“Mày đúng là quá rắc rối,” Clarisse phán.
Chúng tôi chỉ vừa kết thúc một chuyến tham quan khắp con tàu mà chúng tôi không muốn, đi băng qua những căn phòng tối tăm với đầy thủy thủ đã chết. Chúng tôi nhìn thấy những kho than đá, nồi hơi và động cơ – chúng gắt gỏng và gầm gừ như thể sẽ nổ tung vào bất cứ lúc nào. Chúng tôi nhìn thấy buồng hoa tiêu, kho thuốc súng và một boong chứa đại bác (niềm yêu thích của Clarisse) với hai khẩu súng đại bác nòng trơn Dahlgren ở mạn trái và mạn phải tàu và một khẩu súng trường Brooke 9-inch được đặt ở đầu và ở cuối tàu – tất cả đặc biệt được trang bị lại để có thể bắn được những quả đạn súng thần công bằng đồng của Clarisse.
Ở bất cứ nơi nào chúng tôi đến, các thủy thủ của Quân Liên minh đã chết nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Những gương mặt đầy râu gớm guốc của họ lung linh. Họ chấp nhận Annabeth vì cô ấy nói với họ rằng cô ấy đến từ Virginia. Họ cũng rất hứng thú với tôi vì tên tôi là Jackson – giống như một cái tên rất phổ biến ở phía Nam – nhưng tôi đã phá hỏng bằng cách nói với họ rằng tôi từ New York tới. Tất cả bọn họ đều huýt sáo chê bai và lẩm bẩm những lời chửi rủa dân Yankee.
Tyson rất hãi đám người này. Trong suốt chuyến tham quan, cậu ấy cứ khăng khăng đòi Annabeth cầm tay cậu ấy, và cô ấy trông không cảm động lắm vì điều đó.
Cuối cùng, chúng tôi cũng được hộ tống tới bữa tối. Buồng của thuyền trưởng con tàu C.S.S Birmingham chỉ bằng kích thước của một phòng thay đồ, nhưng vẫn lớn hơn nhiều so với bất kỳ căn phòng nào trên con tàu này. Cái bàn bày biện bằng vải lanh trắng và đồ sứ. Bơ lạc và bánh sandwich mứt trái cây, khoai tây chiên, Dr, Peppers do nhóm thủy thủ chỉ còn là bộ xương di động tới phục vụ. Tôi không muốn ăn bất cứ thứ gì do ma phục vụ, nhưng cơn đói đã chiến thắng nỗi sợ hãi của tôi.
“Tantalus đã trục xuất các ngươi vĩnh viễn rồi đấy,” Clarisse nói với chúng tôi đầy tự mãn. “Ngài D. nói nếu bất kỳ ai trong số các ngươi xuất hiện ở trại, ông ta sẽ biến người đó thành sóc và dung chiếc SUV của ông ta chạy đè lên con sóc đó.”
“Họ cung cấp cho cậu chiếc tàu này sao?” Tôi hỏi.
“Dĩ nhiên là không. Là cha tớ cho đấy.”
“Thần Ares ư?”
Clarisse cười nhạo. “Cậu nghĩ rằng chỉ mình cha cậu có sức mạnh biển cả sao? Những linh hồn ở phe thua trận ở các cuộc chiến tranh đều phải có nghĩa vụ cống nạp cho thần Ares. Đó là lời nguyền cho những kẻ bại trận. Tớ đã khẩn cầu cha cung cấp cho một phương tiện hải quân và nó đã ở đây. Những gã này sẽ làm bất cứ điều gì mà tớ sai bảo. Đúng không, Thuyền trưởng?”
Gã thuyền trưởng đứng sau cô ta nom cứng nhắc và giận giữ. Đôi mắt xanh sáng rực của gã gắn chặt lên tôi với cái nhìn chằm chằm đầy đói khát. “Nếu điều đó có nghĩa kết thúc cuộc chiến quỷ quái này, thì thưa quý cô… Vì mục tiêu cuối cùng là hòa bình… chúng tôi sẽ làm bất cứ thứ gì… hủy diệt bất kỳ ai…”
Clarisse mỉm cười. “Hủy diệt bất kỳ ai. Ta thích điều này.”
Tyson nuốt nước bọt.
“Clarisse,” Annabeth cất tiếng. “Luke có thể cũng đang tìm kiếm Bộ Lông Cừu Vàng. Chúng tớ đã gặp anh ấy. Anh ấy có được các tọa độ và anh ấy đang đi về phía nam. Anh ấy có một con tàu du lịch đầy yêu quái…”
“Tốt! Tớ sẽ thổi bay hắn ta bay ra khỏi nước.”
“Cậu không hiểu,” Annabeth nói. “Chúng ta phải kết hợp với nhau. Hãy để chúng tớ giúp cậu…”
“Không!” Clarisse đấm mạnh lên bàn. “Đây là cuộc tìm kiếm của tớ, cô gái thông minh ạ! Rút cục, tớ cũng trở thành anh hùng và hai người sẽ không thể cướp cơ hội này của tớ được nữa.”
“Những người bạn cùng nhà cậu đâu rồi?” tôi hỏi. “Cậu được phép mang hai người bạn đi cùng mà, phải không?”
“Họ không… Tớ để họ ở lại. Để bảo vệ trại.”
“Ý cậu là ngay cả người trong chính tòa nhà của cậu cũng không giúp đỡ cậu sao?”
“Im đi. Đồ khó tính! Tớ không cần chúng, hoặc cậu.”
“Clarisse này,” tôi nói. “Tantalus đang lợi dụng cậu. Ông ta không quan tâm gì tới trại đâu. Ông ta thích nhìn trại bị phá hủy. Ông ấy đang sắp xếp cho cậu bị thất bại.”
“Không! Tớ không quan tâm tới những gì mà Lời Sấm Truyền...”
Clarisse đang nói bỗng im bặt.
“Cái gì?” Tôi gặng hỏi. “Lời Sấm Truyền đã nói gì với cậu?”
“Không có gì”. Đôi tai cô ta bỗng ửng hồng. “Tất cả những gì cậu cần biết bây giờ là tớ sẽ kết thúc cuộc tìm kiếm này và cậu không phải giúp gì cả. Mặt khác, tớ không thể để các cậu đi...”
“Thế bọn tớ là tù nhân sao?” Annabeth bất bình
“Là khách... cho tới giờ” Clarisse gác chân lên tấm khăn trải bàn bằng lanh trắng và mở một chai Dr.Pepper khác. “Thuyền trưởng, hãy đưa họ xuống bên dưới. Chia cho họ võng nhé. Nếu họ không biết cách cư xử, hãy cho họ thấy cách chúng ta giải quyết lũ gián điệp của kẻ thù ra sao nhé.”
Giấc mơ ùa tới khi tôi vừa nhắm mắt lại
Grover đang đứng bên khung cửi, liều lĩnh gỡ phần đuôi váy cưới của cậu ấy khi cánh cửa đá được lăn sang một bên và gã Cyclops gầm vang, “Ah-ha!”
Grover lắp bắp. “Anh yêu! Em không... Anh vào im ắng quá!”
“Ngươi tháo ra?” Polyphemus gầm lên. “Vấn đề là vậy!”
“Ôi, không. Em không....”
“Lại đây!” Polyphemus chộp lấy Grover ở phần eo và nửa vác nửa kéo lê cậu ấy qua các đường hầm trong hang. Grover cố gắng giữ cho đôi giày cao gót gắn chặt với đôi móng của cậu ấy. Mạng che mặt nghiêng ngả và đe dọa rớt ra khỏi đầu cậu.
Tên Cyclops kéo cậu ấy vào trong một cái động có kích thước của một kho hàng được trang trí bằng những tảng thịt cừu ướp muối. Một chiếc ghế sofa thư giãn Lay-Z-Boy phủ lên, một chiếc tivi được bọc lông cừu, những giá sách thô chứa đầy các vật trang trí có hình cừu như những tách cafe có hình dạng như mặt của con cừu, những tượng cừu bằng thạch cao, board game (1), truyện tranh và các mô hình liên quan tới cừu. Trên sàn nhà là hàng đống xương cừu và các loại xương không giống xương cừu lắm – đó là xương của những thần rừng đã tới hòn đảo này để tìm thần Pan.
(1) Board game được hiểu nôm na là những trò chơi nhóm được chơi trên những chiếc bàn bằng gỗ. Nó gồm các trò như rút gỗ, giữ thăng bằng, Blokus (vây chiếm lãnh thổ), CubicPun3D Puzzle (lắp ráp mô hình bằng giấy), Monopoly (cờ tỷ phú), I’m the boss (game thương lượng trong kinh doanh), Risk (game dàn trận), bài uno, bài hali gali, bài quick... (ND)
Polyphemus chỉ để Grover ngồi đủ lâu để đẩy một tảng đá lớn khác. Ánh sáng ban ngày tràn vào khắp hang động và Grover rên rỉ với nỗi khát khao mãnh liệt. Bầu không khí trong lành!
Tên Cyclops lôi cậu ấy ra ngoài lên đỉnh đồi nhìn xuống một hòn đảo đẹp nhất mà tôi từng thấy.
Nó có hình dạng của một cái yên ngựa được cắt đôi bằng rìu. Nó có những đồi cỏ xanh tươi ở mỗi bên và một thung lũng rộng lớn nằm giữa, phân cách bởi một vực thẳm sâu hoắm, vắt ngang là một cây cầu bằng thang dây. Những dòng suối xinh đẹp chảy đến gờ của hẻm núi và hòa mình vào những thác nước có màu cầu vồng. Những chú vẹt đu đưa trên các ngọn cây. Những đóa hoa màu hồng và màu tía nở rộ trong các bụi cây. Hàng trăm con cừu đang nhởn nhơ gặm cỏ trên các đồng cỏ. Lông của chúng lấp lánh một cách kỳ lạ như những đồng xu bằng đồng và bạc.
Ở trung tâm của đảo, kế bên cái cầu bằng dây thừng là một cây sồi khổng lồ xoắn xít với một thứ gì đó lấp lánh trên cành cây thấp nhất.
Bộ Lông Cừu Vàng.
Ngay cả trong giấc mơ, tôi cũng có thể cảm nhận được sức mạnh của nó đang lan tỏa ra khắp hòn đảo, khiến cỏ xanh hơn, những bông hoa nở đẹp hơn. Tôi hầu như có thể cảm nhận được ma thuật tự nhiên đang hoạt động. Tôi chỉ có thể tưởng tượng ra mùi hương này có sức mạnh ra sao đối với một thần rừng.
Grover khóc thút thít.
“Đúng thế.” Pulyphemus nói đầy tự hào. “Nhìn thấy đằng kia không? Bộ Lông Cừu Vàng là chiến lợi phẩm quý giá trong bộ sưu tập của ta. Ta đã ăn trộm nó từ những người anh hùng cách đây lâu lắm rồi, và kể từ đó – thức ăn miễn phí! Các thần rừng đến từ mọi miền thế giới, giống như thiêu thân lao vào lửa vậy. Thịt thần rừng ngon lắm nhé! Và giờ...”
Polyphemus nhấc một cây kéo lớn dùng cho việc xén lông cừu rất bén lên.
Grover kêu lên nhưng Polyphemus chỉ túm lấy một con cừu gần nhất như thể đó là một con vật nhồi bông và cạo luôn bộ lông của nó. Hắn đưa cho Grover một mảng lông mịn từ lớp lông mới được xén.
“Để nó ở dưới guồng quay tơ ấy!” hắn nói đầy tự hào. “Ma thuật. Nó làm sợi lông không bị sổ ra được”
“Ồ... được...”
“Bánh ngọt đáng thương của anh!” Polyphemus cười toe toét. “Thợ dệt tồi, Ha ha! Đừng lo gì cả. Sợi chỉ đó sẽ giải quyết được vấn đề. Phần đuôi váy cưới sẽ được hoàn thành vào ngày mai!”
“Anh.... mới ân cần làm sao!”
“Hehe.”
“Nhưng.... nhưng, anh yêu.” Grover nuốt nước bọt, “Giả sử nếu có ai đó tới giải cứu – ý em là, tấn công hòn đảo thì sao?” Grover nhìn thẳng vào tôi và tôi biết cậu ấy đang hỏi những thứ có lợi cho tôi. “Điều gì có thể ngăn cản họ tiến đến cái động này?”
“Vợ yêu sợ hãi! Đáng yêu quá! Đừng lo lắng. Polyphemus có hệ thống an ninh rất tiên tiến. Chúng phải qua được đám thú nuôi của ta mới vào được.”
“Thú nuôi ư?”
Grover nhìn quanh đảo nhưng không thấy gì ngoài đàn cừu đang thanh thản gặm cỏ trên các cánh đồng cỏ
“Rồi sau đó,” Polyphemus gầm gừ, “Chúng phải vượt qua được ta nữa!”
Hắn đấm một quả vào tảng đá gần nhất. Nó kêu răng rắc và lập tức nứt ra làm đôi. “Nào đến đây!” Hắn gào lên, “Trở lại hang thôi”
Grover nom sắp khóc đến nơi – đã quá gần với tự do nhưng chẳng có chút hy vọng. Những giọt nước mắt cậu ấy tuôn rơi khi cánh cửa bằng đá được đóng sập lại, một lần nữa lại nhốt cậu ấy trong bóng tối le lói ánh đuốc hôi hám trong hang của Cyclops
Tôi tỉnh giấc khi tiếng chuông báo động réo vang khắp tàu
Giọng thuyền trưởng khá gay gắt. “Tất cả lên boong đi! Quý cô Clairisse đang tìm! Cô gái đó đâu rồi?”
Tiếp đó gương mặt ma quái của gã xuất hiện ngay bên trên tôi. “Dậy đi, đồ Yankee. Các bạn mày đã lên trên rồi. Chúng ta đang đến gần lối vào.”
“Lối vào nào?”
Gã trưng ra nụ cười của bộ xương khô. “Dĩ nhiên là Biển Quái Vật rồi.”
Tôi nhét một số đồ dùng cá nhân – những thứ còn sót lại sau cuộc chiến với con rắn nhiều đầu đó – vào một cái ba lô vải bạt của thủy thủy và khoác qua vai. Tôi có một ngờ vực thầm kín rằng bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ không trải qua thêm một đêm nào nữa trên con tàu C.S.S Birminham này.
Lúc đang đi lên tầng trên thì một thứ gì đó làm tôi đông cứng lại. Nhân ảnh của một người đang đứng gần đó – rất quen thuộc và khó chịu. Không vì lý do gì đặc biệt nhưng tôi cảm thấy mình đang rất muốn đánh nhau. Tôi muốn đấm một gã lính Quân Liên minh đã chết. Lần cuối cùng tôi thấy kiểu giận dữ như vậy....
Thay vào việc đi lên tiếp, tôi lẻn đến bên lỗ thông hơi và nhìn xuống boong có chứa nồi hơi
Clarisse đứng ngay phía bên dưới tôi, đang nói chuyện với một hình ảnh lung linh trong đám hơi nước bốc ra từ các nồi hơi. Đó là một người đàn ông cơ bắp mặc bộ đồ da màu đen dành cho những người đi mô-tô, mái tóc cắt ngắn kiểu lính, cặp kính mát nhuộm sắc đỏ và một con dao cột bên người.
Tôi siết chặt nắm đấm. Đó là vị thần trên đỉnh Olympus mà tôi không ưa nhất: Ares- thần chiến tranh.
“Ta không muốn những lời xin lỗi, con gái bé nhỏ à!” ông ta càu nhàu.
“V-vâng, thưa Cha,” Clarisse lầm bầm.
“Con không muốn nhìn thấy ta tức giận, phải không?”
“Không ạ, thưa Cha.”
“Không, thưa Cha”. Thần Ares bắt chước. “Con lâm ly thật đấy. Lẽ ra ta nên để cho một trong số các con trai ta tham gia cuộc tìm kiếm này mới đúng.”
“Con sẽ thành công!” Clarisse hứa. Giọng cô ấy rất run. “Con sẽ làm cha tự hào.”
“Tốt hơn hết con nên làm thế,” ông ta cảnh báo. “Con xin ta cuộc tìm kiếm này, con gái à. Nếu con để cho thằng nhãi Jackson cướp được nó từ con thì...”
“Nhưng Lời Sấm Truyền đã nói...”
“TA KHÔNG QUAN TM NÓ NÓI GÌ!” Ares rống lên với sức mạnh khiến hình ảnh của ông ta dường như mờ đi. “Con sẽ thành công. Và nếu con không...”
Ông ta đưa nắm đấm lên. Mặc dù ông ta chỉ là một hình bóng trong hơi nước. Clarisse lưỡng lự.
“Chúng ta đã hiểu nhau chưa nhỉ?” thần Ares gầm gừ.
Tiếng chuông báo động lại vang lên. Tôi nghe thấy những tiếng nói đi về phía mình. Các sĩ quan hạ lệnh chuẩn bị sẵn sàng súng đại bác.
Tôi trườn trở lại từ lỗ thông hơi và lên phía trên để gia nhập cùng Annabeth và Tyson trên boong tàu.
“Có gì không ổn à?” Annabeth hỏi tôi. “Một giấc mơ khác chăng?”
Tôi gật đầu nhưng không nói thêm gì. Tôi không biết phải nghĩ gì về những gì tôi nhìn thấy bên dưới kia. Nó khiến tôi lo lắng chẳng kém giấc mơ về Grover.
Clarisse lên boong ngay sau tôi. Tôi cố gắng không nhìn cô ta.
Cô ta chộp lấy một cặp ống nhòm từ một sĩ quan thây ma và ngắm về đường chân trời. “Cuối cùng cũng đến. Thuyền trưởng, tăng hết tốc lực nhé!”
Tôi nhìn về cũng hướng cô ta nhìn nhưng không thể thấy được gì nhiều. Bầu trời đầy mây. Không khí mù sương và ẩm ướt, giống như hơi nước bốc lên từ sắt. Nếu tôi nheo mắt nhìn kĩ, tôi chỉ có thể thấy được hai chấm đen nhờ nhạt ở phía xa xa.
Giác quan hàng hải của tôi mách bảo với tôi rằng chúng tôi đang ở đâu đó cách bờ biển phía nam Florida. Thế là chúng tôi đã đi được một quãng đường rất dài chỉ trong một đêm, xa hơn bất kỳ chuyến tàu nào của người thường có thể đi được.
Tiếng động cơ kĩu kịt khi con tàu được tăng tốc.
Tyson lẩm bẩm đầy lo lắng. “Các pit-tông bị căng quá sức. Không tốt khi đi vào vùng nước sâu.”
Tôi không chắc làm thế nào cậu ấy có thể biết được điều đó, nhưng nó làm tôi lo ngại.
Hơn vài phút sau, các chấm bẩn đen ở phía trước chúng tôi xuất hiện rõ ràng hơn. Ở phía bắc, một bãi đá lớn nổi lên lan ra phía ngoài biển – một hòn đảo với những vách đá cao ít nhất ba mươi mét. Chừng nửa dặm về phía nam, một mảng đen sì của cơn dông đang kéo tới. Bầu trời và biển cùng nhau sục sôi trong tiếng gầm vang.
“Bão phải không?” Annabeth băn khoăn.
“Không phải,” Clarisse đáp. “Xoáy nước Charybdis đấy.”
Annabeth tái nhợt. “Cậu điên à?”
“Cách duy nhất vào được Biển Quái Vật. Xông thẳng vào giữa xoáy nước Charybdis với bà chị Scylla (1) của cô ta.” Clarisse chỉ lên đỉnh các vách đá. Và tôi cảm giác có thứ gì đó sống trên đó và tôi không muốn gặp. Tôi như tách bộ não mình ra, cố để nhớ lại về chuyện thần thoại về Biển Quái Vật.
(1) Scylla và Charybdis là hai con thủy quái trong thần thoại Hy Lạp nằm ở hai bên bờ eo biển Messina giữa Sicily và Italia. Charybdis là con gái của thần biển Possidon, nhưng sau khi bị Zeus trừng phạt vì đánh cắp đàn súc vật của Hercules, bị hóa thành thủy quái tạo thành những vũng nước xoáy. Scylla là thủy quái 6 đầu ăn thịt người. Tàu bè vượt qua eo biển này rất khó khăn vì đi quá về bên nào cũng bị nguy hiểm. (ND)
“Cậu có ý gì khi nói đó là con đường duy nhất?” tôi hỏi. “Đại dương khá rộng lớn. Chỉ cần đi vòng qua chúng là xong.”
Clarisse đảo mắt mình. “Cậu chẳng biết chút gì sao? Nếu ta cố đi vòng qua chúng, chúng sẽ lại xuất hiện trên đường ta đi. Nếu cậu muốn đi vào Biển Quái Vật, cậu phải đi xuyên qua chúng.”
“Thế còn Phiến đá Phiêu du thì sao?” Annabeth lo ngại. “Đó là một cánh cửa khác, Jason đã từng dùng nó.”
“Tớ không thể thổi bay những tảng đá đó bằng súng thần công,” Clarisse đáp. “Mặt khác, lũ quái vật...”
“Cậu điên thật rồi” Annabeth khẳng định.
“Nhìn và học hỏi này. Gái Khôn à!” Clarisse quay về phía thuyền trưởng. “Hãy sẵn sàng cho Charybdis!”
“Vâng thưa cô”
Động cơ lại kêu kĩu kịt, vỏ thuyền bằng sắt kêu lạch cạch và con tàu bắt đầu tăng tốc.
“Clarisse”, tôi nói. “Charybdis hút mọi thứ xuống đáy biển. Có phải câu chuyện như vậy không?”
“Và sau đó lại phun ra những gì nó hút vào, đúng vậy.”
“Còn về Scylla thì sao?”
“Cô ta sống trong một cái động, phía trên những vách đá kia. Nếu chúng ta tới quá gần, những chiếc đầu rắn của cô ta sẽ đi xuống và bắt đầu chộp lấy các thủy thủ ra khỏi tàu.”
“Vậy hãy chọn Scylla,” tôi đề nghị “Tất cả mọi người sẽ xuống bên dưới và chúng ta sẽ bắn vào cô ta khi thuyền chạy qua.”
“Không!” Clarisee khăng khăng. “Nếu Scylla không kiếm được mồi dễ dàng, cô ta sẽ chộp luôn cả con tàu. Hơn nữa, cô ta quá cao để trở thành một điểm bắn tốt. Đại bác của tớ không thể bắn thẳng lên được. Charybdis chỉ ngồi ở đó, chính giữa khu vực xoáy nước của cô ta. Chúng ta sẽ lái thẳng về phía cô ta, nhả đạn và bắn cô ta bay thẳng đến Tartarus!”
Clarisse nói điều đó một cách say mê làm tôi hầu như muốn tin vào cô ta.
Tiếng động cơ lại rền vang. Các nồi hơi được đốt nóng quá mức khiến tôi có cảm giác boong tàu đang nóng dần lên dưới chân mình. Khói cuồn cuộn bốc lên. Lá cờ đỏ của thần Ares bay phần phật trong gió.
Khi chúng tôi tới gần lũ quái vật, tiếng của Charybdis càng lớn hơn – một tiếng gầm ẩm ướt kinh khủng y hệt tiếng thụt nước của cái toilet lớn nhất trên dải ngân hà. Mỗi khi Charybdis hít vào, con tàu lắc mạnh và tròng trành tiến về phía trước. Mỗi lần cô ta thở ra, chúng tôi nổi lên trên mặt nước và bị vùi dập bởi những con sóng cao tới ba mét.
Tôi cố gắng tính toán giờ của xoáy nước. Gần với những gì tôi tính toán được, Charybdis mất khoảng ba phút để hút vào và phá hủy mọi thứ trong bán kính nửa dặm trên mặt biển. Để tránh được cô ta, chúng tôi phải đi men theo các vách đá của Scylla. Và cũng tệ như Scylla, những vách đá này cũng rất kinh khủng đối với tôi.
Những thủy thủ không thể nào chết được nữa bình tĩnh làm phần việc của mình ở phần cột buồm. Tôi đoán rằng họ đã tìm ra nguyên nhân thất bại trước đó nên điều này không khiến họ phiền lòng. Hoặc có thể họ không quan tâm tới việc bị tiêu diệt vì bản thân họ đã chết rồi. Cả hai điều đó chẳng làm tôi thấy khá hơn chút nào.
Annabeth đứng kế bên tôi, nắm chặt tay vịn. “Cậu vẫn còn chiếc bình đầy gió phải không?”
Tôi gật đầu. “Nhưng quá nguy hiểm nếu dùng với xoáy nước như vậy. Nhiều gió hơn chỉ khiến mọi thứ tồi tệ hơn mà thôi.”
“Thế khống chế dòng nước thì sao?” cô ấy hỏi. “Cậu là con trai của thần Poseidon mà. Cậu từng làm điều đó trước đây.”
Cô ấy nói đúng. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng làm biển dịu đi nhưng tôi không tài nào tập trung được. Charybdis quá ồn và quá mạnh. Những cơn sóng không đáp lại lời yêu cầu của tôi.
“T-tớ không thể làm được”, tôi nói một cách khổ sở.
“Chúng ta cần một kế hoạch dự phòng,” Annabeth gợi ý. “Việc này chẳng mang lại kết quả.”
“Annabeth đúng,” Tyson góp lời. “Động cơ không tốt.”
“Ý cậu là sao?” cô ấy lo lắng hỏi.
“Áp suất. Các pít tông cần được sửa chữa.”
Trước khi Tyson có thể giải thích, cái toilet khổng lồ được dội sạch với tiếng gầm cực lớn. Con tàu tròng trành tiến về phía trước và tôi bị ném lên boong. Chúng tôi đang ở trong xoáy nước.
“Quay thuyền lại!” Clarrisse thét lên trên tiếng ồn. Biển nổi sóng bao quanh chúng tôi, sóng biển đổ ầm xuống boong tàu. Vỏ thuyền bằng sắt nóng đến nỗi bốc hơi ngào ngạt. “Hãy đưa chúng ta vào tầm ngắm. Hãy chuẩn bị sẵn đại bác hai bên mạn tàu.”
Đội Quân Liên minh đã chết đó chạy ngược chạy xuôi trên boong tàu. Cái chân vịt ra sức quay ngược chiều, cố làm con tàu đi chậm lại, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục trượt về phía trung tâm của xoáy nước.
Một thủy thủ thây ma vọt ra từ hầm tàu và chạy về phía Clarisse. Bộ đồng phục xám của anh ta đang bốc khói. Bộ râu của anh ta đang cháy. “Khu nồi hơi bị quá nhiệt, thưa cô. Nó sắp nổ tung rồi.”
“Đi xuống đó và sửa đi nó đi!”
“Không thể được!” người thủy thủ hét lên. “Chúng tôi đang bốc hơi trong cái nóng”
Clarisse đấm vào một bên đại bác. “Tất cả những gì ta cần chỉ là thêm vài phút nữa. Vừa đủ để thuyền đi vào tầm bắn!”
“Chúng ta đang đi quá nhanh”, thuyền trưởng nói dứt khoát. “Hãy sẵn sàng đón nhận cái chết”
“Không!” Tyson kêu lên. “Tôi có thể sửa được.”
Clarisse nhìn cậu ấy đầy ngờ vực. “Mày ư?”
“Cậu ấy là một Cyclops,” Annabeth giải thích. “Cậu ấy miễn dịch với lửa. Và cậu ấy biết nhiều về cơ học.”
“Đi đi!” Clarisse giục giã
“Tyson, không!” Tôi túm lấy cánh tay cậu ấy. “Quá nguy hiểm!”
Cậu ấy vỗ nhẹ lên tay tôi. “Cách duy nhất, người anh em à”. Thái độ cậu ấy rất cương quyết, thậm chí còn tự tin nữa. Tôi chưa từng nhìn thấy cậu như thế trước đây. “Tớ sẽ sửa chúng. Và trở lại ngay mà.”
Tôi nhìn theo cậu ấy đi theo gã thủy thủ đang bốc khói, cùng bước xuống hầm, tôi có một cảm giác thật kinh khủng. Tôi muốn chạy theo sau cậu ấy nhưng con tàu lại lắc mạnh lần nữa và rồi tôi nhìn thấy Charybdis.
Charybdis xuất hiện cách chúng tôi chỉ vài trăm mét, qua một cuộn xoáy toàn sương mù, khói và nước. Thứ đầu tiên tôi nhận ra là đá ngầm – một vách núi san hô đen lởm chởm với một cây sung bám chặt ở trên đỉnh, một thứ hòa bình kỳ dị ở giữa một hồ nước xoáy. Xung quanh nó, nước vẫn đang uống cong thành hình cái phễu, giống như ánh sáng xoay quanh một chiếc hố đen. Tiếp đó tôi nhìn thấy một thứ thật kinh khủng bám chặt vào vách đá ngầm ở bên dưới ngấn nước – một cái miệng khổng lồ với cặp môi đầy nhớt, những chiếc răng phủ đầy rêu có kích thước to bằng những chiếc thuyền có mái chèo. Và tệ hơn hết... hàm răng này có trụ chống, những nẹp kim loại bị bào mòn và nổi váng với những mẩu cá, gỗ trôi dạt và những thứ rác rưởi trôi nổi bám vào chúng.
Charybdis là một cơn ác mộng cho các bác sĩ chỉnh răng. Cô ta không có hình dạng gì cả, chỉ là một cái dạ dày đen khổng lồ với một khối răng hư, và hàm trên thì nhô ra một cách trầm trọng so với hàm dưới. Cô ta đã không làm gì trong suốt nhiều thập kỷ ngoại trừ việc ăn mà không đánh răng sau những bữa ăn đó. Khi tôi nhìn thấy, toàn bộ vùng biển quanh cô ta đang bị hút vào một khoảng không – những con cá mập, các đàn cá, mực ống khổng lồ. Và tôi nhận ra rằng chỉ vài giây nữa thôi, con tàu C.S.S Birmingham sẽ là vật kế tiếp.
“Quý cô Clarisse,” thuyền trưởng hét to. “Các loại súng ở hai bên mạn tàu và phía trước đã sẵn sàng!”
“Bắn!” Clarisse ra lệnh
Ba phát đạn được bắn vào trong dạ dày con quái vật. Một viên đã thổi bay một mảng của chiếc răng cửa. Một phát nữa biến mất trong thực quản cô ta. Và phát thứ ba trúng vào các nẹp bảo vệ răng của Charybdis và bật ngược trở lại phía chúng tôi, thổi bảy lá cờ của thần Ares ra khỏi cột buồm.
“Tiếp tục!” Clarisse ra lệnh. Những tay súng lại nạp đạn. Nhưng tôi biết điều này không mấy có hy vọng. Nhưng tôi biết điều này không mấy có hy vọng. Chúng tôi phải nã thêm một trăm lần vào con quái vật mới thực sự mang lại bất cứ thương tích nào cho nó. Nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian như vậy. Chúng tôi đang bị hút rất nhanh vào đó.
Và rồi sự chuyển động của boong tàu đã thay đổi. Tiếng động cơ đã mạnh và đều hơn. Con tàu rung lên và chúng tôi bắt đầu tránh xa khỏi miệng hố.
“Tyson đã làm được rồi!” Annabeth reo lên.
“Gượm đã!” Clarisse kêu lên. “Chúng ta cần tiến đến gần!”
“Chúng ta sẽ chết!” tôi nói. “Chúng ta phải lùi ra xa khỏi nó.”
Tôi giữ chặt thanh vịn khi con tàu chống lại lực hút của xoáy nước. Lá cờ thần Ares bị gãy trôi vụt qua chúng tôi và mắc kẹt vào các trụ chống của Charybdis. Chúng tôi không có thêm tiến triển nào, nhưng ít nhất chúng tôi đã giữ được mạng sống. Tyson bằng cách nào đó đã cung cấp cho chúng tôi đủ năng lượng để giữ con tàu không bị hút vào.
Đột nhiên cái miệng bất ngờ khép lại. Biển cả hoàn toàn lặng sóng. Nước tràn khắp Charybdis.
Rồi sau đó cái miệng nhanh chóng được mở ra, phun ra một bức tường nước, tống ra những gì không thể ăn được như những viên đạn đại bác của chúng tôi. Một trong số đó nã vào một bên của C.S.S Birmingham với một tiếng DING như tiếng chuông kêu trong trò chơi ngày hội.
Chúng tôi bị ném về phía sau trên một con sóng phải cao tới mười lăm mét. Tôi đã dùng toàn bộ sức mạnh ý chí của mình để giữ cho con tàu khỏi bị lật úp, nhưng chúng tôi vẫn bị xoay tròn không thể kiểm soát được, đang đâm đầu về phía cách vách đá ở eo biển đối diện.
Một thủy thủ bốc khói khác lao ra từ tầng hầm. Anh ta đâm bổ về phía Clarisse, suýt làm cả hai rơi ra khỏi boong. “Động cơ sắp nổ!”
“Tyson đâu?” tôi hỏi
“Vẫn ở dưới đó”, viên thủy thủ đáp. “Bằng cách nào đó đang gắng làm cho các động cơ hoạt động, mặc dù tôi không biết có thể được bao lâu.”
Thuyền trưởng nói. “Chúng ta phải bỏ tàu thôi.”
“Không!” Clarisse hét lên
“Chúng ta không còn lựa chọn nào khác, thưa quý cô. Thân tàu sắp nứt ra làm đôi! Nó không thể...”
Viên thuyền trưởng còn nói chưa hết câu. Nhanh như chớp, một thứ gì đó màu nâu và xanh bay thẳng từ trên trời xuống, chộp lấy gã thuyền trưởng và mang ông ta đi. Tất cả những gì còn lại là đôi bốt da của ông ta.
“Scylla đấy!” Một thủy thủ kêu toáng lên, khi một khối bò sát phóng ra từ phía trên các vách đá và chộp lấy anh ta. Sự việc xảy ra quá nhanh như thể chúng tôi đang nhìn thấy một chùm tia laser hơn là một con quái vật. Tôi thậm chí không nhìn thấy được gương mặt của thứ đó... chỉ là hình ảnh thoáng qua của một bộ răng và vảy.
Tôi mở nắp cây Thủy Triều và cố gắng chém vào con quái vật khi nó bắt thêm một thủy thủ làm việc trên boong khác, nhưng tôi đã quá chậm.
“Tất cả mọi người xuống hết dưới đi!” tôi hét to.
“Chúng ta không thể!” Clarisse rút kiếm ra. “Khoang dưới đang cháy.”
“Thuyền cứu sinh!” Annabeth giục giã. “Nhanh lên!”
“Chúng sẽ không tránh khỏi các vách đá đâu” Clarisse nói. “Chúng ta sẽ bị ăn thịt mất”
“Chúng ta phải thử thôi. Percy, cái bình.”
“Tớ không thể bỏ Tyson lại.”
“Chúng ta phải chuẩn bị cho thuyền sẵn sàng nào!”
Clarisse nghe theo lời khuyên của Annabeth. Cô ấy và một vài thủy thủ còn sống tháo phần che của một trong số hai chiếc thuyền cứu sinh ra trong khi những cái đầu của Scylala từ trên trời trút xuống như một cơn mưa sao băng đầy răng, bắt đi lần lượt hết người này đến người khác trong đám thủy thủ của Quân Liên minh.
“Lấy con thuyền khác đi”, tôi ném cho Annabeth chiếc bình. “Tớ đi tìm Tyson.”
“Cậu không thể,” Annabeth van nài. “Ngọn lửa sẽ giết cậu chết mất.”
Tôi không nghe. Tôi chạy tới cửa của khu nồi hơi rồi đột nhiên bàn chân tôi không còn chạm vào sàn tàu nữa.
Tôi đang bay thẳng lên, tiếng gió gào rít bên tai tôi, vách của các vách đá chỉ cách mặt tôi có vài inches.
Không rõ bằng cách nào cái đầu của Scylla đã túm được tôi qua chiếc balô và đưa tôi về phía động của cô ta. Không cần nghĩ ngợi, tôi vung thanh kiếm ra phía sau và đâm mạnh vào đôi mắt to tròn màu vàng. Nó kêu lên và thả tôi xuống.
Điều này thật tệ, có lẽ tôi rơi từ độ cao ba mươi mét trong không khí. Nhưng, khi tôi rơi xuống, con tàu C.S.S Birmingham nổ tung bên dưới tôi.
KAROOM!
Buồng máy nổ tung, gửi những mảnh sắt bắn tung theo các hướng như một đôi cánh đang bốc cháy.
“Tyson!” tôi hét lên.
Những con thuyền cứu sinh đã sẵn sàng rời tàu nhưng chẳng cách xa mấy. Các mảnh vụn của con thuyền bốc cháy đang trút xuống như mưa. Clarisse và Annabeth sẽ có thể bị đè bẹp, đốt cháy hoặc bị kéo xuống đáy bởi lực của thân tàu đang chìm, đó là cách suy nghĩ lạc quan nếu họ thoát khỏi Scylla.
Rồi tôi nghe thấy một tiếng nổ khác – âm thanh của chiếc bình phép thuật của thần Hermes đang được mở cách đó không xa lắm. Những dải gió trắng xuất hiện ở các hướng, đẩy các thuyển cứu sinh đi, nâng tôi lên khỏi cái rơi tự do và đẩy tôi băng qua đại dương
Tôi không thể nhìn thấy thứ gì. Tôi xoay vòng trong không trung, bị một thứ gì đó rất cứng đập mạnh vào đầu và đâm sầm xuống mặt nước với cú đáp có thể làm gãy tất cả xương trên người tôi nếu tôi không phải là con trai thần Biển.
Điều cuối cùng mà tôi còn nhớ là tôi đang chìm xuống vùng biển đang cháy rực, và biết rằng Tyson đã ra đi mãi mãi. Tôi ước mình cho thể chết đuối luôn cho xong.