Mấy ngày tiếp đó đúng như tra tấn, y hệt như những gì Tantalus muốn.
Đầu tiên là Tyson chuyển vào sống trong khu nhà thần Poseidon. Cứ mười lăm giây, cậu ấy lại tự cười khúc khích và hỏi, “Percy là anh trai mình sao?” như thể vừa trúng xổ số vậy.
“Này, Tyson,” tôi nói, “Việc đó không đơn giản như thế đâu.”
Nhưng không thể giải thích được điều này cho cậu ấy. Cậu ấy đang ở trên thiên đường. Và tôi… cũng nhiều như việc tôi thích chàng trai to lớn này, tôi không thể không cảm thấy ngượng ngập. Xấu hổ. Đấy, tôi đã nói ra rồi đó.
Cha tôi, vị thần Poseidon đầy uy quyền, đã để mắt tới vài linh thể tự nhiên và Tyson là kết quả. Ý tôi là tôi đã đọc những chuyện thần thoại về Cyclops. Thậm chí tôi còn nhớ rằng họ luôn là con của thần Poseidon. Nhưng tôi chưa thực sự nghĩ tới việc họ lại trở thành gia đình tôi. Mãi cho tới khi tôi có Tyson sống chung ở chiếc giường kế bên.
Và sau đó là những lời bàn tán của các trại viên khác. Đột nhiên tôi không còn là Percy Jackson - một anh chàng tuyệt vời, người đã tìm được tia chớp cho thần Zeus vào hè năm ngoái. Giờ đây, tôi chỉ là Percy Jackson - một gã đáng thương với người anh em là con quái vật xấu xí.
“Cậu ấy không phải là anh em thực sự của mình!” Tôi phải đối khi Tyson không có ở đó. “Cậu ấy giống anh em cùng cha khác mẹ hơn trong sự to lớn của gia đình… Giống… một người anh em cùng cha khác mẹ nhưng khác biệt gấp hai lần vậy đó, hoặc đại khái như thế.”
Không ai chấp nhận lời giải thích của tôi.
Tôi thừa nhận - tôi rất giận cha mình. Tôi cảm thấy việc trở thành con trai ông giờ đây như một trò cười.
Annabeth cố giúp tôi cảm thấy tốt hơn. Cô ấy gợi ý rằng cả hai cùng nhau lập thàng một đội trong cuộc đua ngựa sắp tới để giúp chúng tôi thoát khỏi suy nghĩ về các rắc rối của chúng tôi. Đừng hiểu sai ý tôi - cả hai chúng tôi đều ghét Tantalus và lo lắng tới phát ốm về chuyện của trại - nhưng chúng tôi không biết phải làm gì. Cho đến khi chúng tôi có thể nghĩ ra một vài kế hoạch xuất sắc để cứu cây Thalia, chúng tôi hiểu là chúng tôi sẽ phải theo đuổi cuộc đua này. Xét cho cùng, mẹ của Annabeth là nữ thần Athena, người đã phát minh ra cỗ xe ngựa và cha tôi là người tạo ra loài ngựa. Cùng nhau chúng tôi sẽ làm chủ đường đua đó.
***
Một buổi sáng nọ, khi Annabeth và tôi đang đứng bên bờ hồ để vẽ phác thảo cho cỗ xe ngựa đua thì đám rỗi hơi từ khu nhà thần Aphrodite đi ngang và hỏi tôi có cần mượn nhũ mắt không… “Ôi, xin lỗi, đôi mắt.”
Khi chúng bỏ đi và cười ngặt nghẽo, Annabeth cằn nhằn: “Quên bọn nó đi, Percy. Đó không phải là lỗi tại cậu khi cậu có một người anh em là quái vật như vậy.”
“Cậu ta không phải là anh em của mình!” tôi cãi lại. “Và cậu ấy cũng không phải là con quái vật!”
Annbeth nhướng mày. “Này, đừng có cáu với tớ. Về mặt ngữ nghĩa, cậu ta là quái vật.”
“Hừm cậu cho phép cậu ta vào trại mà.”
“Vì đó là cách duy nhất để cứu sống cậu! Ý tớ là… tớ xin lỗi, Percy. Tớ không nghĩ rằng thần Poseidon thừa nhận cậu ấy. Bọn người Cyclops là loại xảo trá và bội bạc nhất…”
“Cậu ấy không phải như vậy. Mà nhân tiện, điều gì khiến cậu luôn chống đối với người Cyclops thế nhỉ?”
Tai của Annabeth chuyển thành màu hồng lựng. Tôi cảm giác cô ấy giấu tôi điều gì đó - điều gì đó thật tệ hại.
“Quên nó đi,” cô ấy nói, “Bây giờ trục của xe ngựa…”
“Cậu đối xử với cậu ấy như thể cậu ấy là cái gì kinh khủng lắm,” tôi nói. “Cậu ấy đã cứu sống tớ.”
Annabeth nắm cây bút chì xuống và đứng lên. “Vậy có lẽ cậu nên thiết kế cái xe ngựa với cậu ấy.”
“Có thể tớ sẽ làm vậy.”
“Tốt thôi!”
“Ừ, tốt!”
Cô ấy đùng đùng bỏ đi, để lại tôi đứng đó với cảm giác còn tồi tệ hơn cả trước đó.
Mấy ngày sau, tôi cố gắng gạt hết suy nghĩ ra khỏi những rắc rối tôi gặp phải.
Silena Beauregared, một trong những cô gái xinh đẹp trong khu nhà thần Aphrodite, đã dạy cho tôi bài cưỡi ngựa đầu tiên. Cô ta giải thích rằng chỉ có một con ngựa có cánh bất tử duy nhất được đặt tên là Pegasus, vẫn đang thơ thẩn tự do ở đâu đó trên trời, nhưng qua nhiều thời đại, nó sinh được rất nhiều con. Tuy chúng không chạy rất nhanh hoặc quả cảm, nhưng tất cả đều được đặt theo tên con của Pegasus đầu tiên và đều rất tuyệt.
Là con trai của thần biển, tôi chưa bao giờ thích đi trong không trung. Cha tôi có sự tị hiềm với thần Zeus nên tôi cố gắng không xâm lấn vào lãnh địa trên trời của ông ta càng nhiều càng tốt. Nhưng cưỡi ngựa biết bay lại cảm thấy rất khác lạ. Nó không làm tôi lo lắng như khi ngồi trên máy bay. Có lẽ do cha tôi đã tạo ra loài ngựa từ những bọt biển. Vì thế những con ngựa này là một dạng… lãnh thổ trung lập. Tôi có thể hiểu được suy nghĩ của chúng. Tôi không ngạc nhiên khi con ngựa có cánh của mình phi nước đại băng qua các ngọn cây hoặc đuổi theo một bầy mòng biển trong đám mây.
Vấn đề ở chỗ là Tyson cũng muốn cưỡi lên lũ “gà con” này, nhưng con ngựa bay luôn lồng lên mỗi khi cậu ấy tiến đến gần nó. Tôi đã sử dụng khả năng ngoại cảm để nói với chúng rằng Tyson không hề làm đau chúng, nhưng xem ra chúng vẫn không tin tôi. Điều đó khiến Tyson phải bật khóc.
Người duy nhất trong trại không có vấn đề gì với Tyson là Beckendorf ở khu nhà thần Hephaestus. Thần thợ rèn này luôn làm việc với Cyclops trong lò rèn nên Beckendorf dẫn Tyson xuống xưởng đúc vũ khí để dạy cho cậu ấy những công việc liên quan tới kim loại. Cậu ta nói sẽ giúp Tyson trở thành một bậc thầy ngay lập tức trong lĩnh vực làm những đồ vật có phép thuật bằng tay.
Sau bữa trưa, tôi luyện tập thể lực trong đấu trường cùng nhà thần Apollo. Đấu kiếm luôn là thế mạnh của tôi. Mọi người nói rằng tôi đã giỏi hơn bất kỳ trại viên nào trong vòng một trăm năm qua, trừ Luke. Mọi người luôn so sánh tôi với Luke.
Tôi đánh bại nhà thần Apollo thật dễ dàng. Tôi nên tự kiểm tra mình bằng việc chiến đấu với nhà thần Ares và thần Athena, vì họ có những tay kiếm tốt nhất. Nhưng tôi không ăn cánh với Clarisse và đám chị em ruột của cô ta. Và sau vụ cãi cọ với Annabeth, tôi không muốn gặp lại cô ấy một tí nào cả.
Tôi tới lớp bắn cung mặc dầu tôi rất tệ môn đó, và nó không còn như cũ khi thiếu đi sự chỉ dạy của bác Chiron. Trong lớp mỹ thuật và thủ công, tôi bắt đầu làm tượng thần Poseidon bán thân bằng đá cẩm thạch, nhưng vì nó dần trở nên giống Sylvester Stanllone nên tôi phá hỏng nó. Tôi đặt mức động đất và trào dung nham cho bức tường leo núi. Vào các buổi tối, tôi đi tuần tra dọc đường ranh giới. Thậm chí dù Tantalus cứ khăng khăng ép chúng tôi phải quên việc bảo vệ trại, nhưng một số trại viên vẫn lặng lẽ thực hiện việc đó, vạch ra một lịch trình cụ thể suốt thời gian rỗi của chúng tôi.
Tôi đứng trên đỉnh Đồi Con Lai và nhìn các nữ thần cây đến rồi đi, hát với cây thông đã chết. Các thần rừng đã mang những ống sáo và chơi những ca khúc kỳ diệu về cỏ thiên nhiên, trong giây lát những chiếc lá thông trở nên thẫm màu hơn. Những đóa hoa trên đồi như thơm hơn và cỏ non nom xanh hơn. Nhưng ngay khi tiếng nhạc ngừng lại, sự suy yếu lại tái hiện lại trong không khí. Cả quả đồi như bị tấn công, mòn mỏi bởi thứ chất độc đã ngấm vào các rễ cây. Tôi càng đứng đó lâu, nỗi giận dữ trong tôi càng tăng.
Luke đã làm điều này. Tôi còn nhớ nụ cười quỷ quyệt và vết sẹo hình vuốt rồng chạy qua mặt anh ấy. Anh ấy từng giả vờ là bạn tôi và trong suốt thời gian đó, anh ấy làm người hầu số một của Kronos.
Tôi giở lòng bàn tay ra. Vết sẹo mà Luke gây ra cho tôi từ hè năm ngoái đang mờ dần. Nhưng tôi vẫn có thể nhìn thấy nó - một vết thương hình một ngôi sao trắng nơi con bọ cạp địa ngục của anh ấy đã chích tôi.
Tôi đã nghĩ tới điều mà Luke đã nói với tôi trước khi anh ấy định giết tôi: Tạm biệt, Percy. Một Thời Đại Vàng mới đang đến. Ngươi không có phần trong đó.
***
Tối đến, tôi mơ nhiều hơn về Grover. Đôi khi, tôi chỉ nghe thấy tiếng nói ngắt đoạn của cậu ấy. Một lần, tôi nghe thấy cậu ấy nói, Nó ở đây. Lúc khác, lại là, Hắn ta thích cừu.
Tôi cũng định kể những giấc mơ này cho Annabeth nhưng tôi thấy chúng có phần ngu ngốc. Ý tôi là, Hắn ta thích cừu? Cô ấy sẽ nghĩ tôi điên mất.
Vào đêm trước cuộc đua, Tyson và tôi đã hoàn tất xe ngựa. Nom nó khá chắc chắn. Tyson đã làm các phần bằng kim loại trong lò rèn vũ khí. Tôi đánh bóng phần gỗ và lắp phần đuôi xe vào. Nó có màu xanh da trời và màu trắng, cùng các hình lượn sóng ở hai bên hông và hình một cây đinh ba ở phía trước. Xét cho cùng thì nó cũng hoạt động được, nhưng chỉ có vấn đề tế nhị là, Tyson sẽ cưỡi cỗ xe cùng với tôi, mặc dù tôi biết lũ ngựa không hề thích như vậy. Và trọng lượn quá tải của Tyson sẽ khiến chúng tôi đi chậm hơn.
Khi chúng tôi quay về giường, Tyson bỗng hỏi, “Cậu đang giận sao?”
Tôi nhận thấy mình đang cau có, “Không, tớ không sao”.
Cậu ấy nằm trên giường và im lặng trong bóng tối. Thân hình cậu ấy quá dài so với chiếc giường. Khi cậu ấy kéo chăn lên, chân cậu ấy luôn thò ra bên dưới. “Tớ là một con quái vật”.
“Đừng nói vậy.”
“Không sao đâu. Tớ sẽ là một con quái vật tử tế. Vì thế cậu sẽ không phải nổi giận nữa.
Tôi không biết phải nói gì. Tôi nhìn chòng chọc lên trần nhà và cảm thấy mình đang chết từ từ, cùng với cái cây của Thalia.
“Chỉ là…Tớ chưa từng có người anh em cùng cha khác mẹ nào trước kia cả.” Tôi cố giữ cho giọng mình không bị đứt quãng. “Điều này hoàn toàn lạ lẫm đối với tớ. Và tớ lo lắng về trại. Một người bạn khác của tớ là Grover… đang gặp rắc rối. Tớ thấy mình cần phải làm gì đó để giúp cậu ấy, nhưng tớ không biết cụ thể là làm gì.”
Tyson không nói gì.
“Tớ xin lỗi,” tôi nói với cậu ấy. “Đó không phải lỗi của cậu. Tớ tức giận thần Poseidon. Tớ có cảm giác ông ấy đang cố làm tớ phải xấu hổ, như thể ông ấy đang cố gắng so sánh hai chúng ta hoặc điều gì đó tương tự thế. Và tớ không biết tại sao lại như thế.”
Tôi nghe thấy một âm thanh sâu, đùng đục. Tyson đang ngáy.
Tôi thở dài, “Ngủ ngon nhé, người anh em to lớn.
Và tôi cũng nhắm mắt.
Trong giấc mơ của tôi. Grover đang mặc một bộ đầm cưới.
Nom bộ đồ không vừa với cậu ấy lắm. Chiếc đầm cưới quá dài và đường viền bị đóng lại cùng bùn khô. Đường viên cổ trễ như rớt xuống tật vai. Một cái mạng rách phủ lên mặt cậu ấy.
Cậu ấy đang đứng trong một cái động ẩm ướt được soi sáng bởi những bó đuốc. Có một cái giường nhỏ nơi góc động và một khung cửi kiểu cũ năm ở góc còn lại. Một tấm vải trắng đang được dệt dở trên khung. Và cậu ấy đang nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là một chương trình truyện hình mà cậu ấy đang chờ đợi. “Tạ ơn các thần!” cậu ấy kêu lên, “Cậu có nghe thấy mình không?”
Phiên bản chính tôi trong giấc mơ phản ứng quá chậm. Tôi vẫn đang nhìn quanh, mơ màng nhìn lên trần nhà nhũ đá, mùi hôi thối của cừu và dê, những tiếng rền rĩ, lầm bầm và tiếng be be như dội lại từ phía sau một tảng đá có kích cỡ giống cái tủ lạnh. Đó cũng là thứ đang bít cái cửa ra vào duy nhất của căn phòng, mặc dù đó là một cái hang rộng hơn ở xa nó.
“Percy?” Grover gọi váng. “Xin cậu đấy, tớ không đủ sức để diễn đạt mọi việc được rõ ràng hơn nữa đâu. Cậu phải nghe tớ nói đấy!”
“Tớ đang nghe cậu đây,” tôi nói. “Grover, chuyện gì đang xảy ra thế?”
Từ phía sau vách đá, một tiếng nói gớm ghiếc vọng ra, “Bánh mật ong ơi! Em đã làm xong chưa vậy?”
Grover ngần ngữ. Cậu ấy đáp bằng giọng the thé. “Chưa xong hẳn đâu anh yêu. Phải thêm mấy ngày nữa cơ!”
“Ối chà! Lẽ nào hai tuần rồi mà chưa xong?”
“C-chưa đâu, anh yêu. Chỉ mới năm ngày thôi. Còn thêm mười hai ngày nữa mới đủ hai tuần.”
Con quái vật kia im lặng, có lẽ đang cố làm các phép toán. Nó chắc cũng học kém môn số học như tôi, vì sao đó nó đáp trả, “Được thôi, nhưng phải nhanh đấy. Anh muốn NHI-I-Ì-I-N thấy bên dưới mạng che mặt cơ, heh-heh-heh.”
Grover quay lại với tôi. “Cậu phải giúp tớ. Không còn thời gian đâu! Tớ bị kẹt trong cái hang này. Ở một hòn đảo trên biển.”
“Ở đâu?”
“Tớ không biết chính xác! Tớ tới Florida và rẽ trái.”
“Cái gì? Làm thế nào cậu…”
“Đó là một cái bẫy!” Grover đáp. “Đó là lý do tại sao không một thần rừng nào có thể trở về từ cuộc tìm kiếm đó. Hắn ta là kẻ chăn cừu, Percy à! Và hắn ta có nó. Phép thuật tự nhiên của nó quá mạnh khiến nó có mùi giống với mì của thần Pan(1) vĩ đại. Các thần rừng tới đây đều nghĩ rằng mình đã tìm ra được thần Pan. Họ đã bị mắc bẫy và bị Polyphemus ăn thịt!”
_____________________________
(1) Thần Pan là con trai của thần Hermes, vị thần sứ giả loan tin của các thần trên Đỉnh Olympus và tiên nữ Driope. Khi sinh con ra, các tiên nữ thấy đứa bé có hình thù quái dị nửa người nửa dê bèn bỏ chạy. Tuy nhiên, thần Hermes rất mừng vì có một đứa con trai, thần bế đứa bé lên Olympus nhờ các thần nuôi giúp. Lớn lên, thần Pan xuống trần bảo vệ những đàn gia súc của những người mục đồng, hộ vệ những tay thợ săn. Tuy bộ dạng khó coi nhưng tính tình của thần Pan vui vẻ, cởi mở. (ND)
“Poly nào cơ?”
“Người Cyclops ấy!” Grover đáp, giọng đầy cáu kỉnh “Tớ suýt trốn thoát được. Tớ đã chạy được đến phố St Augustine.”
“Nhưng hắn đã đuổi theo cậu,” tôi nói và nhớ lại giấc mơ đầu tiên. “Và bẫy cậu trong một tiệm đồ cưới!”
“Đúng vậy.” Grover đáp. “Sợi dây linh cảm đầu tiên của tớ chắc chắn đã hoạt động từ đó. Nhìn xem, bộ đầm cô dâu này là thứ duy nhất khiến tớ sống sót. Hắn khĩ rằng tớ có mùi ngon lành nhưng tớ đã nói rằng đó chỉ là nước hoa có mùi dê mà thôi. Ơn trời, hắn nhìn cũng không được tốt lắm. Mắt hắn đã mù dở kể từ lần cuối có ai đó đã chọc vào đó. Nhưng chẳng mấy chốc, hắn sẽ nhận ra tớ là cái gì. Hắn chỉ cho tớ hai tuần để hoàn thành cái đuôi của chiếc áo cưới và hắn đang mất kiên nhẫn”.
“Chờ một phút. Gã Cyclops này nghĩ cậu là…”
“Đúng thế!” Grover rền rĩ. “Hắn nghĩ rằng tớ là quý bà Cyclops và muốn cưới tớ.
Trong các hoàn cảnh khác, tôi có thể sẽ cười đến vỡ bụng, nhưng giọng của Grover hoàn toàn thành thật. Cậu ấy đang run rẩy trong sợ hãi.
“Tớ sẽ tới giải cứu cậu,” tôi hứa. “Cậu đang ở đâu?”
“Biển Quái vật, tất nhiên!”
“Biển gì cơ?”
“Tớ đã nói với cậu rồi mà. Tớ không biết chính xác ở đâu! Nghe này, Percy… ừm, tớ thực sự xin lỗi về điều này, nhưng sợi dây linh cảm này… ừ, tớ không có sự lựa chọn nào khác. Cảm xúc của chúng ta giờ đây đã kết nối với nhau. Nếu tớ chết…”
“Đừng nói là tớ cũng sẽ chết theo nhé!”
“Ồ, có lẽ là không đâu. Cậu có thể sống trong nhiều năm với đời sống thực vật. Nhưng, ừ, có thể sẽ tốt hơn nếu cậu đưa tớ thoát ra khỏi đây.”
“Bánh mật ong của anh ơi!” con quái vật kia lại kêu rống lên. “Tới giờ ăn tối rồi. Ngon tuyệt, thịt cừu ngon tuyệt!”
Grover thút thít. “Tớ phải đi đâu. Cậu nhanh lên nhé!”
“Gượm đã, cậu nói ‘nó’ đã ở đây. ‘Nó’ là cái gì thế?”
Nhưng giọng nói của Grover đã trở nên không rõ. “Ngủ ngon. Đừng để tớ phải chết!”
Giấc mơ tan biến dần và tôi giật mình thức dậy. Trời đã rạng sáng. Tyson đang nhìn tôi chòng chọc. Con mắt lớn màu nâu duy nhất của cậu ấy đầy lo lắng.
“Cậu ổn chứ?” Tyson hỏi.
Giọng cậu ấy khiến tôi ớn lạnh sống lưng vì nó hầu như giống tuyệt đối giọng của con quái vật mà tôi nghe thấy trong mơ.
Buổi sáng diễn ra cuộc đua rất nóng và ấm ướt. Sương mù la đà trên mặt đất như thể hơi nước mát xa xông lên. Hàng triệu con chim đang đậu trên cây. Đó là những con bồ câu màu xám trắng và béo múp, chỉ khác mỗi giọng gù gù của chúng không giống lũ bồ câu thường. Chúng tạo ra những tiếng rít như kim loại, nhắc nhở tôi nhớ tới sóng rađa của tàu ngầm.
Đường đua được dựng ngay trên một cánh đồng cỏ nằm giữa khi vực bắn cung với khu rừng. Đám con cái nhà thần Hephaetus dùng những con bò bằng đồng để cày một đường hình oval trong vài phút. Đây là lũ bò đã được thuần hóa hoàn toàn kể từ khi đầu chúng bị đập mạnh.
Có những hang bậc đá cho khán giả là Tantalus, thần rừng, vài nữ thần cây và tất cả những trại viên không tham gia cuộc đua. Ngài D. vẫn chưa xuất hiện. Ông không bao giờ thức dậy trước mười giờ.
“Được rồi!” Tantalus loan báo khi các đội bắt đầu tập hợp. Một nữ thủy thần mang tới cho ông ta một cái đĩa gỗ lớn đầy bánh ngọt. Và khi Tantalus nói, cánh tay phải của ông ta vẫn đuổi theo một miếng bánh kem phủ socola băng qua bàn trọng tài. “Tất cả các ngươi đều biết luật rồi đó. Một cuộc đua một phần tư dặm. Chạy hai vòng sẽ thắng. Mỗi xe hai ngựa. Mỗi đội cần giữ nguyên một người điều khiển xe và một người chiến đấu. Được phép sử dụng vũ khí. Chấp nhận những trò bẩn thịu. Nhưng không được giết người!” Tantalus cười như thể chúng tôi là những đứa trẻ hư. “Bất kỳ việc giếc chóc nào cũng sẽ bị trừng phạt khắt khe. Sẽ không có món s’more(1) vào giờ lửa trại trong vòng một tuần! Giờ hãy sẵn sàng cho cuộc đua!”
____________________
(1) Món ăn phổ biến được dung trong các đêm lửa trại Mỹ và Canada. Nó bao gồm kẹo marshmallow và một thanh sô-cô-la kẹp giữa hai miếng bánh quy Graham, sau đó được nướng trên lửa (ND)
Backendorf dẫn đầu đội Hephaetus vào đường đua. Họ có một cỗ xe làm từ đồng và sắt thật tuyệt – thậm chí cả ngựa của họ cũng là những cỗ máy phép thuật giống như những con bò Colchis. Tôi không nghi ngờ việc Beckendorf đã lắp đặt tất cả các loại bẫy cơ học vào làm cho cỗ xe của họ có nhiều chức năng hơn cả một chiếc xe đua hiệu Maserati.
Cỗ xe của nhà thần Ares có màu đỏ như máu và được kéo bởi hai bộ xương ngựa nom khá rùng rợn. Clarisse trèo lên trước với một đống lao, bóng có gai nhọn, chông sắt và một mớ đồ nguy hiểm khác.
Cỗ xe của nhà thần Apollo lại ngăn nắp, duyên dáng, và hoàn toàn được làm bằng vàng, do hai con ngựa màu vàng có bờm và đuôi màu sáng tuyệt đẹp kéo đi. Người chiến đấu của họ được trang bị một cây cung, mặc dù anh ta đã hứa không bắn những mũi tên vót nhọn thông thường vào những đối phương.
Cỗ xe của nhà thần Hermes mang màu xanh lá cây và kiểu xe hơi cổ như thể nó chưa từng ra ngoài garage hàng năm nay. Trông nó không hề có gì đặc biệt nhưng lại được trang bị bởi anh em nhà Stoll. Và tôi phải rùng mình khi nghĩ tới những thủ đoạn bẩn thỉu mà họ đã lên kế hoạch.
Còn lại hai cỗ xe cuối cùng: một được lái bởi Annabeth, và một được lái bởi tôi.
Trước khi cuộc đua bắt đâu, tôi cố gắng xích lại gần Annabeth và kể cho cô ấy nghe về giấc mơ của mình.
Cô ấy rất vui khi tôi nhắc tới Grover, nhưng dường như lại có khoảng cách và nghi ngờ khi tôi kể cho cô ấy nghe những gì cậu ấy nói.
“Cậu đang cố làm tớ phân tán,” cô khẳng định.
“Cái gì? Không, tớ không có!”
“Ồ, được rồi. Xem ra Grover như mới lỡ băng qua một thứ có thể cứu được trại.”
“Ý cậu là gì?”
Cô ấy đảo mắt. “Trở lại xe của mình đi, Percy”
“Tớ không làm gì được. Cậu ấy đang gặp rắc rối, Annabeth à.”
Cô ấy ngần ngừ. Tôi có thể nói rằng cô ấy đang cố gắng quyết định có nên tin tôi không. Bất chấp những cuộc cãi cọ thỉnh thoảng mới có giữa chúng tôi, chúng tôi vẫn thường ở bên nhau. Và tôi biết rằng cô ấy không bao giờ muốn điều gì tôi tệ xảy ra với Grover.
“Percy này, sợi dây linh cảm là điều rất khó làm. Ý tớ là, việc cậu nói có thể như cậu đang nằm mơ vậy.”
“Nhà Tiên Tri,” tôi nói. “Chúng ta có thể hỏi ý kiến của Nhà Tiên Tri.
Annabeth cau mày.
Hè năm ngoái, trước khi bắt đầu cuộc truy tìm tia chớp của thần Zeus, tôi đã tới thăm linh hồn kỳ lạ sống trên gác mái của Nhà Lớn. Và linh hồn này đã cho tôi một lời tiên tri trở thành sự thật theo cách mà tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến. Lần trải nghiệm đó đã khiến tôi khiếp đảm mất mấy tháng trời. Và Annabeth biết rằng tôi chưa bao giờ gợi ý quay lại đó nếu như tôi không hoàn toàn nghiêm túc.
Trước khi cô ấy có thể trả lời, tiếng tù và bằng xà cừ đã réo vang.
“Những người đánh xe ngựa!” Tantalus gọi to. “Hãy tiến đến vạch xuất phát của mình đi nào.”
“Chúng ta nói sau nhé,” Annabeth nói với tôi, “sau khi tớ thắng”.
Khi tôi quay lại cỗ xe của mình và nhận ra có thêm nhiều chim bồ câu hơn trên cây. Chúng rít lên như phát điên, khiến cả khu rừng xào xạc. Dường như không ai chú ý gì nhiều đến bọn chúng, những chúng làm tôi lo lắng. Những chiếc mỏ khoằm của chúng lóe sáng rất kì dị. Đôi mắt chúng như chói sáng hơn lũ chim bình thường.
Tyson đang gặp rắc rối khi cố gắng khống chế lũ ngựa. Tôi phải nói chuyện với lũ ngựa khá lâu trước khi chúng có thể ổn định lại.
Hắn là một quái vật, thưa ông chủ! Lũ ngựa phàn nàn với tôi.
Cậu ấy là con trai của thần Poseidon, tôi nói với chúng. Giống như… ừm, như ta thôi.
Không! Lũ ngựa khăng khăng. Quái vật! Kẻ ăn thịt ngựa! Không thể tin được!
Ta sẽ cho các ngươi các cục đường vào cuối cuộc đua, tôi hứa.
Các cục đường ư?
Những cục đường rất lớn. Và cả táo nữa. Ta đã nhắc đến táo chưa nhỉ?
Cuối cùng lũ ngựa đồng ý để cho tôi thắng yên cương cho chúng.
Giờ đây, nếu như bạn chưa từng nhìn thấy một cỗ xe ngựa Hy Lạp nào thì cần biết rằng nó được làm nên để dành cho tốc độ, không phải cho sự an toàn hoặc thoải mái. Về cơ bản, đó là một cái giỏ bằng gỗ, mở nắp đằng sau, được lắp vào một trục xe giữa hai hệ thống bánh xe. Những người tài xế đứng đánh xe suốt quãng thời gian và bạn có thể cảm thấy từng cú xóc trên đường. Phần đuôi xe được làm bằng gỗ nhẹ tới mức nếu bạn thực hiện những cũ rẽ góc một trăm tám mươi độ ở khúc cuối của đường đua, chắc chắn bạn sẽ bị lật ngược và nghiền nát cả cỗ xe đua và chính bản thân bạn. Nó thậm chí còn nguy hiểm hơn cả ván trượt.
Tôi nắm dây cương và điều khiển cỗ xe tới vạch xuất phát. Tôi đưa cho Tyson một cây gậy dài ba mét và dặn cậu ấy rằng việc của cậu ấy là đẩy những cỗ xe khác ra xa nếu chúng tới quá gần và làm lệch hướng bất cứ thứ gì họ cố gắng ném vào chúng tôi.
“Không được dùng cây để đánh vào ngựa con,” cậu ấy khăng khăng.
“Ừ, không đâu,” tôi nhất trí. “Hoặc với những người khác, nếu cậu có thể giúp được. Chúng ta sẽ đua một cuộc đua trong sạch. Hãy đánh bay đi những gì làm xao lãng để tớ tập trung vào việc đánh xe.”
“Chúng ta sẽ thắng!” cậu ấy cười tươi.
Chúng ta đang sắp thua chắc đây, tôi tự nhủ, những mình phải cố gắng. Tôi muốn chứng tỏ cho mọi người khác thấy… ừm, tôi cũng không chắc rằng mình muốn cho mọi người thấy điều gì. Rằng Tyson không phải là một người xấu ư? Rằng tôi không xấu hổ khi cùng cậu ấy ở chỗ công cộng ư? Hay có lẽ là họ không thể làm tôi bị tổn thương bởi những câu giễu cợt và việc réo tên ra mà chửi nữa?
Khi các cỗ xe đua đã sắp thành hàng, lũ bồ câu với cặp mắt sáng càng tụ tập đông hơn trong rừng. Chúng rít quá lớn khiến các trại viên phải bắt đầu chú ý và lo lắng ngước nhìn các tán cây đang oằn mình bởi sức nặng của lũ chim. Tantalus trông chẳng quan tâm tới những điều đó nhưng ông ta phải nói to lên để át đi âm thanh của lũ chim.
“Các cỗ xe!” ông ta gào to. “Hãy chuẩn bị sẵn sàng nào!”
Ông ta vẫy tay bắt đầu cuộc đua. Các cỗ xe lao ầm ầm. Những móng ngựa đạp mạnh trên đất. Tiếng đám đông cỗ vũ vang lên rợp trời.
Đột nhiên co một tiếng rắc vang lên rất lớn. Tôi ngoái lại đúng lúc cỗ xe nhà Apollo bị lật ngửa ra. Cỗ xe nhà Hermes đã lao sầm vào nó – có lẽ bởi sai sót gì đó, hoặc không phải. Những người trên xe nhảy được ra ngoài không chút hề hấn, song những chú ngựa bị hoảng sợ, đã kéo lê cỗ xe vàng băng chéo khỏi đường đua. Đội đua nhà thần Hermes, Travis và Connor Stoll, đang cười như nắc nẻ trước may mắn của chúng nhưng cũng không được bao lâu. Những chú ngựa nhà thần Apollo đã đâm sầm vào chúng và cỗ xe Hermes cũng bị lật ngửa ra, bỏ lại một đống gỗ gãy và bốn con ngựa lồng lên trong đám bụi.
Hai cỗ xe đã bị hạ ngay trong sáu mét xuất phát đầu tiên. Tôi thấy yêu môn thể thao này.
Tôi chuyển sự chú ý từ phía sau về phía trước. Chúng tôi đang rất thuận lợi, đã vượt lên trước cả cỗ xe của nhà thần Ares, nhưng cỗ xe của Annabeth vẫn luôn ở phía trước chúng tôi. Cô ấy đã sẵn sàng hoàn thành vòng một. Gã cầm lao của cô ấy cười toe toét, vẫy tay về phía chúng tôi và hét to, “Gặp lại sau nhé!”
Cỗ xe của nhà thần Hephaestus cũng đang bắt đầu cạnh tranh với chúng tôi.
Beckendorf bấm vào một cái nút và một bên cỗ xe đua mở ra.
“Xin lỗi Percy!” cậu ta la lên. Ba chùm dây xích và banh sắt bắn thẳng về phía bánh xe chúng tôi. Chúng sẽ phá hỏng hoàn toàn cỗ xe của chúng tôi nếu Tyson không đánh chúng sang một bên với cú vụt nhanh bằng cây gậy tôi đã đưa cho cậu ấy. Cậu ấy đẩy mạnh vào cỗ xe nhà thần Hephaestus và khiến chúng bị nghiêng hẳn sang một bên khi chúng tôi lao tới trước.
“Làm tốt lắm, Tyson!” Tôi hét to.
“Lũ chim!” cậu ấy bật khóc.
“Cái gì cơ?”
Chúng tôi đang phi quá nhanh tới mức khó nghe thấy nổi bất cứ điều gì nhưng Tyson đã chỉ về phái cánh rừng và tôi nhìn thấy điều khiến cậu ấy phải lo lắng. Lũ chim bồ câu đã bay lên khỏi các cành cây. Chúng di chuyển theo đường xoắn ốc như một cơn lốc xoáy khổng lồ, đang lao thẳng về phía đường đua.
Không có gì đâu, tôi tự nhủ, Chúng chỉ là lũ chim bồ cầu mà thôi.
Tôi cố gắng tập trung vào cuộc đua.
Chúng tôi đã hoàn tất vòng một. Tiếng chiếc bánh xe của tôi kêu kẽo kẹt và cỗ xe có nguy cơ nghiêng sang một bên. Nhưng giờ chúng tôi chỉ cách Annabeth có ba mét. Nếu tôi có thể tiến tới gần hơn chút nữa, Tyson có thể dùng cây gậy của cậu ấy…
Người chiến đấu phía Annabeth đã không cười nữa. Anh ta nhấc một ngọn lao từ đống lao của mình và nhắm về phía tôi. Anh ta định phóng nó thì chúng tôi nghe thấy tiếng thét.
Lũ bồ câu đang di chuyển – hàng ngàn con đang bổ nhào xuống đám khán giả đang đứng xem và tấn công cả những cỗ xe đua khác. Beckendorf đã bị tấn công. Người chiến đấu của cậu ta cố gắng đánh đuổi lũ chim đi nhưng cậu ta không thể thấy gì. Cỗ xe của cậu ta bị chệch hướng khỏi đường đua và cày ngang qua các ruộng dâu, những con ngựa máy của cậu ta đang bốc khói.
Trên cố xe của nhà thần Ares, Clarisse quát tháo ra lệnh cho người chiến đấu – người đã nhanh chóng ném một tấm chắn lưới ngụy trang qua thùng xe của họ. Lũ chim vẫn tấn công quanh đó, mổ và cào vào hai bàn tay của người chiến đấu khi anh ta đang cô gắng giữ tấm lưới. Clarisse chỉ biết nghiến răng kèn kẹt và tiếp tục đánh xe. Những con ngựa chỉ còn bộ xương nên không bị lũ chim làm xao lãng. Lũ chim mổ một cách vô vọng vào những hốc mắt trống rỗng và bay qua bay lại giữa lồng ngực chúng, nhưng những con ngựa vẫn chạy đúng đường.
Khán giả không được may mắn lắm. Lũ chim mổ vào bất cứ phần da thịt nào được lộ ra, và khiến mọi người rơi vào hoảng loạn. Và giờ khi lũ chim đã ở gần hơn, có thể thấy rõ chúng không phải loại bồ câu thông thường. Mắt chúng tròn, sáng và có cái nhìn quỷ quyệt. Mỏ chúng bằng đồng và đánh giá từ những tiếng kêu thét của các trại viên, nó phải rất sắc bén như dao cạo.
“Lũ chim Stymphalian([6])!” Annabeth kêu váng lên. Cô ấy đi chậm lại và điều khiển cho cỗ xe của mình song song với xe của tôi. “Chúng sẽ róc mọi người tới tận xương mất nếu chúng ta không đuổi được chúng đi!”
“Tyson!” tôi nói, “chúng ta chạy quay lại thôi!”
“Đi sai đường à?” cậu ấy hỏi.
“Luôn luôn là vậy,” tôi lầm bầm. Nhưng tôi hướng cỗ xe lao về phía khán giả.
Annabeth đánh xe kế ngay bên tôi. Cô ấy hét to, “Hỡi các anh hùng, chiến đấu đi!” nhưng tôi không chắc ai đó có thể nghe thấy tiếng cô ấy bởi tiếng kêu rít của lũ chim và bầu không khí hỗn loạn.
Tôi giữ dây cương bằng một tay và dự định rút cây Thủy Triều ra khi một bầy chim đâm bổ vào mặt tôi. Những chiếc mỏ kim loại của chúng tranh nhau mổ xuống. Tôi chém bay chúng và chúng nổ tung thành bụi và lông chim, nhưng vẫn còn hàng triệu con khác. Một con túm chặt lấy tôi từ phía sau và tôi gần như nhảy ra khỏi cỗ xe.
Annabeth cũng không khá khẩm hơn là bao. Khi chúng tôi càng tiến gần về phía khán giả, đàn chim càng dày đặc hơn.
Một số khán giả đang gắng gượng chống trả lũ chim. Các trại viên nhà Athena đang kêu gào đòi khiên. Các xạ thủ nhà Apollo đã mang cung và tên ra, sẵn sàng diệt mối hiểm họa này. Nhưng bởi có quá nhiều trại viên bị trộn lẫn trong đám chim nên không thể an toàn nếu bắn tên.
“Chúng nhiều quá!” tôi la lên với Annabeth. “Cậu làm thế nào để loại bỏ chúng đây?”
Cô ấy đâm một con bồ câu bằng con dao của mình. “Heracles đã dùng tiếng ồn. Những quả chuông đồng. Anh ta dọa chúng bay đi với âm thanh kinh khủng nhất mà anh ta có thể…”
Mắt cô ấy mở to ra. “Percy… bộ sưu tập của bác Chiron!”
Tôi hiểu ngay lập tức. “Cậu nghĩ là nó có tác dụng à?”
Cô ây giao cho người chiến đấu của mình giữ dây cương và nhảy từ cỗ xe của cô ấy sang cỗ xe của chúng tôi như thể đó là điều dễ nhất trên đời. “Tới Nhà Lớn mau! Đó là cơ hội duy nhất của chúng ta!”
Clarisse ghìm ngựa lại đối diện với đích đến, hoàn toàn không có đối thủ, và lần đầu chú ý tới mức độ nghiêm trọng do lũ chim gây ra.
Khi cô ta nhìn thấy chúng tôi đánh ngựa đi, cô ta kêu ầm lên. “Các người bỏ chạy à? Cuộc chiến ở đây cơ mà, lũ chim nhát gan!” Cô ta rút gươm ra và lao về phía khán đài.
Tôi giục lũ ngựa của tôi phi nước kiệu. Cỗ xe lao ầm ầm qua cánh đồng dâu, băng qua sân bóng chuyền và lảo đảo dừng lại phía trước Nhà Lớn. Annabeth và tôi vội vã chạy vào trong, chạy nhanh về phía cuối hành lang để đến phòng bác Chiron.
Máy nghe nhạc của bác ấy vẫn được đặt ở bàn đầu giường, cùng với những chiếc đĩa nhạc yêu thích nhất của bác. Annabeth vồ lấy cái máy và cả hai lại chạy hối hả ra ngoài.
Ở phía dưới đường đua, các cỗ xe đua đang bốc cháy. Các trại viên bị thương chạy toán loạn theo nhiều hướng mang theo lũ chim đang xé vụn quần áo của họ, bứt tóc họ. Trong khi đó Tantalus lại đang đuổi theo món bánh ngọt dành cho buổi sáng khắp khán đài, cùng lúc lớn tiếng thét, “Mọi thứ đang được kiểm soát! Đừng lo lắng!”
Chúng tôi ngừng lại ở đích đến. Annabeth đã sẵn sàng bật cái máy nghe nhạc. Tôi cầu mong pin của nó vẫn còn sử dụng được.
Tôi nhấn nút PLAY và bắt đầu album yêu thích của bác Chiron có tên All-Time Greatest Hits of Dean Martin. Đột nhiên không khí tràn ngập tiếng đàn violon và tiếng của một nhóm người đang than van bằng tiếng Ý.
Lũ bồ câu ma quỷ đột nhiên hóa điên. Chúng bắt đầu bay vòng vòng, lao vào nhau như thể chúng muốn đập mạnh vào đầu nhau. Rồi chúng cùng lúc bỏ lại đường đua và bay thẳng lên trời như một làn sóng khổng lồ màu sẫm.
“Giờ!” Annabeth hét lớn, “Các xạ thủ!”
Với mục tiêu rõ ràng, các xạ thủ Apollo có thể bắn trúng mục tiêu một cách hoàn mỹ. Hầu hết bọn họ có thể bắn từ năm hoặc sáu mũi tên một lúc. Trong vòng vài phút, mặt đất đã đầy xác lũ bồ câu với cái mỏ bằng đồng. Những con sống sót thì đang kéo theo những vệt khói dài bay về phía đường chân trời.
Trại đã được an toàn, nhưng những thứ đổ vỡ không đẹp tí nào. Hầu hết các cỗ xe đều bị phá hỏng hoàn toàn. Tất cả mọi người đều bị thương, bị chảy máu bởi sự tấn công của bầy chim. Lũ trẻ đến từ nhà của thần Aphrodite đang kêu gào bởi kiểu tóc của chúng bị làm hỏng và quần áo rách nát.
“Hoan hô!” Tantalus nói nhưng ông ta không thèm nhìn tôi lẫn Annabeth. “Chúng ta đã có người chiến thắng!” Ông ta đi tới đích đến và trao vòng nguyệt quế bằng vàng cho một Clarisse đang sững sờ.
Rồi ông ta quay lại và cười với tôi. “Và giờ là sự trừng phạt cho những kẻ gây rối, người đã phá hỏng cuộc đua.”