Black Ice

Chương 21: Chương 21




Tháng tư lại về - hứa hẹn một mùa xuân ấm áp, ẩm ướt và viên mãn. Paris sắp sửa đông nghẹt khách du lịch. Sau tháng tám, tháng tư là tháng nhộn nhịp nhất trong năm. Nhưng Bastien không còn ở Paris, và không có ý định ở đó trong một thời gian dài.

Anh biết cách để mất hút, giỏi hơn hầu hết bất cứ ai, bởi anh đã trải qua sự huấn luyện nghiêm ngặt nhất. Và một khi anh dứt ống truyền khỏi tay và bước ra khỏi phòng bệnh trong khu vực tiện nghi đặc cách họ giấu anh vào, anh đã tìm cách trốn thoát, dù đang trong tình trạng suy yếu, tới một nơi mà không ai, kể cả Ủy ban, có thể tìm ra.

Chính Ủy ban mới là đối tượng anh muốn tránh né nhất. Những kẻ khác chỉ đơn giản là muốn giết anh, và anh sẵn sàng đối mặt với chuyện đó một cách thanh thản. Còn Ủy ban không muốn để anh đi, và họ không chấp nhận câu trả lời ‘không’. Nếu anh không quay lại thì Thomason sẽ một lần nữa hạ lệnh giết anh, và thẳng thắn mà nói thì anh không còn mặt mũi nào nếu để bị mất mạng dưới tay người của mình. Anh có quá nhiều kiêu hãnh để chấp nhận một số mệnh nhục nhã đến thế.

Anh lưu lại một ngôi làng nhỏ ở Italian Alps, chờ vết thương bình phục. Viên đạn đã găm vào gan anh, và dù muốn hay không anh cũng ở trong tình trạng dở sống dở chết một khoảng thời gian, bởi vì mãi sau họ mới tìm thấy anh, bất tỉnh trong chiếc BMW đậu phía sau một ngôi nhà hoang. Họ tìm được anh, và tìm được Maureen, nhưng đã quá muộn để làm được gì cho cô ta.

Nhưng Ủy ban chưa chịu để cho khoản đầu tư đắt giá của họ chết, và anh được mang từ cõi chết trở về hai lần, không từ phương cách nào. Họ sẽ không để cho anh ra đi, và anh thôi không chống đối, để mặc bọn họ áp dụng các thành tựu y học lên người mình cho đến khi anh đủ tỉnh táo để kiểm soát cơn đau mà không cần dùng thuốc. Những loại thuốc dùng để chấm dứt cơn đau, để làm cho anh ngoan ngoãn, để thuyết phục anh làm theo những gì họ muốn. Anh không cần thứ thuốc đó.

Có một lính bảo vệ gác ngoài cửa phòng anh hai tư trên hai tư. Thỉnh thoảng khi tỉnh táo anh lại thấy bọn họ, mặc dù anh không biết bọn họ ở đó để bảo vệ anh hay giam giữ anh. Không có người nào trong Ủy ban chường mặt ra, và anh không định đợi Harry Thomason xuất hiện và ra cho anh một tối hậu thư. Anh chờ đến khi có thể nhúc nhắc đi được vài bước, anh tập khi không có y tá ở gần đó, và sau đó anh dứt ống truyền ra khỏi cánh tay, hạ gục tên lính gác và lột quần áo gã ra, lẩn vào trong bóng đêm.

Ban đầu là Italian Alps, rồi đến Venice, một thành phố anh biết tường tận như người ta rành ngôi nhà của mình. Chẳng ai có thể tìm được anh trong địa hình chằng chịt của Venice, và anh có thể ở lại đó mãi mãi nếu muốn.

Anh không ở lại. Anh thấy bồn chồn, và hồi phục chậm hơn bình thường, những dây thần kinh của anh canh cánh một mối nguy hiểm. Anh đã bỏ lại một khoảng đời nữa của mình phía sau, cũng như rất nhiều lần trước đó. Những năm tháng lang thang cùng mẹ và dì Celeste, những năm tháng ích kỷ khi anh bỏ rơi hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, sử dụng họ và rồi cao chạy xa bay. Và những năm tháng chết chóc, dài vô tận làm việc cho Ủy ban và dưới sự kiểm soát của Ủy ban, những kẻ tin rằng mục đích biện minh cho phương tiện, bất kể nó có tàn ác đến đâu.

Và bây giờ anh lại lang thang, chu du từ vùng đất này đến vùng đất khác, lần này chỉ có một mình, không dừng chân quá lâu để lưu lại bất cứ dấu vết nào. Anh rời Venice sau lễ hội Carnivale náo nhiệt, đi về phía tây. Quần đảo Azores ấm áp và yên bình (một quần đảo thuộc Bồ Đào Nha nằm trên Đại Tây Dương), và anh chỉ nghĩ đến Chloe duy nhất một lần, khi những giọng nói Bồ Đào Nha du dương lướt qua tai anh và anh tự hỏi đó có phải một ngôn ngữ nữa cô đã chinh phục được.

Cô còn sống, khỏe mạnh, cô bị giam hãm trong những dãy núi của Bắc Carolina, và đó là tất cả những gì anh cần biết. Cô không còn phải lệ thuộc vào anh bất cứ chuyện gì – thức ăn và hơi ấm và sex và cả mạng sống. Hiện giờ riêng ý nghĩ về anh thôi cũng làm cô run lên sợ hãi. Nếu như cô có giây phút nào nghĩ đến anh.

Anh chỉ có thể hi vọng là cô đừng nghĩ đến. Cô đã gần như bị ốm trong mấy ngày họ ở bên nhau – chết chóc và bạo lực không phải là chuyện thông thường đối với những cô gái trẻ, nhất là một cô gái Mĩ. Nếu cô không tìm được cách bỏ nó lại phía sau thì anh chắc chắn rằng hai đấng sinh thành giỏi giang của cô sẽ lôi cô đi gặp hết nhà trị liệu này đến nhà trị liệu khác đến khi nào cô được chữa khỏi. Chữa khỏi những hồi ức, chữa khỏi anh.

Anh nằm dưới nắng mặt trời, để cho đầu óc trỗng rỗng, để cơ thể hồi phục. Anh chưa biết tiếp theo sẽ đi đâu – Hi Lạp không bàn đến, và vùng viễn đông không phải một ý tưởng hay. Đảng Yazuka đã không đón nhận vụ Otomi mất tích một cách vui vẻ, và mạng lưới tin tức của họ chẳng kém cạnh gì Ủy ban. Một khi anh đặt chân đến Nhật hay bất cứ chỗ nào gần đấy anh sẽ bị phát hiện và xóa sổ ngay, thậm chí giữa hàng triệu người. Và anh thấy mình không còn mong chờ cái chết nữa, dù anh chưa luận ra được vì sao.

Anh sẽ không đến Mĩ, đó là điều hoàn toàn chắc chắn. Mĩ là một đất nước rộng lớn, nhưng nếu anh đặt chân và vùng lãnh thổ khổng lồ của nó anh sẽ cảm nhận được một điều nguy hiểm duy nhất. Một người phụ nữ. Anh sẽ không làm bất cứ chuyện gì hết, nhưng anh cũng sẽ không thể tập trung vào việc gì cho đến khi lại rời khỏi đó. Thậm chí đến Canada cũng quá gần.

Thụy Sĩ có lẽ là một lựa chọn sáng suốt, với thái độ trung lập cứng rắn. Hoặc Scandinavia, có thể là Thụy Điển…

Trời, không được! Anh không bao giờ có thể nghĩ đến Stockholm với bất kì chuyện gì khác nữa ngoài…khỉ thật, anh còn chẳng biết mình đang nghĩ gì. Thế giới của anh tràn ngập hình ảnh cô, bị hỏng hóc do cô. Không còn nơi nào anh có thể chạy tới mà không làm anh nhớ đến cô. Có lẽ rốt cuộc anh cũng thực sự muốn chết.

Hoặc có thể nó chỉ là một phần ăn năn trong anh.

Anh đang uống quá nhiều, nhưng anh biết làm gì khác được khi đang nằm phơi nắng và cố không nghĩ ngợi. Uống rượu và hút thuốc, ngủ với các cô hầu bàn xinh đẹp những khi uống đủ lượng để quên được. Đó là một cuộc sống dễ chịu, anh tự nhủ, đặt chiếc kính râm lên sống mũi và nhắm mắt lại trước ánh nắng Bồ Đào Nha rực rỡ. Có lẽ anh cứ nên sống thế này mãi mãi.

Ánh nắng chỗ anh bị che khuất, và anh nhẫn nại chờ cho nó xuất hiện trở lại. Và rồi anh mở mắt rồi thấy Jensen đứng cạnh chiếc ghế dài của mình.

Trông gã khác hẳn với lần cuối cùng Bastien nhìn thấy, qua căn phòng trong khách sạn Denis nơi gã tháp tùng Ricetti. Mái tóc nâu dài hơn và đen nhánh, gã vận một bộ đồ vải bông chéo, và cho dù đôi mắt gã được cặp kính râm che khuất Bastien vẫn không chút nghi ngờ rằng chúng mang màu sắc khác với màu xanh gốc.

“Anh đến giết tôi à?” anh lười nhác hỏi, không động đậy khỏi ghế. “Đây là chốn nghỉ ngơi công cộng, và tôi ghét phải nhìn thấy anh bị bắt. Chúng ta luôn hòa thuận với nhau – sao anh không đợi đến khi tôi về phòng hay ở một mình trên con phố vắng?”

“Anh cường điệu rồi,” Jensen nói, gieo mình xuống chiếc ghế dài bên cạnh. Không có dấu hiệu rõ ràng của một khẩu súng, nhưng Bastien không ngốc. Chẳng có đặc vụ nào ra ngoài lại không mang vũ khí. Có quá nhiều kẻ thù vô danh, ẩn mình. “Nếu muốn giết anh tôi đã giết từ Paris rồi, khi Thomason ra chỉ thị cho tôi, chứ đã chẳng để anh đi.”

Bastien cười nhạt. “Tôi đã đoán là anh. Điều gì làm anh đổi ý hả?”

“Thomason là tên chó đẻ, lão sẽ không ngồi ghế đó được mãi đâu. Còn anh là mặt hàng quá ư giá trị để dội trôi đi đơn giản.”

Bastien cười nhạt. “Xin lỗi nha, Jensen. Giá trị sử dụng của tôi hết hạn rồi. Cứ ra tay đi.”

Jensen lắc đầu. “Tôi chỉ giết người khi được trả tiền,” gã nói. “Anh không muốn biết lí do tôi ở đây sao?”

“Nếu không phải để giết tôi thì tôi cho là để khuyên tôi trở về với gia đình. Và anh tốn thời gian rồi. Bảo với Thomasson là lão cứ tự sướng một mình đi.”

“Thomason không biết tôi ở đây, và nếu biết thì lão không vui đâu.”

Bastien nhấc kính lên nhìn đồng nghiệp. “Thế ai cử anh đến?”

“Anh và tôi không phải là hai thành viên duy nhất của Ủy ban có mặt trong các cuộc họp đó.”

“Nói cái gì mà tôi không biết ấy. Như có còn ai khác trả lương cho chúng ta?”

“Đó là thông tin mật, và khi nào anh ra khỏi tổ chức thì thông tin đó quá nguy hiểm để lan truyền rộng rãi.”

“Thôi được,” Bastien nói, lại hạ kính xuống mắt. “Tôi không về đâu, và anh cứ bảo lại như thế. Một là anh giết tôi không thì biến đi cho.”

“Tôi không ở đây để đưa anh về, tôi đến đây để cảnh báo cho anh.”

“Tôi không cần những lời cảnh báo, Jensen. Từ trước tới giờ tôi vẫn sống chung với nó, tôi có thể sống dài dài chừng nào còn tâm trạng.”

“Không phải anh, Bastien. Cả hai ta đều biết anh luôn sống trong nguy hiểm. Đó là cô bạn Mĩ bé bỏng của anh. Chúng tôi nghĩ bọn chúng đã tìm thấy cô ấy.”

Mùa xuân đến sớm trên những ngọn núi bắc Carolina, nhưng Chloe không có tâm trạng nào để nhận ra. Cha mẹ cô ra sức chiều chuộng cô, các anh chị cô vỗ về cô, các cháu trai và cháu gái là nguồn vui cho cô, nhưng ở một nơi đau buốt và tơi tả bên trong cô vẫn đang rỉ máu. Mỗi lần cô tưởng nó đã liền sẹo thì một điều gì đó lại gợn lên trong óc cô, và cô lại bắt đầu run rẩy.

Maureen, lúc ngã xuống tuyết, con dao bay ra khỏi tay cô ta, máy chảy thành một lớp dày trên tuyết. Sylvia với đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào thần chết đến mang mình đi. Những xác người hỗn độn, những tiếng la hét, mùi máu ở khách sạn Denis. Cứ nghĩ tới là cô lại run lên, và không có ai bên cạnh để nhắc cô hãy thở đều nữa cả.

Tất cả bọn họ đều đã chết – cô đã tìm hiểu chắc chắn. Cảnh sát đã xông vào hiện trường chỉ giây lát sau khi cô và Bastien nhảy khỏi ban công, những người còn sống sót qua vụ thảm sát cũng chết trong bệnh viện sau một thời gian ngắn. Do đó chẳng còn ai để tiết lộ sự thật. Monique đã chết tại chỗ, bị bắn thẳng vào mặt, Bastien đã bảo cô thế. Nam tước cầm cự được một đến hai ngày, và những kẻ còn lại đều không qua khỏi.

Duy có một điều cô không chịu nghĩ đến là Bastien. Theo những gì cô biết thì anh đã chết – anh đã bất cần và đón đợi nó đủ lâu, và anh đã trúng đạn. Thế nhưng anh không phải là người bị chết một cách dễ dàng. Có thể anh đã chuyển sang một nhiệm vụ mới, hoặc có thể…

Dù thế nào đi nữa, cô cũng sẽ không nghĩ về anh. Anh chỉ còn là phần quá khứ đen tối, hỗn độn, mà cô không có cách nào làm sáng tỏ, bất kể cô nỗ lực đến đâu. Cho nên cô buông xuôi, sống qua những tháng ngày của mình trong trong trạng thái bình tĩnh, bằng lặng, trong lúc cha mẹ quan sát cô bằng cặp mắt lo lắng.

Họ đang bắt đầu kì nghỉ giữa tháng tư. Cô đã đăng ký mấy khóa học ở một trường đại học. Tiếng Trung Quốc là một thử thách đủ để giữ cho tâm trí cô bận rộn, và cô sẽ bắt đầu làm công việc tình nguyện viên tại bệnh viện trong khoảng tuần tới. Đến mùa thu cô sẽ sẵn sàng tìm một công việc thực sự, thậm chí dọn ra ở riêng bất chấp cha mẹ cô có phản đối. Cô đang dần bình phục, và cô từ chối suy nghĩ xem mình đang bình phục khỏi vết thương nào. Cô chỉ biết là phải mất thời gian.

Hiện tại cô đã an toàn. Nhà Underwood sở hữu hai trăm mẫu Anh bên sườn một ngọn núi nhỏ, và ngôi nhà rộng rãi của họ rất thoải mái, tiện nghi và yên tĩnh một cách dễ chịu. Thêm vào đó trang trại cũ của họ đã được nâng cấp lại, nó liên tục bị phá dỡ và sửa chữa trong một trăm năm qua, và tình trạng mới đây của nó thật bừa bãi, lộn xộn và vô cùng ấm cúng. Mẹ cô không có những yêu cầu khắt khe đối với sự ngăn nắp, và trong khi gia đình có người giúp việc hàng tuần giữ cho nhà cửa sạch sẽ, thì sự trật tự là một thất bại không bàn cãi. Mọi thành viên nhà Underwood có rất nhiều đam mê. Sách vở và các công trình nghiên cứu, cần câu cá, máy khâu, kính hiển vi và kính thiên văn và bảy máy tính thường xuyên sử dụng chiếm hết bất cứ diện tích nào có thể tận dụng.

Ngay cả nhà nghỉ cũng không ngoại lệ, chủ yếu là vì Chloe đang cố hết sức làm cho mình bận rộn. Cô đọc sách liên miên – các chương trình truyền hình thì quá phù du để khiến cô phân tâm. Cô đan len, cô chơi trò Tetris trên máy Game Boy của mình với sự tập trung rất mực mỗi khi phải ra ngoài nơi công cộng (trò này Việt Nam gọi là xếp gạch đó). Thậm chí cô còn mang nó vào phòng tắm. Những viên gạch nhỏ được xếp vào đúng chỗ mang lại cho cô một cảm giác thoát trần an toàn, và cô mải miết chơi đến khi hai bàn tay tê dại.

Cô sống vui vẻ, tự tại và hài lòng, và cha mẹ cô gần như bị lừa đến độ nghĩ rằng cô đang trên đà hồi phục rất tốt. Chloe biết phải mất nhiều thời gian nữa, nhưng không có gì phải vội. Chừng nào cô có mái nhà của gia đình để nương náu thì cô có thể có tất cả thời gian cô cần.

“Mẹ nghĩ con nên đi với chúng ta,” mẹ cô nói, gạt một chồng giấy tờ trên bàn ăn sáng qua một bên và đặt một ly nước cam lớn xuống. “Con sống khép kín quá.”

“Con không sống khép kín,” cô điềm tĩnh nói, cầm lấy ly nước cam mà cô không muốn uống, biết rằng tranh cãi là vô ích. “Con chỉ là…muốn nghỉ ngơi. Nếu như con làm phiền cha mẹ thì con có thể -“

“Đừng nói nhảm!” Bà mẹ dễ tính của cô rất ít khi nổi giận, nhưng Chloe gần như là người duy nhất chọc giận được bà. “Lúc nào cũng có chỗ cho con ở đây, cũng như trong gia đình này. Con nghĩ cha mẹ xây ngôi nhà nghỉ này là vì sao? Thực ra con biết là mẹ mong con ở ngôi nhà chính. Mẹ cảm thấy yên tâm hơn khi biết con ở cùng một mái nhà với chúng ta.”

Chloe im lặng uống nước cam, không nói gì. Cô biết đây là việc khiến gia đình cô lo lắng nhất, sự lặng lẽ bất bình thường của cô, nhưng cô không thể làm gì được. Việc tán gẫu tâm sự hoàn toàn nằm ngoài khả năng của cô, ngay cả khi nó có nghĩa là làm cho mẹ yên lòng.

“Mẹ biết hội thảo này sẽ rất nhàm chán đối với những người không làm trong ngành y, nhưng các anh chị con đều sẽ ở đó, cũng như gia đình chúng. Nó được tổ chức tại một khu nghỉ dưỡng quyến rũ bên bờ biển, và mẹ biết con sẽ có thời gian vui vẻ…”

“Chưa đâu ạ,” cô nói, giọng cô nhỏ đến mức mẹ cô phải cúi người xuống để nghe rõ. “Mẹ cứ đi và hãy nghỉ ngơi thoải mái. Ở nhà con sẽ ổn. Mẹ chưa hề đi đâu kể từ lúc con về nhà, mà con biết mẹ thích đi du lịch dường nào. Hãy tin con, ở đây an toàn tuyệt đối. Không có ai đến quấy rầy con đâu, và con chỉ tận hưởng mấy ngày tĩnh lặng nữa thôi.”

“Con đã tận hưởng sự tĩnh lặng quá nhiều rồi.” Bà quay sang chồng vừa bước chân vào bếp. “James, thuyết phục nó đi cùng chúng ta đi anh.”

Ông James lắc đầu. “Cứ để con bé một mình, Claire. Nó sẽ ổn. Nó phát mệt vì chúng ta cứ quanh quẩn bên nó đấy. Mấy ngày yên tĩnh sẽ là liều thuốc tốt nhất cho con. Đúng không Chloe?”

Chloe cố gắng nâng cao giọng. “Rất đúng ạ. Mẹ không việc gì phải lo lắng.”

Claire Underwood hết nhìn chồng lại nhìn đứa con út và đều thấy nản lòng. “Tôi không thể đấu lại hai người,” bà nói. “Con hãy nhớ phải bật hệ thống bảo vệ lên, nghe chưa?”

“Chúng ta có bao giờ dùng hệ thống bảo vệ đâu mẹ,” Chloe phản đối.

“Chúng ta đã bỏ một khoản tiền lớn cho nó, chúng ta cũng có thể sử dụng chứ.” Cha cô nói, trở mặt liền. “Nghe có vẻ là một thỏa ước công bằng. Hãy hứa luôn bật hệ thống bảo vệ và cha đảm bảo mẹ sẽ đi cùng cha.”

Chloe chưa từng xét đến khả năng đến phút cuối cùng mẹ cô sẽ không chịu đi nữa. Viễn cảnh cuối tuần bồi đắp quan hệ giữa hai mẹ con khiến cô lạnh toát người. Không phải là cô không yêu mẹ, nhưng những nỗ lực của bà Claire trong việc gần gũi với con gái sai lạc đến khủng khiếp. “Con sẽ dùng hệ thống bảo vệ,” cô nói. “Con sẽ mua cả một khẩu súng và một bầy chó giữ nhà nếu cha mẹ nghĩ là cần thiết.”

“Đừng có giỡn, Chloe.” Mẹ cô đã chào thua chuyện này. “Hơn nữa, mẹ nhớ cha con có một khẩu súng hai mươi mốt năm tuổi ở đâu đó trên gác mái.”

“Tuyệt. Con phải đi đảm bảo là mình biết tìm vũ khí ở đâu khi bị các bộ lạc Mông Cổ tấn công.”

“Hài hước lắm,” mẹ cô lẩm bẩm. “Mẹ biết cả hai cha con đều nghĩ mẹ quá lo xa…”

“Và chúng ta yêu em vì điều đó,” James nói. “Nhưng trong lúc chờ đợi chúng ta phải đi rồi. Em phải soạn tài liệu để phát biểu và anh phải xem chừng mấy đứa nhỏ.” Ông quay lại nhìn Chloe, đang ngồi trên ghế ôm ly nước cam bằng cả hai tay. “Mà nhân tiện, cha nhắc nốt lần này thôi. Tất nhiên là không cần vội, nhưng con hãy lưu ý điều này được không. Cha nghe nói Kevin Mclnerny đã từ New York trở về, làm việc trong một hãng luật ở Black Moutain. Con từng hẹn hò với cậu ta phải không? Một thanh niên đáng mến.”

“Vâng, anh ấy rất tốt,” Chloe nói. Cô còn không nhớ nổi người đó là ai.

“Có lẽ ta sẽ mời cậu ấy đến ăn tối khi nào về,” mẹ cô nói. “Con không thấy phiền chứ, Chloe?”

Cô thà để lũ thằn lằn gặm hết ngón chân còn hơn. “Không sao đâu ạ.”

Mẹ cô nguôi giận hoàn toàn, và lúc đó cha cô đã lại xuất hiện với đống hành lý. “Chúc mọi người đi vui vẻ,” Chloe nói hồ hởi. “Con sẽ không sao đâu.”

Mẹ cô ôm chặt lấy cô, lùi lại để quan sát gương mặt cô lần nữa. Bà không thích những gì bà thấy trên đó, Chloe nghĩ, nhưng cô chẳng thể làm gì được.

“Cẩn thận nhé,” mẹ cô nói.

Mười phút sau họ đã đi khỏi, sự tĩnh mịch hạnh phúc bao trùm ngôi nhà cổ rộng lớn. Cô bật hệ thống bảo vệ lên một cách nghiêm chỉnh, chờ đến khi biết nó đã đi vào hoạt động, và rồi quên bẵng nó. Có một làn hơi lạnh kì cục trong không khí. Hương thơm chín rộ dễ chịu của mùa xuân nhất thời bị ngưng lại. Cô nên theo dõi kênh dự báo thời tiết mới phải, nhưng hình ảnh của những trận bão tuyết ở phương bắc dễ khiến cô run rẩy, nên cô thường kiên quyết tránh nó đi. Bầu trời phủ mây u ám, đe dọa, và gió đã tăng cường, pha thêm một chút lạnh giá. Một đợt không khí lạnh chắc hẳn sắp tràn qua, cô nghĩ, cố trấn định sự hốt hoảng theo bản năng. Nó sẽ không ảnh hưởng đến gia đình cô đi du lịch – họ còn cách rất xa bất cứ cơn bão nào tràn tới. Và nó sẽ không ảnh hưởng đến cô – cô không có ý định đi bất cứ đâu hết. Mà cô đang có kế hoạch nuông chiều bản thân trong lúc họ vắng nhà – ngâm mình thật lâu và nhàn nhã trong bồn tắm thủy lực, xem các chương trình ca nhạc cổ điển trên ti vi. Cô vẫn thích xem những bộ phim chiến tranh kinh điển, nhưng kể từ khi ở Paris về cô nhận ra mình có sức chịu đựng kém đối với phim ảnh bạo lực. Nhưng Judy Garland (1) và Gene Kelly (2) đã ru cô vào niềm tin về một miền hạnh phúc nơi mọi người thức dậy để ca hát và nhảy múa. Trong mấy ngày tới đây, cô sẽ sống trong miền hạnh phúc ấy, mặc kệ thời tiết bên ngoài ra sao.

Trời đang tối dần lúc cô bước ra khỏi bồn tắm nước nóng, cô quấn mình trong chiếc áo choàng dày bằng vải bông và đi xuống bếp. Tấm bảng bảo vệ đang nhấp nháy, những ánh đèn xanh nói với cô rằng tất cả đều an toàn và đảm bảo, và lần đầu tiên trong nhiều tháng trời cô nhận ra mình đói meo. Có lẽ do mẹ không có ở đây để ép cô ăn. Cô mở chiếc tủ lạnh khổng lồ luôn chất đầy thực phẩm, tìm cho mình mấy miếng bánh táo còn thừa. Cô lấy chúng ra, đóng cửa tủ lại sau lưng, để rồi thấy mình đang nhìn thẳng vào đôi mắt đen lạnh lùng của Bastien Toussaint.

(1)Judy Garland (tên khai sinh Frances Ethel Gumm, 10 tháng 6 năm 1922 - 22 tháng 6 năm 1969) là một nữ diễn viên và ca sĩ Mĩ. Suốt 45 năm hoạt động nghệ thuật trong 47 năm tuổi đời, Garland ghi dấu ấn như một ngôi sao âm nhạc và diễn viên đa tài mang đẳng cấp quốc tế. Bà đã giành được một giải Oscar dành cho thanh thiếu niên, một giải Quả cầu vàng và một giải Giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille cho sự nghiệp diễn xuất, cũng như nhiều Giải Grammy và Giải Tony. Một trong những bài hát nổi tiếng của bà là Over the rain bow (Wikipedia).

(2) Gene Kelly: diễn viên chính trong bộ phim ca nhạc nổi tiếng Singing in the rain.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.