gì tưởng tượng ra ngày hôm qua bà không thể ra khỏi giường.
Lưu Dụ bước chân vào Vọng Quan hiên, trong lòng muôn vàn cảm khái. Gã nhớ lại ngày đó trước khi đến gặp Kỷ Thiên Thiên ở hội Vũ Bình đài, tại đây đã cử hành hội nghị nhỏ. Tạ Chung Tú vẫn là một hài tử ngây thơ, nũng nịu luôn thích quấn quít lấy Tạ Huyền. Đạm Chân thì lại vô lo vô nghĩ, là một cô gái đang tuổi dậy thì. Lúc đó có ai nghĩ đến vận mệnh tàn nhẫn vô tình đang đợi các nàng ở phía trước. Hai nàng đáng lẽ phải như hoa kia, được nâng niu, chăm sóc trong đình viện, nào biết sẽ phải chịu phong ba, bão táp bên ngoài.
Tạ Đạo Uẩn nở một nụ cười thân thiết, nhẹ nhàng nói: “Tiểu Dụ trông càng ngày càng uy vũ, dáng đi như rồng hành hổ bộ. Tiểu Huyền đúng là không chọn nhầm người. Lại đây! Đến đây với ta ….”
Lưu Dụ thi lễ thỉnh an, cung kính ngồi xuống. Hiện tại ở Tạ gia, bà là người duy nhất có thể làm gã kính trọng. Truyền thống phong lưu, thi tửu của Tạ gia cũng chỉ có thể còn thấy được ở bà.
Tạ Đạo Uẩn rõ ràng đã hốc hác đi nhiều. Nhưng điều thay đổi lớn nhất ở bà chính là ánh mắt. Đó là thần sắc của người sau khi trải qua kiếp nạn, lòng đã khô héo. Bà ta vĩnh viễn không thể khôi phục được khí phách của vị phong lưu tài nữ trong Vọng Quan hiên ngày đó, cũng như gã không còn là Lưu Dụ của ngày nào.
Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Giữa ngươi và tiểu Diễm đã xảy ra chuyện gì thế?”
Chuyện bây giờ Lưu Dụ muốn nói nhất là chuyện liên quan đến hạnh phúc sau này của Tạ Chung Tú. Nếu được Tạ Đạo Uẩn đồng ý, gã sẽ cảm thấy thư thái hơn nhiều. Nhưng gã cũng biết đó chính là cẩn mao thất mạo*, nếu có chuyện gì sơ xuất sẽ gây ra hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Tạ Đạo Uẩn có thể không khó khăn gì khi xem gã là người kế thừa của Tạ Huyền. Nhưng nếu phạm vào điều cấm kị là hôn nhân giữa cao môn và áo vải, thì sợ con người cởi mở như Tạ Đạo Uẩn cũng không cách gì tiếp nhận nổi. Sự tình có thể tồi tệ đến cực điểm.
Gã thật sự không muốn làm ảnh hưởng đến việc phục hồi sức khỏe của Tạ Đạo Uẩn. Bề ngoài bà dường như đã khôi phục lại sự kiên cường ngày trước, nhưng gã lại biết rõ bà chỉ là đang cố hết sức ghé vai gánh vác trách nhiệm nặng nề là người chủ trì của Tạ gia.
Lưu Dụ cười khổ đáp: “Đại nhân là muốn tiểu nhân ám sát Lưu Lao Chi. Tiểu nhân đã nghiêm túc phân trần lợi hại nhưng đại nhân vẫn không thu hồi lại mệnh lệnh đã quyết, còn nổi giận một đao phân chia ranh giới với tiểu nhân. Ôi! Tiểu nhân cũng không tưởng nổi sự tình sẽ phát triển đến mức này.”
Tạ Đạo Uẩn mắt phượng phát lạnh, nhưng vụt chốc lại trở lại thần sắc mệt mỏi vì lao tâm lao lực, mệt mỏi nói: “Tiểu Dụ ngươi đừng trách hắn. Hắn từ trước đến nay đều như vậy, luôn hành động theo ý mình, tính tình lại khoa trương. An công cũng không có cách nào làm hắn thay đổi.”
Lưu Dụ đáp: “Tình huống bế tắc nên tiểu nhân chỉ còn cách cầu cứu Tư Mã Nguyên Hiển, thỏa hiệp với hắn ta và Tư Mã Đạo Tử. Nếu không tiểu nhân chỉ có đường đào vong.”
Tạ Đạo Uẩn than: “Ta đã nghe Tống thúc kể rõ tình huống, làm sao trách ngươi được? Tình huống mà tiểu Huyền sợ nhất đã xảy ra, tương lai sẽ ra sao đây? Tiểu Dụ có thể nói cho ta biết không?”
Lưu Dụ ngây người, hỏi lại: “Tình huống Huyền soái sợ nhất?”
Tạ Đạo Uẩn ánh mắt xa xăm, như hồi tưởng chuyện ngày trước, có lẽ bà đang nghĩ đến Tạ Huyền, đau đớn nói: “Tiểu Huyền sợ nhất là tiểu Diễm bị Tư Mã Đạo Tử lợi dụng làm phân hóa Bắc Phủ binh, càng sợ hắn tâm cao khí ngạo, không trọng dụng ngươi, lại lĩnh binh xuất chinh. Tất cả những gì tiểu Huyền lo lắng đã thành hiện thực. Ngươi bảo ta nên làm sao đây!”
Lưu Dụ chết lặng không nói nên lời. Hiện tại mọi chuyện thành sự đã rồi. Tạ Diễm có thể quay lại hay không thì phải xem hắn đã đến lúc tuyệt mệnh hay chưa, bất cứ ai cũng không thể giúp được. Gã có thể nói gì đây? Tạ Đạo Uẩn khôi phục lại sự bình tĩnh, lãnh đạm hỏi: “Vẻ mặt của tiểu Dụ đã cho ta câu trả lời. Tình huống thật sự xấu đến mức thế sao?”
Lưu Dụ đáp: “Chiến trường thiên biến vạn hóa, thành bại ai cũng rất khó đoán trước, có khi kết quả vượt quá cả mong đợi.”
Tạ Đạo Uẩn tuyệt vọng nói: “Ta quá hiểu tiểu Diễm, cho nên luôn khuyên hắn cự tuyệt nhiệm vụ Tư Mã Đạo Tử giao. Chỉ là hắn để ngoài tai.”
Lưu Dụ trong lòng nhiệt huyết dâng cao, phấn khích nói: “Chỉ cần Lưu Dụ còn chút hơi thở, tuyệt không để Tôn Ân hoành hành ngang ngược.”
Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Ngươi biết rõ bọn họ sao?”
Lưu Dụ ngây người hỏi lại: “Phu nhân là muốn ám chỉ Thiên Sư quân?”
Tạ Đạo Uẩn gật đầu, rồi hai mắt bộc lộ tràn trề thần sắc chán nản, thất vọng, hồi tưởng lại những việc không nên nhớ, nói: “Chỉ kẻ nào đã từng đến Cối Kê mới hiểu được lòng dân nơi đó, tuyệt không phải những người trốn ở Kiến Khang có thể hiểu được. Nói thẳng với ngươi, ngày đó tiểu Huyền ủng hộ, tài bồi ngươi, ta cũng có chút nghi vấn, đến bây giờ với thực sự hiểu rõ lựa chọn của tiểu Huyền là khôn ngoan. Chỉ có những người xuất thân áo vải mới có thể hiểu được nỗi lòng dân chúng. Tiểu Diễm lúc nào cũng cao cao tại thượng, chưa từng thử tìm hiểu xem dân chúng suy nghĩ gì. Hắn chỉ là một Vương lang khác, có khác là một người chỉ biết cách đăng đàn làm thơ, một người thì trầm mê trong thân phận quý hiển của cao môn đại tộc. Thất bại của bọn họ đã được định sẵn. Ta không có tư cách bảo ngươi phải làm gì vì ta cũng là một phần tử của cao môn. Ngày đó bọn ta hoàn toàn không hiểu tại sao các thành trì xung quanh lại có thể thất thủ trong một thời gian ngắn như vậy. Bây giờ ta cuối cùng cũng minh bạch, đó chính là vấn đề lòng người hướng về đâu. Tiểu Huyền đã nói rất đúng.”
Bà ta nói xong thì ngưng thần chăm chú nhìn Lưu Dụ, với ngữ điệu kiên quyết nói: “Vận mệnh của Hán nhân Nam phương bọn ta, bất luận là cao môn đại tộc, hay hàn môn áo vải chính là nằm trong tay ngươi. Đó không phải là đoán trước tương lai mà là sự thật trước mắt. Lưu Lao Chi vốn là một nhân tài, nhưng tính cách và hành vi của hắn khiến người ta thất vọng. Huyền đệ chính là vì nhìn thấy bản chất của hắn nên mới đề bạt ngươi thay thế hắn. Hiện tại hoàng tộc cao môn ở Kiến Khang thì vừa mến vừa sợ ngươi, dân chúng thì vì câu chuyện ‘Nhất tiễn trầm Ẩn Long’ của ngươi mà nảy sinh sự mong chờ vô cùng có cơ hội được thấy ngươi tận mắt, xem ngươi làm việc như thế nào. Chỉ cần có thể đoàn kết trên dưới, thành tựu của ngươi có thể vượt cả Huyền soái của ngươi, đừng phụ kỳ vọng của tiểu Huyền đối với ngươi.”
Lưu Dụ trong lòng nảy sinh cảm giác kính trọng. Tạ Đạo Uẩn khẳng định là người có tầm nhìn xa nhất trong cao môn ở Kiến Khang, đối với tình thế hiện tại có cái nhìn thấu triệt. Trong lòng gã sục sôi, buột miệng thốt: “Tôn tiểu thư,...! Tôn tiểu thư nàng...”
Tạ Đạo Uẩn mỉm cười: “Ta chút nữa thì quên đa tạ ngươi, Chung Tú đã làm phiền các ngươi. Nó niên kỉ còn nhỏ, đáng ra cũng không nên xuất giá vội như vậy. Ôi!”
Lưu Dụ vốn muốn bày tỏ với bà tình cảm gã dành cho Tạ Chung Tú, nào ngờ bà hiểu lầm, nghĩ rằng gã muốn thỉnh bà ta tác chủ cho Tạ Chung Tú, cự tuyệt hôn sự với Tư Mã Nguyên Hiển. Bà ta còn đa tạ gã, làm gã khó có thể làm tới, lời ra đầu môi rồi vẫn không thể thốt. Hơi thở dài cuối cùng của bà ta, không cần nói cũng là đang nghĩ đến cuộc hôn nhân của bản thân.
Tạ Đạo Uẩn than: “Chuyện của Đạm Chân làm ta rất đau buồn. Chung Tú cũng vì chuyện này mà u uất sầu muộn. Những chuyện như vậy bất cứ ai cũng đều không có cách nào.”
Lưu Dụ thấy lúc bà ta nói đến Vương Đạm Chân, hai mắt đỏ lên. Bản thân gã trong lòng cũng khổ sở vô cùng, nhiệt tình và dũng khí cũng nguội lạnh đi, không cách gì bày tỏ sự quan tâm của mình với Tạ Chung Tú cho bà hay, vả lại chuyện đó tuyệt đối không thích hợp. Không còn gì để nói, gã đành cáo từ rời đi.
:77:
Thác Bạt Khuê đến bên giường, ngắm Sở Vô Hạ đang đắp chăn nằm trên giường, mỉm cười: “Sắc mặt nàng đỡ hơn nhiều rồi đó.”
Sở Vô Hạ dịu dàng nói: “Tộc chủ sao không ngồi xuống, cùng Vô Hạ nói chuyện đôi câu, để Vô Hạ giải sầu cho người.”
Thác Bạt Khuê hờ hững nói: “Ta vẫn thích đứng tại đây, đó là một thói quen của ta, lúc vui vẻ cũng phải giữ cảnh giác. Đó là thói quen xấu hình thành từ hồi còn làm mã tặc, làm ta ngủ cũng khó ngon. Nếu như luôn cả chuyện đó mà nàng cũng có thể giải sầu cho ta, thì nói không chừng là nàng muốn quyến rũ ta.”
Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Nguyên lai là tiếp nhận ta và yêu thương ta căn bản là hai chuyện khác nhau. Vô Hạ này phải tận hết mọi sở trường đến giành lấy sự sủng ái của tộc chủ là muốn xem tộc chủ có đảm lượng thử một vài trò chơi nguy hiểm, có thể trả giá để chữa bệnh mất ngủ hay không?”
Thác Bạt Khuê cảm thấy rất hứng thú: “Rốt cuộc nàng có đề nghị gì? Tại sao còn liên quan đến vấn đề đảm lượng, lại cần phải trả giá?”
Sở Vô Hạ với tay lấy túi gấm đang đặt bên gối, cho tay vào trong lấy ra một chiếc bình nhỏ cao chỉ ba tấc. Thị dùng hai ngón tay nhấc lên đưa ra trước mặt Thác Bạt Khuê, dịu dàng nói: “Đây là bảo bối ta lấy từ trong Phật tàng ra. Trong bình có ba viên Ninh tâm đan**, được chế bởi đan học đại gia người Hán, Quách Cảnh Thuần, người được xưng là nửa thần tiên. Đó là trân phẩm mà cao môn Kiến Khang có cầu cũng không thấy, là bảo vật vô giá.”
Thác Bạt Khuê cười ha hả: “Chẳng trách nàng nói là có trò chơi nguy hiểm, nguyên lai là chuyện này. Nàng xem Thác Bạt Khuê ta là người thế nào? Lúc này là lúc quan trọng đối đầu với đại địch, làm sao có thể giống như những vị kia được xem là danh sĩ phương Nam, trầm mê trong đan dược, còn xem là chuyện nghiêm chỉnh nữa sao?”
Sở Vô Hạ lãnh đạm đáp: “Vận mệnh của Vô Hạ hiện tại đã dính liền với tộc chủ. Làm sao ta có thể làm chuyện gì bất lợi cho tộc chủ được? Ninh tâm đan chứa trong này tịnh sẽ không ảnh hưởng gì đến thần trí, ngược lại còn làm cho tộc chủ đầu óc sáng suốt, quên đi ưu phiền, đảm bảo có thể ngủ ngon.”
Thác Bạt Khuê không hề mảy may động lòng: “Nghe thì cũng có điểm hấp dẫn. Bất quá uống đan dược vào sẽ để lại di chứng về sau. Ta tuyệt không muốn đùa với những việc loại này.”
Sở Vô Hạ mỉm cười: “Hoàn toàn ngược lại. Ninh tâm đan sở dĩ được xem là đệ nhất đan bảo, chính là do dược lực của nó làm người ta phải kinh hãi, có thể kéo dài trong mười ngày, và không hề để lại di chứng về sau. Trong bình này vốn có bảy viên Ninh tâm đan, Đại hoạt Di Lặc và Phật nương mỗi người phục một viên. Hai viên nữa đã bị ta phục trên đường quay về đây. Ngươi thấy bộ dạng của ta có giống như vừa phục thuốc không?”
Thác Bạt Khuê hai mắt sáng ngời, chăm chú ngắm thị, hỏi: “Nàng có chuyện gì thế? Tại sao lại phục liền hai viên Ninh tâm đan.”
Sở Vô Hạ thở dài một hơi, chầm chậm hỏi: “Người nói thử xem, trên đời này còn có chuyện gì đáng để ta mãn nguyện không?”
Thác Bạt Khuê gần như á khẩu. Là vì theo ngữ khí u oán của thị mà nói, thị đang phản kích lại việc hắn chưa say mê thị. Gã đành lái chủ đề sang hướng khác: “Lời của nàng không phải là trước sau mâu thuẫn sao? Vừa rồi nàng mới nói đây là trò chơi nguy hiểm, cần phải trả giá. Bây giờ lại bảo là phục Ninh tâm đan không thể có hậu quả không tốt.”
Sở Vô Hạ đem dược bình giấu vào trong chăn. Đôi mắt xinh đẹp của thị lóng lánh mỹ miều, nói: “Tộc chủ hiểu lầm rồi. Cái nguy hiểm mà Vô Hạ nói tịnh không phải là bản thân Ninh tâm đan, mà là tình huống xảy đến sau khi phục đan! Ngươi nếu đã từng nếm qua hương vị của Ninh tâm đan, sẽ vĩnh viễn không quên được loại cảm giác đó, cảm thấy đó mới là khoái lạc chân chính, con người sống như vậy mới có ý nghĩa. Khi tình huống như vậy phát sinh, ngươi sẽ không kiềm được truy cầu hiệu ứng của đan dược, cuối cùng là biến thành người trầm mê trong đan dược, biến thành người cùng một duộc với bọn cao môn danh sĩ ở Kiến Khang. Đó mới là sự nguy hiểm lớn nhất.”
Thác Bạt Khuê trầm ngâm một lúc lâu, rồi nhíu mày thắc mắc: “Nếu vậy làm thế nào Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy ngừng việc phục thuốc được? Theo như lời nàng nói, trong bình đáng ra không còn lấy nửa viên.”
Sở Vô Hạ vui vẻ: “Hỏi hay lắm! Đầu tiên không nói đến việc bọn họ đều là những người có ý chí sắt thép. Điều chủ yếu là mục đích phục thuốc của bọn họ, có chút giống với Thần Nông nếm bách thảo, là muốn đem thân mình ra thử nghiệm dược tính của Ninh tâm đan, xem xem có thể chế tạo ra loại đan dược tương tự không. Chế đan luyện dược rồi bán cho Nam phương luôn là một nguồn thu nhập quan trọng của Di Lặc giáo bọn ta.”
Thác Bạt Khuê hỏi tiếp: “Bọn họ có thành công không?”
Sở Vô Hạ đáp: “Quách Cảnh Thuần thiên nhân thông thái, đối với đan dược có sở trường độc đáo. Trừ phi người thử là Đan vương An Thế Thanh, nếu không, thiên hạ sợ không có ai có thể phục chế ra viên Ninh tâm đan nào. Bất quá vậy cũng đủ cho chúng ta cải thiện rất lớn cách luyện chế Ngũ thạch tán, khiến bọn danh sĩ Nam phương cúi đầu quỵ lụy. Suýt nữa quên nói với ngươi, Ngũ thạch tán là một món hời có tính cạnh tranh cao, chất lượng quan trọng phi thường, tuyệt không giấu được người phục đan lâu năm.”
Thác Bạt Khuê cười nói: “Các người độc ác mới đúng. Không những moi tiền của túi của nhân sĩ Nam phương mà còn hại người ta không còn chí tiến thủ, trầm mê trong đan dược.”
Sở Vô Hạ cười: “Có cầu thì ắt có cung, có chuyện gì là không tốt nào? Thói phục thuốc của bọn danh sĩ không phải do Di Lặc giáo bọn ta khởi xướng, bọn ta cũng chỉ là theo thế mà hành sự. Lợi và hại của Ninh tâm đan tất cả đã nói cho tộc chủ nghe rồi! Mọi việc đều do tộc chủ quyết định, ta chỉ là đưa ra một sự lựa chọn cho tộc chủ thôi.”
Thác Bạt Khuê trầm ngâm: “Chỉ cần ý chí kiên định thì có phải là muốn dừng lúc nào là dừng không?”
Sở Vô Hạ đưa mắt nhìn gã, trong đôi mắt mỹ lệ lóe ra tia sáng kì dị, như muốn nói: Tộc chủ cuối cùng cũng động tâm rồi.
Chú thích:
* Cẩn mao thất mạo: Nghĩa đen của thành ngữ này xuất phát từ việc vẽ tranh chân dung. Nếu quá để ý vẽ từng sợi lông măng nhỏ sẽ không thể vẽ được khuôn mặt đẹp. Nghĩa bóng: nếu để ý quá đến việc nhỏ thì sẽ hỏng việc lớn.
** Ninh tâm đan: Một loại đan dược có tác dụng an thần.
Hết chương 418
~*~*~*~*~*~*~*~*~