Té ra Vân Đăng năm xưa hộ tống Vân Tĩnh trở về nước, chạy đến ngọn núi bên ngoài Nhạn Môn quan thì gặp phải truy binh, ông ta liều chết đoạn hậu, bị trọng thương, rơi xuống thung lũng sâu. Lúc đó Triều Âm hòa thượng và mọi người nghe tiếng ông ta kêu thảm trong đêm tối, lại thấy ông ta rơi xuống vực sâu đều tưởng rằng ông ta đã mất mạng, nào ngờ Vân Đăng không chết, ông ta bị một cành cây cản lại, chỉ què một chân, mặt thì bị đá cào trầy xước, song cũng giữ được tánh mạng. Tuy ông ta không chết nhưng cảnh ngộ còn thê thảm hơn cả chết! Ông ta bị trọng thương, chỉ ở trong sơn cốc một mình, đành ăn lương khô trên xác người chết, uống nước tuyết, khí lực dần dần hồi phục, bò ra khỏi sơn cốc, lang thang ăn xin ở bên ngoài Nhạn Môn quan, không lâu sau thì dò được tin Vân Tĩnh bị nạn ở Nhạn Môn quan, ông ta đã nhụt chí, chỉ cảm thấy trời đất mênh mông, nhưng chẳng có nơi nào cho mình đứng chân.
Ông ta may mắn không chết, nhưng chân đã què mặt đã biến dạng, võ công chẳng còn, đã trở thành một phế nhân, lại thêm Vân Tĩnh đã chết, bản thân là con của kẻ “phản loạn”, không thể nào vượt Nhạn Môn quan trở về Trung Quốc, nếu chẳng phải còn có hai đứa con, trong lòng có chút lưu luyến, ông ta đã tự sát ở bên ngoài Nhạn Môn quan.
Ông ta lang thang hơn một năm, suy đi nghĩ lại thì chỉ chỉ đành trở về Ngõa Thích, cứ như thế ông ta đi khắp nơi làm thuê, nếu không ai gọi làm thuê thì đi ăn mày, trải qua bao nhiêu cay đắng khổ nhục mới về trở lại núi Đường Cổ Lạp, tìm ra bộ lạc của vợ mình.
Lúc ấy mẹ của Vân Lối là người cho ngựa ăn trong nhà Tù trưởng, Vương Chấn tốn nhiều công sức mới nhờ người báo tin của mình cho bà ta, hai vợ chồng gặp nhau mừng rỡ không nguôi. Vợ của Vân Đăng cùng ông ta trở về quê cũ, mắt bà đã mờ hẳn, không thể chăn cừu nữa. May mà Vân Đăng tuy mất võ công nhưng là người đã luyện võ, khí lực vẫn còn, có thể làm việc cho người ta, thế là chồng làm thuê, vợ may áo, cả hai gắng gượng đắp đổi qua ngày, cuộc sống như thế còn tốt hơn lúc trước nhiều. Vân Đăng ban ngày làm việc, tối luyện lại võ công, lòng đã trơ ra như gỗ đá, cứ qua một ngày thì tính một ngày, lúc đầu còn nhớ đến con cái, vẫn còn hy vọng, nhưng dần dần cả tia hy vọng cũng tắt hẳn, nghĩ bụng cuối cùng rồi sẽ chết lặng lẽ ở đất khách.
Vân Lối nằm mơ cũng không ngờ rằng cha mình vẫn còn sống. Nàng đứng sững ra nhìn cha, nhìn nét mặt tiều tụy, mái tóc bạc phơ của người cha, Vân Lối không đợi ông ta nói cũng đã biết nỗi cay đắng khổ nhục mười năm qua của ông ta, Vân Lối kêu lên một tiếng chạy đến bên cha, nước mắt của con gái rơi xuống người cha, nước mắt của cha cũng đã ướt đẫm cả áo của con gái. Nước mắt hai cha con chan hòa, không biết là mừng rỡ hay chua xót!
Mặc cho Trương Đan Phong là người phóng khoáng đến mức nào cũng cảm thấy xúc động thê lương, chàng chẳng thể nói được lời nào. Chàng biết lúc này Vân Lối cần người an ủi, nhưng có ai biết, chàng còn áy náy hơn Vân Lối gấp vạn lần, trong trời đất này chẳng ai có thể an ủi cho chàng.
Hai cha con ôm nhau khóc òa một lúc lâu, Vân Đăng mới phát hiện bên cạnh còn có một thiếu niên, thiếu niên lại đi cùng với con gái của mình. Vân Đăng nhìn Trương Đan Phong, chỉ thấy thiếu niên ăn mặc sang trọng, trong vẻ anh tuấn có nét nho nhã, nhưng hai mắt thất thần, đứng trơ ra như đá, ngạc nhiên hỏi: “A Lối, y là ai?”
Vân Lối nghe câu hỏi ấy thì bừng tỉnh, nhưng câu hỏi ấy cũng như sấm nổ giữa trời xanh. Cha nàng tuy nói rất nhỏ, nhưng mỗi chữ đều như tiếng sấm nổ trong lòng nàng. Nàng vốn đã nghĩ ra nhiều lời để giải thích với mẹ, nhưng lúc này đã gặp mẹ, lại gặp cha, thế nên chẳng nói được gì.
Mẹ của Vân Lối cố gắng mở to cặp mắt, nhìn bóng người mờ nhạt trước mặt, bà ta mỉm cười hỏi: “A Lối, chàng trai này có phải đến cùng con hay không?” Bà nói với giọng rất dịu dàng, tựa như đang mong đợi một niềm vui khác.
Bà có ngờ rằng, lời nói dịu dàng ấy trở thành những mũi kim sắc nhọn đâm vào lòng con gái của mình, Vân Lối thỏ thẻ: “Y... y họ Trương!”
“Cái gì, họ Trương?” Vân Đăng bất giác kêu lên, mười năm qua, ông ta căm hận Trương Tôn Châu đến thấu xương, chỉ nghe một chữ “Trương” thì cũng đã chẳng kìm nổi lòng, Vân Lối khóc òa lên, lại ngả vào lòng cha, Vân Đăng cứng cựa như một bức tượng đá, chân bước lùi ra phía sau.
Trương Đan Phong không kìm được nữa, chàng hạ giọng nói nhỏ: “Đúng thế, tiểu điệt họ Trương, tiểu điệt là con của Trương Tôn Châu, nay xin thỉnh tội cùng lão bá!”
Trong khoảnh khắc, chỉ thấy cơ mặt của Vân Đăng giần giật, ông ta không lên tiếgn, rồi đột nhiên vung nắm đấm đẩy Vân Lối ra, chạy thẳng về phía trước.
Vân Lối cũng kêu lên, vội dang tay cản cha mình lại. Vân Đăng đột nhiên cảm thấy hổ khẩu đau nhói, bất đồ lui ra sau, trong khoảnh khắc ấy, ông đã hiểu tất cả, chàng trai này là con trai của kẻ mà ông căm hận nhất, cũng là người mà con gái mình thương yêu nhất.
Vân Lối chợt hiểu ra, nàng đã ra tay quá mạnh, thế là vội vàng kéo nhẹ ống tay áo của cha mình. Chỉ thấy Vân Đăng rút tay áo mình ra, ống tay áo lại dứt đứt một mảnh, Vân Đăng nhìn vào mắt con gái đột nhiên nắm ống tay áo ném về phía Vân Lối, lạnh lùng nói: “Ngươi hãy đi đi, bọn ta là kẻ nghèo khổ, không dám tiếp đãi thiếu gia và tiểu thư!”
Trong khoảnh khắc, Vân Lối run lên bần bật như có dòng điện chạy qua người, những cảm giác oán hận, ân thù hổ thẹn tự trách dâng lên trong lòng. Nàng cứ đứng sững sờ ra đấy, nhìn cha rồi lại nhìn Trương Đan Phong, cõi lòng tê tái, hình như chẳng còn chút tri giác nào nữa. Sắc mặt Trương Đan Phong thì tái nhợt, chàng nhìn Vân Lối, chỉ thấy nàng chậm rãi lấy ra một tấm áo tử la, xé toạc rồi ném xuống đất. Trương Đan Phong nhớ rõ ràng, lần đầu tiên Vân Lối mặc lại y phục của nữ nhi, nàng đã mặc tấm áo tử la này, lúc đó là trong căn mật thất, chàng vẫn còn khen ngợi nàng xinh đẹp. Tấm áo tử la này chiếm một vị trí quan trọng trong lòng cả hai người, đó là một hồi ức đẹp đẽ.
Thế nhưng giờ đây Vân Lối đã chính tay xé nát, tất cả những hồi ức đẹp đẽ cũng nát tan như tấm áo!
Trương Đan Phong kêu lên, chỉ thấy Vân Lối chẳng ngẩng đầu, tay trái kéo cha, tay phải kéo mẹ bước vào trong nhà, rồi đóng sầm cánh cửa lại. Hai cánh cửa chia cắt hai người, chỉ cách một bậc cửa nhưng lại là hai thế giới khác nhau. Trương Đan Phong tuyệt vọng vô cùng, Vân Lối bước vào trong nhà, khi đóng cửa lại cũng chẳng thèm quay đầu nhìn!
Vân Lối bước vào bên trong, khí lực đã tiêu tan, từ bên ngoài vào trong chẳng qua chỉ cách có một bước, nhưng nàng bước xong bước này thì cảm thấy khó nhọc tựa như vượt trăm sông ngàn núi, Vân Lối trở nên kiệt sức, nàng vừa bước vào bên trong thì đã chẳng gắng gượng được nữa, thế là té nhào xuống đất. Chỉ nghe bên ngoài tiếng ngựa hí thê lương vô cùng, con ngựa của nàng đã hí lên, tựa như nó đang không nỡ rời xa con Chiếu dạ sư tử mã của Trương Đan Phong, hai con ngựa từ Trung Nguyên đến Mông Cổ, tựa như đã trở thành hai người bạn không thể nào cách xa nữa. Từ xa con ngựa của Trương Đan Phong cũng hí đáp lại, tựa như hai người bạn thân đang nói lời vĩnh biệt nhau. Vân Lối kêu lên thảm thiết rồi ngã gục xuống đất, bên tai còn văng vẳng tiếng mẹ kêu: “Ôi, con tôi thật đáng thương!”
Nhưng có một người còn đáng thương hơn Vân Lối, đó là Trương Đan Phong. Lúc này Vân Lối có cha mẹ an ủi, nhưng bên cạnh chàng chẳng có ai, chàng cũng chẳng biết thổ lộ nỗi khổ sở này cùng ai. Chàng tuyệt vọng đến cực điểm. Chàng trở nên như điên cuồng, trời đất mênh mong, chàng cũng chẳng biết nên đi về đâu!
Chàng vẫn còn nhớ mình có hẹn với sư phụ, hình như là đến gặp một ma đầu nào đó. Trương Đan Phong vốn rất thông minh, trí nhớ rất tốt, nhưng lúc này cõi lòng đã tan nát, khiến cho chàng rơi vào trạng thái điên dại, ngoại trừ Vân Lối và chuyện của nàng, chàng chẳng nhớ gì cả. May mà chàng vẫn còn nhớ mình có một người sư phụ, chàng đang muốn tìm người giải bày nỗi u uất trong lòng, vì thế cứ chạy mãi.
Càng lúc Trương Đan Phong càng cảm thấy cô đơn, chàng càng đi càng nhớ Vân Lối. Trong ngày xuân ấm áp muôn hoa đua nở, chàng đã cùng Vân Lối đi khắp miền Giang Nam, trong những ngày gió bấc thét gào, chàng cũng đã cùng Vân Lối vượt qua miền thảo nguyên rộng mênh mông, thế nhưng dù cho cảnh Giang Nam sông nước hữu tình hay cảnh sa mạc Tái Bắc mênh mông, tất cả đều đẹp đến cực điểm, ngọt ngào đến tận cõi lòng. Chàng cứ tưởng rằng Vân Lối vẫn còn đang ở bên cạnh mình, thế là kêu lớn: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ!”
Nhưng chàng chỉ nghe thấy tiếng mình trong sơn cốc vắng lặng.
Tiểu huynh đệ đã ở lại.
Trương Đan Phong cứ một mình bước lên núi Đường Cổ Lạp, ngày đầu tiên chàng vẫn còn nhớ lờ mờ là phải tìm sư phụ, đến ngày thứ hai thì không biết tại sao mình lại ở trong chốn rừng núi hoang vắng này. Thấy cảnh cây khô đá núi thì nghĩ đến hình bóng của Vân Lối, nghe tiếng suối reo thì nghĩ đến tiếng gọi của Vân Lối, nhưng đột nhiên tiếng gọi ngọt ngào ấy đã vỡ vụn trong tiếng đóng cửa, Trương Đan Phong mãi mãi không quên âm thanh ấy. Âm thanh ấy đang theo đuổi chàng, chàng không dám xuống núi, chàng cứ chạy thẳng về phía trước, tựa như chàng đang muốn trốn chạy âm thanh ấy, trốn chạy thế giới ở phía dưới chân núi.
Đến hoàng hôn ngày hôm sau chàng đã lên đến đỉnh núi, chàng dừng chân thì cảm thấy trong bụng đói khát, lúc này mới nhớ lương khô đã hết, cả ngày nay vẫn chưa bỏ thứ gì vào bụng, cơn đói giúp chàng tỉnh táo hơn, chàng nghĩ mình phải nên ăn một chút gì đó, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy khói bay lãng bãng trong chiều.
Trương Đan Phong nào biết đó chính là nơi ở của Thượng Quang Thiên Dã. Lúc này chàng chỉ biết tìm thức ăn, chàng chạy đến đẩy cửa, hai cánh cửa đá khép chặt, hai cánh cửa đá trước mặt biến thành cánh cửa của nhà Vân Lối! Chàng cứ nghĩ bên trong có Vân Lối, không biết chàng lấy sức ở đâu ra mà vỗ mạnh vào cánh cửa đá hai chưởng, cánh cửa đá bị bật ra.
Chợt nghe bên trong có tiếng cười lạnh: “Ai mà lớn gan đến quấy nhiễu ta?”
Tiếng cười ấy tựa như dao đâm vào tai chàng, Trương Đan Phong giật mình, tiếng cười đáng sợ này tựa như cú kêu trong đêm, chẳng giống gì tiếng cười của Vân Lối, chàng còn đến đây làm gì? Chỉ trong chốc lát thần trí Trương Đan Phong lại mơ hồ, chợt thấy mấy bóng đen lao về phía mình, Trương Đan Phong vung tay điểm vào mấy bóng đen ấy, chỉ nghe mấy tiếng đổ sầm vang lên, mấy bóng đen ngã xuống đất. Lúc này một bóng đen xuất hiện, người chưa tới thì kình phong đã tới trước, Trương Đan Phong chợt cảm thấy trời xoay đất chuyển, thế là đổ sầm xuống, bất tỉnh nhân sự.
Những kẻ bị chàng điểm huyệt ngã xuống là tùng của Thượng Quang Thiên Dã, lúc này Thượng Quang Thiên Dã đã bước ra khỏi mật thất.
Thượng Quang Thiên Dã võ công trùm đời, đã ẩn cư ở đây mấy mươi năm, cao thủ trong võ lâm không ai dám đến gần, nhưng không ngờ Trương Đan Phong đã đánh vỡ cửa đá của lão ta. Lúc đầu Thượng Quang Thiên Dã còn tưởng là Huyền Cơ Dật Sĩ, nhưng nghĩ lại thì thấy Huyền Cơ Dật Sĩ không vô phép như thế, trong lòng rất ngạc nhiên, cho nên dùng công phu Nhất chỉ thiền điểm ngã Trương Đan Phong rồi vội vàng đốt đèn lên, xem thử kẻ nào đã dám héo lánh đến đây!
Thượng Quang Thiên Dã vừa nhìn thì càng kinh ngạc hơn, chỉ thấy có một thiếu niên mặt đẹp như ngọc nằm ở dưới đất, nhưng bề ngoài tiều tụy, tựa như bệnh mà không phải bệnh, xem ra chỉ khoảng hai mươi tuổi. Thượng Quang Thiên Dã học rộng hiểu nhiều, vừa nhìn thì đã biết chắc chắn có uẩn khúc, rồi bắt mạch cho Trương Đan Phong. Thượng Quang Thiên Dã vừa chạm vào mạch của chàng thì không khỏi kinh hãi.
Nhất chỉ thiền công của Thượng Quang Thiên Dã đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, lúc nãy lão điểm vào huyệt Nhuyễn Ma dưới be sườn của Trương Đan Phong, theo lý, những mạch máu gần đó đều bị ngưng trệ, mạch tượng cũng sẽ bị chặn lại. Nhưng mạch của Trương Đan Phong vẫn nhảy như thường, chỉ có hiện tượng hư nhược mà thôi, người tinh thông y thuật sẽ biết ngay đó là do đói khát mà ra chứ không phải là do bị điểm huyệt.
Thượng Quang Thiên Dã nghĩ bụng: “Nếu đây là cao thủ tuyệt đỉnh, có thể dùng Bế huyệt pháp chống lại Nhất chỉ thiền công của mình, nhưng nếu dùng Bế huyệt pháp mà vẫn bị điểm trúng, cũng không đến nỗi hôn mê, vả lại mạch tượng không có hiện tượng bị bế huyệt. Kẻ này đã bị điểm ngã, lại không hề bị tổn thương, không biết là vì nguyên cớ gì? Chả lẽ trên đời này còn có loại nội công nào thần kỳ mà mình không biết?”
Thượng Quang Thiên Dã không ngờ rằng, trên đời còn có một loại nội công mà y không biết, đó chính là công phu trong Huyền công yếu quyết của Bành hòa thượng. Nội công của Thượng Quang Thiên Dã đi theo con đường quái dị, lợi hại đến cực điểm nhưng không chính tông bằng huyền công của Bành hòa thượng. Do đó công lực của Trương Đan Phong tuy kém xa Thượng Quang Thiên Dã, tuy bị lão ta dùng Nhất thiền công từ xa điểm tới huyệt đạo, hôn mê nhưng không hề bị tổn thương.
Thượng Quang Thiên Dã lại nghĩ: “Thiếu niên này tuổi còn trẻ, trong lúc đói khát mà vẫn có thể dễ dàng chế phục bốn người hầu của mình, lẽ ra phải có công lực đến hai ba mươi năm, chả lẽ y đã luyện võ công từ khi nằm trong bụng mẹ?” Rồi thầm kinh: “Chả lẽ y là đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ?” Nhưng nghĩ lại dù cho là đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ, tuổi còn trẻ thế này cũng không thể có được võ công như thế, vả lại công phu mà y chống đỡ Nhất thiền công cũng chẳng giống công phu của Huyền Cơ Dật Sĩ.
Thượng Quang Thiên Dã rất thắc mắc, lão ta tuy bị người ta coi là ma đầu nhưng cũng có lòng mến tài, thế rồi mới cứu tỉnh Trương Đan Phong. Trương Đan Phong mờ hồ, mắt chẳng mở ra được, cũng chẳng biết mình đã làm chuyện gì, chàng vừa tỉnh đã kêu lên: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ”.
Thượng Quang Thiên Dã đổ chén trà vào miệng chàng, chỉ nghe Trương Đan Phong lại kêu lên: “Ôi, ôi, tiểu huynh đệ, đệ không thích rượu sữa ngựa, ta cũng không uống rượu sữa ngựa”.
Thượng Quang Thiên Dã nghĩ bụng: “Gã này đã mê loạn thần trí, hèn gì trong mạch tượng có hiện tượng tâm hỏa trì trệ”. Thế rồi nói: “Được, ngươi không uống sữa ngựa, vậy ta sẽ cho ngươi uống sữa”. Rồi lấy sữa lên cho chàng. Trương Đan Phong mơ hồ uống cạn chén sữa, kêu lên: “Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ, thế mới là hảo huynh đệ của ta, ta đã bước vào, đệ không đuổi ta được nữa! Ha ha, đệ không đuổi ta được nữa!” Rồi chàn ngủ say, quả thật đã quá mệt nhọc.
Thượng Quang Thiên Dã bỗng nhiên cảm thấy mình có duyên với thiếu niên này, nghĩ bụng: “Mình đã bỏ tuyết sâm vào chén sữa lúc nãy, có thể dưỡng khí hoạt huyết, dù y có ngủ một ngày không ăn cũng chẳng sao”.
Rồi đưa Trương Đan Phong về phòng của mình, đặt chàng lên cái giường ngọc.
Trương Đan Phong tỉnh dậy thì đã đến chiều ngày hôm sau, thoang thỏang hương thơm xông vào mũi, chàng mở mắt ra thì thấy ánh mắt trời len vào khe cửa, ở cửa sổ có một châu chi lan, trong phòng sắp xếp rất trang nhã, trên tường có một bức tranh vẽ, trong tranh là một mảnh rừng Tử trúc, trong rừng có nàng thiếu nữ mặc áo tím, nét mặt như cười như giận. Trương Đan Phong thầm nhủ: Hình như chàng đã thấy cảnh tượng trong bức tranh ở đâu đó, cả thiếu nữ trong bức tranh cũng thế. Chàng đọc lại hai câu đối trên cửa sổ: “Khó phân ân oán khó quên nàng, chỉ có tình si mới là thật”.
Chàng ngồi thẫn thờ, chỉ cảm thấy hình bóng của Vân Lối hiện ra trước mặt, thiếu nữ trong rừng tử trúc đột nhiên trở thành Vân Lối, tựa như bước ra khỏi bức tranh, trong chớp mắt lại biến mất. Trương Đan Phong lẩm bẩm: “Trên đời này đâu có ai sánh bằng tiểu huynh đệ của mình, thiếu nữ trong bức tranh tuy đẹp nhưng cũng không bằng nàng”.
Rồi chàng lấy giấy và bút trên bàn, bắt đầu vẽ từng bức tranh, có bức là Vân Lối đang e thẹn, có bức là Vân Lối mỉm cười, có bức là Vân Lối giận dỗi, chàng đã vẽ một bức miêu tả cảnh nàng và mình cùng phóng ngựa. Vẽ xong thì buông bút khóc hu hu.
Chợt có người vỗ nhẹ lên vai chàng, ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy một ông già tóc bạc trắng, tướng mạo tuy hung dữ, nhưng ánh mắt đầy vẻ quan tâm và thông cảm, chỉ nghe ông ta mỉm cười nói: “Ngươi là ai? Tại sao ngươi khóc?”
Trương Đan Phong nói: “Ông là ai, tại sao ông cười?”
Ông già ấy cười ha hả: “Không ngờ trong chốn trời đất lại có hai kẻ si tình như chúng ta!”
Hai người nhìn nhau khóc một hồi rồi lại cười một hồi, ông già ấy nói: “Đêm qua ngươi cứ gọi tiểu huynh đệ mãi, tiểu huynh đệ của ngươi ở đâu?”
Trương Đan Phong chẳng nói chẳng rằng, lật mười mấy bức tranh của Vân Lối ra xem lại, rồi lại khóc lên hu hu.
Ông già ấy nói: “Đây chính là tiểu huynh đệ của ngươi?”
Trương Đan Phong kêu lên: “Sao ông dám trợn mắt nhìn tiểu huynh đệ của tôi, hừ, hừ, tôi sẽ đánh ông già chẳng biết phép tắc này”. Thế rồi quét qua một chưởng, ông già ấy chỉ điểm nhẹ lại, Kim Cương chưởng lực của Trương Đan Phong hoàn toàn tiêu biến, chàng lại buông giọng khóc: “Ôi, ôi, huynh không cho người khác nhìn đệ, tại sao đệ lại trợn mắt nhìn huynh?” Té ra bức tranh trong tay chàng là bức tranh Vân Lối nổi giận.
Ông già ấy thở dài, lẩm bẩm: “Mấy mươi năm về trước, nếu có người dám nhìn Chi Lan của ta, ta sẽ đánh y”.
Trong khoảnh khắc, chỉ cảm thấy thiếu niên ở trước mặt này chính là hình bóng năm xưa của mình, bất giác hỏi: “Tại sao tiểu huynh đệ của ngươi lại xa ngươi?”
Trương Đan Phong trừng mắt nhìn ông già, nói: “Ông có biết cả, còn hỏi tôi?”
Ông già ấy ngạc nhiên: “Sao?”
Trương Đan Phong nói: “Khó quên ân oán khó quên nàng, chỉ có tình si mới là thật. Chẳng phải ông đã viết như thế sao? Nếu ông không biết chuyện giữa ta và Vân Lối, tại sao còn viết ra câu đối này?” Ông già nghe chàng nói bất giác ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Té ra ân oán khó quên, tương tự tình nghiệt đều như nhau cả”.
Thế rồi vỗ bàn cười lớn: “Ba mươi năm trước là ta, ba mươi năm sau là ngươi, chúng ta đều như nhau cả, hãy để những kẻ si tình trong thiên hạ cùng khóc với nhau!”
Rồi tiếng cười chợt dứt, lại ôm đầu cùng khóc với Trương Đan Phong, tiếng khóc vang xa, bọn người hầu trong thạch thất đều ngạc nhiên nhìn nhau, bọn họ tưởng rằng Thượng Quang Thiên Dã sẽ giết thiếu niên này, nào ngờ họ lại giống như tri kỷ, vừa gặp mặt đã cười khóc mãi không thôi. Bọn người hầu này theo Thượng Quang Thiên Dã đã nhiều năm, tuy biết lão buồn vui vô thường, nhưng chưa bao giờ quái dị như lúc này!
Hai người khóc một hồi, ông già ấy nói: “Hôm nay khóc quả thực thống khoái, ha ha, bao nhiêu nỗi u uất trong ba mươi năm, hôm nay mới gặp kẻ đồng bệnh tương lân!”
Rồi tiếng khóc chợt trở thành tiếng cười, Trương Đan Phong bất giác cũng cười theo ông ta, nhưng chàng cảm thấy sau khi khóc thì lòng dạ thỏai mái hơn nhiều, đầu óc dần dần tỉnh táo, bất giác hỏi: “Sao tôi lại đến đây?” Ông già ấy nói: “Đúng thế, ta cũng định hỏi ngươi, sao ngươi lại đến đây?”
Trương Đan Phong vắt óc suy nghĩ, nhưng chàng không biết tại sao mình lại đến nơi này, chàng chỉ nhớ nổi chuyện giữa mình với Vân Lối, nhớ nhà của Vân Lối ở thung lũng phía nam núi này, hình như sau khi mình bị nàng nhốt bên ngoài thì chạy đến đây, Trương Đan Phong cảm thấy rằng ông già này chịu nghe tâm sự của mình, rồi chàng để cho ông già biết tâm sư của chàng.
Vì thế Trương Đan Phong bắt đầu kể lại mối ân oán tình nghiệt giữa mình với Vân Lối, chàng kể chẳng ra đầu ra đuôi gì cả, có lúc sót mất một đoạn, kể xong một đoạn dài thì quay lại bổ sung, hầu như chẳng kết nối được với nhau. Ông già nghe xong thì hỏi: “Ai truyền võ công cho ngươi và ả?”
Trương Đan Phong nói: “Tôi và nàng là đồng môn, nàng và tôi là đồng môn, sư phụ của tôi là ai? Sư phụ của nàng là ai?” Chàng lại nhăn mặt suy nghĩ, nhưng chẳng nhớ ra được. Ông già ấy nói: “Ngươi đã nghe thấy tên Huyền Cơ Dật Sĩ hay chưa?”
Trương Đan Phong chợt vỗ mạnh vào trán mình, kêu lên: “Đúng thế, tôi đã nhớ, sư tổ của tôi tên là Huyền Cơ Dật Sĩ, Huyền Cơ Dật Sĩ là sư tổ của tôi. Huyền Cơ Dật Sĩ truyền hai bộ kiếm pháp cho hai đệ tử, hai người này chính là sư phụ của tôi và nàng. Nhưng tôi không nhớ sư phụ của tôi là ai, sau này hai chúng tôi gặp nhau, song kiếm hợp bích thì thiên hạ vô địch, ha ha, thiên hạ vô địch!”
Ông già ấy ban đầu thì biến sắc, kế đến cả cười, nghĩ bụng: “Thiếu niên này điên khùng quá đỗi, tịnh dưỡng một ngày một đêm mà thần trí vẫn mơ hồ như thế. Nếu y là đồ tôn của Huyền Cơ Dật Sĩ, tại sao lại luyện tập võ nghệ ở kinh thành Ngõa Thích? Còn người kia nhỏ tuổi hơn y, tại sao lại chạy đến núi Tiểu Hàn diện bích mười hai năm? Học xong võ nghệ lại phải diện bích mười hai năm mới gặp y, há chẳng phải sẽ trở thành một bà cô già hay sao? Làm sao chẳng biết kiếm pháp của đối phương, mà có thể phối hợp đến kín kẽ? Lại còn bảo thiên hạ vô địch, chẳng phải là nói mê hay sao? Lại nói công lực của y, nếu bảo là đồ đệ của Huyền Cơ Dật Sĩ mình còn có thể tin, nếu là đồ tôn của Huyền Cơ Dật Sĩ làm sao có thể chống nỗi một chưởng của mình? Có lẽ sư phụ của y là dị nhân võ lâm không lộ danh tánh, có lẽ y nghe tên của Huyền Cơ Dật Sĩ thì cứ nhận bừa là sư tổ của mình”.
Thượng Quang Thiên Dã nào biết rằng, Trương Đan Phong nói toàn là sự thực, nhưng không rõ ràng, chàng vốn nhớ rằng sư phụ của Vân Lối bị phạt diện bích ở núi Tiểu Hàn mười hai năm, nhưng lại nói chẳng ra đầu ra đuôi khiến cho Thượng Quang Thiên Dã hiểu nhầm rằng chàng nói Vân Lối, lại thêm nội công đêm qua mà chàng sử dụng không giống với Huyền Cơ Dật Sĩ cho nên Thượng Quang Thiên Dã không tin.
Trương Đan Phong nói xong thì hỏi: “Ông là? Ông ở đây làm gì? Chả lẽ tiểu huynh đệ của ông cũng xa rời ông hay sao?”
Thượng Quang Thiên Dã nói: “Đúng thế, tiểu huynh đệ của ta thà diện bích ở rừng Tử trúc ba mươi năm cũng không muốn đến núi Tuyết Sơn gặp mặt ta. Ôi, tiểu huynh đệ, ta sẽ kể cho ngươi nghe một câu chuyện này.
Ba mươi năm trước, có một đạo tặc lục lâm và một kiếm khách võ lâm, hai người đều tự cho là thiên hạ vô địch... không... không phải là tự khen, song kiếm hợp bích mà ngươi nói thiên hạ vô địch là giả, hai người họ mới thật sự là thiên hạ vô địch”.
Trương Đan Phong nói: “Vậy rốt cuộc ai mới là thiên hạ vô địch?”
Thượng Quang Thiên Dã nói: “Đến giờ vẫn không biết, nếu ngươi muốn biết thì ở đây thêm vài ngày nữa. Ta đang kể chuyện hai kẻ ấy tự phụ thiên hạ vô địch, nhưng lại yêu một thiếu nữ cũng tự phụ thiên hạ vô địch, thiếu nữ và lục lâm đạo tặc cãi nhau thì nhiều, vui vẻ thì ít, có lẽ danh tiếng của y không tốt cho nên tuy nàng không thích tính tình của tên kiếm khách kia, nhưng lại thường tìm đến y. Tên kiếm khách ấy thật xấu xa, hắn vì đối đầu với kẻ đại đạo nên thường cố ý hạnh hạ nàng ta để làm cho tên đại đạo đau lòng. Đại đạo ấy nổi giận, tỉ thí ba ngày ba đêm với y trên đỉnh Nga Mi nhưng không phân thắng bại, đại đạo ấy rửa tay gác kiếm, mai danh ẩn tích ở Mông Cổ, y vốn là kẻ anh hùng trọng anh hùng, có ý nhường người mà y yêu thương cho kiếm khách ấy, hừ, hừ, ai ngờ tên kiếm khách lại là kẻ xấu xa cùng cực”.
Trương Đan Phong hỏi: “Sau đó như thế nào?”
Thượng Quang Thiên Dã nói: “Sau khi tỉ võ, kiếm khách ấy bỏ rơi nàng thiếu nữ ấy, không thèm màng đến nàng ta, để nàng ta một mình đau khổ trong rừng Tử trúc”.
Trương Đan Phong nói: “Ồ, kiếm khách ấy thật xấu, sao lại bỏ rơi một người chung tình với mình”.
Chàng không biết kiếm khách mà Thượng Quang Thiên Dã nói chính là sư tổ Huyền Cơ Dật Sĩ của chàng, còn tên đại đạo chính là bản thân lão ta, nàng thiếu nữ kia là bà lão trong rừng Tử trúc, bà ta họ Tiêu tên Vận Lan, Thượng Quang Thiên Dã trồng một châu chi lan trong thư phòng là để nhớ đến bà.
Nhưng Thượng Quang Thiên Dã kể chưa đủ, Thượng Quang Thiên Dã yêu Tiêu Vận Lan, còn Huyền Cơ Dật Sĩ thì không, họ không hợp tính nhau cũng là sự thực, vốn chẳng phải vì chuyện tình yêu. Thời còn trẻ Tiêu Vận Lan võ công rất cao, bề ngoài lại xinh xắn, bởi vì bà có một ước muốn rất kỳ quái, bà muốn anh hùng trong thiên hạ đều phải quỳ xuống dưới chân mình, bà không hề yêu Thượng Quang Thiên Dã, nhưng lại cảm thấy thỏa mãn vì được Thượng Quang Thiên Dã theo đuổi. Huyền Cơ Dật Sĩ không thích tính tình của bà ta nên xa rời bà ta, bà ta lại cứ muốn quấy rối Huyền Cơ Dật Sĩ. Dục vọng thỏa mãn bản thân càng mạnh mẽ, bà ta càng mong muốn hai người tự xưng là thiên hạ vô địch đều chết vì bà ta, ít nhất cũng phải tử chiến vì bà ta, bởi vậy bà mới cố ý gây hiềm khích giữa hai người, khiến cho hai người quyết đầu. Thượng Quang Thiên Dã một lòng yêu bà, đương nhiên trúng kế, Huyền Cơ Dật Sĩ vốn muốn né tránh, nhưng bị Thượng Quang Thiên Dã bức bách, ông ta lại không muốn nói xấu Tiêu Vận Lan trước mặt Thượng Quang Thiên Dã, thành thử không thể nào vạch trần dụng tâm của bà. Bởi vậy mới tỉ võ ba ngày ba đêm trên đỉnh Nga Mi. Sau khi tỉ võ, Huyền Cơ Dật Sĩ cảm thấy phụ nữ trong thiên hạ đều là mối họa cho nên tính tình thay đổi, không thèm ngó ngàng gì đến Tiêu Vận Lan, né tránh bà ta như rắn rết. Chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự ái mà trái lại đã khiến cho hai bậc kỳ sĩ trong võ lâm xa rời bà ta, Tiêu Vận Lan cảm thấy lòng tự ái của mình bị tổn thương, vì thế cũng biến mất khỏi giang hồ.
Trương Đan Phong không biết nội tình, chỉ cảm thấy một người thì không nên bỏ bê người yêu mình, cũng giống như Vân Lối bỏ rơi chàng, cho nên mới học theo giọng điệu của Thượng Quang Thiên Dã trách cứ kiếm khách kia, hai người nói chuyện rất hợp nhau, Thượng Quang Thiên Dã giữ chàng lại, bảo chàng mỗi ngày phải dùng nội công tự trị, mong rằng sau mấy ngày tịnh dưỡng thì chàng dần dần khôi phục trí nhớ.
Thượng Quang Thiên Dã bỏ ra ngoài, Trương Đan Phong chợt nhớ lại câu chuyện tỉ võ ở núi Nga Mi, hình như chàng đã nghe ai nói tới, nhưng lại không nhớ ra nổi, chỉ ngờ ngợ rằng hai người này có một người quan hệ rất lớn với mình.
Thượng Quang Thiên Dã hiểu biết rộng rãi, mỗi ngày đều nói chuyện của Trương Đan Phong, hai người đều tự nhận mình là kẻ tình si, khi nói đến chỗ đau lòng thì ôm đầu khóc lớn, khi nói đến chỗ khoái chí thì cười to, cứ như thế mấy ngày trôi qua, bao nhiêu nỗi u uất trong lòng Trương Đan Phong dần dần tiêu tan, thần trí đã tỉnh táo hơn trước rất nhiều. Một ngày chàng đang suy nghĩ thì chợt nhớ sư phụ của mình đã hẹn mình lên núi gặp một ma đầu nào đó, nhưng chàng không nhớ nỗi tên của ma đầu này. Đang định tìm Thượng Quang Thiên Dã hỏi thử trên võ lâm có ma đầu nào cực kỳ lợi hại hay không, chợt nghe Thượng Quang Thiên Dã bên ngoài đang lớn giọng nói chuyện, tựa như đang nổi giận.
Thượng Quang Thiên Dã đang mắng rằng: “Ô Mông Phu, nhà ngươi còn có gan đến gặp ta hay sao?”
Giọng nói của một hán tử trung niên vang lên: “Từ ngày rời khỏi sư môn, con vẫn ngày đêm luyện tập Nhất chỉ thiền công, mong sư phụ cho con trở lại sư môn”.
Thượng Quang Thiên Dã nói: “Luyện loại công phu thượng thừa này suốt đời không được kết hôn, ngươi lại có dục niệm, đã phạm vào lời thề khi ngươi mới vào sư môn, ta làm sao có thể thu lại ngươi. Ngươi không học được công phu thượng thừa, không đấu lại đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ, mặt mũi của ta còn để đâu?”
Hán tử ấy nói: “Từ rày về sau con thề không động lòng nữa, mong lấy công chuộc tội”.
Thượng Quang Thiên Dã nói: “Ngươi có công lao gì?”
Hán tử ấy nói: “Con đã tìm ra bí mật võ công của Huyền Cơ Dật Sĩ”.
Giọng nói tuy rất bình thản nhưng trong lòng lại rất kích động. Hán tử ấy nói: “Con đã động thủ với đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ ở ngoài Nhạn Môn quan, bọn chúng chẳng hơn đệ tử bao nhiêu, nhưng bọn bọn chúng có một bộ võ công cực kỳ lợi hại...”.
Thượng Quang Thiên Dã vội nói: “Võ công gì, có hơn được Nhất chỉ thiền công của ta không?”
Hán tử ấy nói: “Loại võ công này không cùng một đường với Nhất chỉ thiền công, chúng có một bộ kiếm pháp hai người luyện, nếu song kiếm hợp bích thì lợi hại vô cùng!”
Thượng Quang Thiên Dã kêu lên với giọng ngạc nhiên: “Cái gì, song kiếm hợp bích? Có thực là song kiếm hợp bích hay không? Ta không tin có thể vô địch thiên hạ!”
Trương Đan Phong nghe xong cũng ngạc nhiên, chàng chợt như hiểu ra mọi chuyện, nghĩ bụng: “Sư tổ của mình là Huyền Cơ Dật Sĩ, bộ song kiếm hợp bích này là tuyệt kỷ của mình và Vân Lối. Té ra ông già này chính là lão ma đầu mà sư phụ phải đến gặp!”
Trương Đan Phong nhớ lại tình hình mấy ngày hôm nay, nghĩ bụng: “Mấy ngày hôm nay mình ở cùng lão ma đầu, nhưng lão ta thật sự chẳng có gì đáng sợ!” rồi lại nghĩ: “Không biết tại sao sư tổ lại kết oán với lão? Chả lẽ hai kỳ sĩ tự xưng vô địch thiên hạ chính là lão và sư tổ?” Chàng đang lần tìm manh mối để dò ra lai lịch của mình, chợt nghe Thượng Quang Thiên Dã lại mắng: “Ai dẫn ngươi lên núi, có phải là ả nha đầu Tiên Vận hay không?”
Hán tử ấy nói: “Đúng là sư muội. Sư phụ hãy yên tâm, con sẽ chẳng nói chuyện hôn nhân với sư muội nữa”.
Thượng Quang Thiên Dã gằng giọng: “Trước khi gặp ta, ngươi đã hẹn sư muội trước, như thế đã phạm vào giới quy, ngươi có biết sai chưa? Giờ đây hãy vào tịnh thất sám hối, nếu ta chưa cho phép thì không được tự tiện rời khỏi nơi này”.
Thượng Quang Thiên Dã mắng rất dữ, nhưng thực sự là đã cho phép y trở lại sư môn, Ô Mông Phu cả mừng, khấu đầu tạ ơn. Trương Đan Phong thì nghĩ bụng: “Lão ma đầu này quả nhiên chẳng hiểu lòng người, lão tự cho mình là kẻ si tình, nhưng lại không cho phép đệ tử kết hôn”.
Thượng Quang Thiên Dã nhốt Ô Mông Phu vào tịnh thất rồi dặn những kẻ hầu hạ: “Giờ đây ta phải vào tịnh thất luyện công, ngoại trừ đệ tử của Huyền Cơ Dật Sĩ đến đây, nếu không không được vào quấy rối ta”.
Nói xong thì bỏ đi, bên ngoài lại tĩnh lặng.
Trương Đan Phong càng nghĩ càng thấy hán tử ấy đáng thương, chàng bước ra khỏi thư phòng, kéo người hầu lại hỏi hán tử ấy bị nhốt ở đâu, người hầu thấy chàng là người gần gũi Thượng Quang Thiên Dã nhất trong mấy năm nay, chưa biết lai lịch của chàng nhưng cũng không dám dấu chàng.
Thế rồi người ấy dắt Trương Đan Phong đến tịnh thất, gõ cửa nói: “Một bằng hữu của sư phụ đến gặp sư huynh, đó là cơ duyên của sư huynh, nếu sư huynh có điều chi khó khăn, có thể nhờ vị khách này cầu xin với sư phụ”.
Ô Mông Phu nghe người hầu nói như thế, lòng rất ngạc nhiên, nhủ thầm: “Sư phụ có vai vế rất cao, ngoại trừ Huyền Cơ Dật Sĩ, trên đời này chẳng ai sánh được, có ai xứng là bằng hữu của người? Mà nghe lời lẽ của người hầu, hình như đó là người bằng hữu ma sư phụ tôn kính”.
Thế rồi cửa phòng mở ra, Trương Đan Phong bước vào, thuận tay đóng cửa lại, Ô Mông Phu ngẩng đầu lên nhìn, bất giác sững ra.
Chợt nghe Ô Mông Phu hỏi với giọng rung rung: “Ngươi... ngươi có phải là đệ tử của Tạ Thiên Hoa đấy không?”
Trương Đan Phong chợt vỡ lẽ ra, cười ha hả: “Đúng thế, sư phụ của ta là Tạ Thiên Hoa, Tạ Thiên Hoa là sư phụ ta!”
Ô Mông Phu thấy thần thái của chàng lạ thường, hình như đã quên chuyện gì đó, chợt có người nhắc nhở, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, tựa như vừa mới tỉnh giấc mộng, lại hỏi: “Hai phái chúng ta có thù lớn với nhau, ngươi là kẻ đối địch với ta, ngươi có biết không?”
Trương Đan Phong nói: “Đúng thế, các người là đối thủ của chúng ta, ta đã nhớ lại, ta và ngươi đã giao thủ hai lần, một lần ở sơn trại, một lần ở bên ngoài Nhạn Môn quan”.
Chàng tuy đã nhớ lại, nhưng vẫn ngờ ngợ rằng chàng giao thủ với Ô Mông Phu không đơn giản chỉ vì ân oán của hai phái. Ô Mông Phu nói: “Tại sao ngươi đến đây?”
Trương Đan Phong nói: “Đúng thế, tại sao ta đến đây?” rồi chợt ngẩng đầu ngâm rằng: “Khó quên ân oán khó quên nàng, chỉ có tình si mới là thật. Này, ngươi có si tình không?”
Ô Mông Phu nói: “Ngươi nói gì?”
Trương Đan Phong cười lớn: “Ta bảo ngươi chẳng phải si tình, tại sao ngươi bỏ rơi sư muội của ngươi?”
Trương Đan Phong tựa như điên mà không phải điên, nhưng đã đụng chạm tới tâm sự của Ô Mông Phu, Ô Mông Phu lớn giọng nói: “Ai bảo ta bỏ rơi nàng?”
Trương Đan Phong nói: “Tại sao ngươi không dám bàn chuyện hôn nhân với nàng?”
Ô Mông Phu nói: “Ngươi biết cái gì? Võ công thượng thừa của phái ta phải giữ thân đồng tử, nếu kết hôn thì làm sao học được”.
Trương Đan Phong cả cười: “Sao lại có đạo lý ấy? Trừ phi cái ngươi học chẳng phải nội công huyền môn chính tông. Nào, ta sẽ cho ngươi mở rộng tầm mắt”. Rồi lấy ra quyển Huyền công yếu quyết nói: “Ta sẽ cho ngươi mượn quyển sách này, ngươi hãy lấy loại huyền công này làm nền tảng, luyện lại Nhất chỉ thiền của ngươi. Nếu Thượng Quan lão ma cứ cấm không cho ngươi nghĩ đến chuyện hôn nhân nữa, ngươi hãy đưa quyển sách này cho lão xem, nếu vẫn không chịu, ta sẽ giúp ngươi đánh lão một trận, lại còn xé nát câu đối của lão”.
Ô Mông Phu từ lâu đã muốn có được quyển Huyền công yếu quyết, thấy thế thì cả mừng, lại thấy Trương Đan Phong giở điên giở dại, sợ rằng chàng sẽ đổi ý, vội vàng nói: “Được được, xem đa tạ ngươi. Ngươi hãy mau quay về để sư phụ ta khỏi trách”.
Trương Đan Phong cười lớn, bước về thư phòng, đắc ý vô cùng. Chàng nhớ lại chuyện xưa tổn thương tinh thần, bất giác gục đầu ngủ thiếp đi. Không biết ngủ bao lâu thì bên ngoài vọng lại tiếng binh khí giao nhau, Trương Đan Phong nhảy bật dậy chạy ra ngoài, chẳng thấy kẻ hầu hạ nào cả, mở cửa tịnh thất thì Ô Mông Phu đã biến mất. Trương Đan Phong bước ra khỏi thạch thất, chỉ thấy ở bên ngoài có một nam một nữ, tay cầm trường kiếm đang đánh nhau với Thượng Quang Thiên Dã kịch liệt, người nam chính là sư phụ Tạ Thiên Hoa của mình, còn nữ là sư phụ của Vân Lối. Ô Mông Phu và vài kẻ hầu hạ đang đứng một bên. Tạ Thiên Hoa và Phi Thiên Long Nữ thấy Trương Đan Phong đột nhiên từ trong nhà đá chạy ra thì không khỏi ngạc nhiên.
Đó chính là:
Ân oán không đầu ai giải được? Hãy xem dật sĩ đấu ma đầu.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.