Sau buổi Khang Hy triệu kiến riêng Dận Nhưng, tình hình không hề thay đổi, Dận Nhưng vẫn bị cấm cố, văn võ trong triều đều nhớn nhác, không sao dò đoán được tâm tư hoàng thượng. Cuộc tranh giành giữa các phe phái càng thêm dữ dội, kẻ gắng sức bảo vệ thái tử, kẻ vạch vòi những hành vi xấu của y. Nhốn nha nhốn nháo, đỏ mặt tía tai, hết người này cãi dứt lại người kia xông vào.
Các a ca thì mỗi người phản ứng một kiểu. Từ biên tái về, Thập tam ít vào cung hẳn đi, Nhược Hi hầu như không gặp gã. Tứ a ca dứt khoát cáo bệnh nằm nhà, đóng cửa không ra. Bát a ca cũng không hề đặt chân đến Càn Thanh cung. Cửu a ca và Thập tứ a ca thi thoảng mới xuất hiện, nhưng đến đi đều vội vàng, lại toàn chạm mặt ở chỗ tai vách mạch dừng nên khó có cơ nói chuyện với nhau.
Khang Hy dửng dưng quan sát tất cả, không hé một lời. Có lúc nghỉ ngơi, ông thậm chí còn đàm đạo về trà với Nhược Hi, nào là nước ở đâu thì tốt, trà nào có cái tên thi vị, thơ từ ngâm vịnh về trà của ai là sát thực hơn hết. Trông thái độ ông thư thả như vậy, Nhược Hi và Lý Đức Toàn hầu hạ cũng ung dung hơn, tựa hồ chưa hề xảy ra biến cố gì.
Nhược Hi lặng lẽ theo dõi diễn biến mà khâm phục Khang Hy vô hạn. Lòng ông nung nấu bao nhiêu chuyện, nhưng chẳng ai nhìn mặt ông mà dò đoán được chút gì. Ngược lại, ông cứ lẳng lặng thâu tóm nhất cử nhất động của những người xung quanh.
oOo
Ngày tháng chênh chao như thế đến tận ba mươi Tết. Cựu thái tử Dận Nhưng vẫn bị giam cầm, Đại a ca Dận Nghị cũng bị cấm cố, trong triều ai nấy đều nhấp nhổm vì chiếc ghế thái tử chưa có chủ. Tiệc tất niên dù vẫn háo hức đèn kết hoa giăng, song không giấu nổi những đợt sóng cồn bên dưới. Đúng giao thừa thì Nhược Hi đến lượt trực đêm trong điện, Ngọc Đàn chủ động đề nghị đổi ca, nhưng Nhược Hi vốn không muốn nhìn cảnh tươi tỉnh giả tạo kia, bèn từ chối, bảo cô cứ vui vẻ đi chơi. Vậy là nàng thức trông đèn nến và lò hương trong điện Càn Thanh, một mình một bóng đón năm Khang Hy thứ bốn mươi tám.
oOo
Sáng mùng Một Tết, trời còn tờ mờ, Nhược Hi đã ngồi lặng lẽ bên bàn. Nàng đang đăm đăm dõi ra ngoài song thì Ngọc Đàn đi ngang cửa sổ. Thấy nàng thất thần, cô ái ngại hỏi:
- Tối qua chị trực cả đêm, sao không ngủ đi một lát?
Bấy giờ Nhược Hi mới choàng tỉnh, cười đáp:
- Tôi đi nằm đây! – rồi đóng cửa sổ.
Ngọc Đàn mỉm cười đi ra khỏi cổng.
Nhược Hi vẫn tần ngần bên bàn. Mặt trời ngoài kia cứ ấm dần lên, cảnh trí trong nhà cũng sáng sủa theo, nhưng lòng nàng càng lúc càng trĩu nặng. Nàng úp mặt xuống bàn, nghĩ Vì sao, vì sao còn chưa tới? Chẳng lẽ năm nay chàng quên? Bận việc gì khác nên lỡ hẹn? Hay sau này không bao giờ có nữa?
Nàng đợi từ mờ sương tới lúc đứng bóng, tiểu thái giám đã vào đưa cơm trưa mà vẫn không ai đến. Nhược Hi nhạt mồm nhạt miệng, chẳng buồn ngó ngàng ăn uống, bèn đặt Hệ thống cấm nói bậyg cơm sang một bên, đi lại giường nằm vật ra, giày cũng không buồn cởi. Đàn ông thì có bao nhiêu kiên nhẫn với một người đàn bà đâu? Biết thế nên nàng đã chuẩn bị tâm lý từ lâu, tưởng rằng mình sẽ bình tĩnh đón nhận thời khắc “chàng buông tay, rời xa ta bất cứ lúc nào”. Nhưng hóa ra nàng chỉ “tưởng” thôi, khi sự việc ập đến thật, nàng vẫn chua xót, vẫn mất mát, vẫn khổ đau!
Lòng đang tái tê, chợt nghe có tiếng gõ cộc cộc, Nhược Hi vội chồm dậy, chỉ bằng vài bước chân đã ào ra kéo cửa, nhưng nàng chững ngay lại. Bên ngoài là một tiểu thái giám mặt mũi lạ hoắc. Thấy Nhược Hi ngơ ngác nhìn mình, hắn vội cúi chào, rồi cười tươi:
- Nô tài là Tiểu Thuận Tử, bình thường cũng ít đi lại ở điện Càn Thanh nên cô nương thấy không quen đấy!
Nhược Hi nghe xong, vẫn không nói gì, chỉ chòng chọc nhìn hắn. Tiểu Thuận Tử liếc quanh rồi móc trong ngực áo ra một gói lụa đỏ. Nhược Hi đang thẫn thờ mà cũng không khỏi ngạc nhiên, tại sao lại là gói kìa, nhưng vẫn gắng định thần, đưa tay đón lấy. Thấy nàng nhận rồi, Tiểu Thuận Tử vui vẻ vẩy tay cúi chào rồi nhanh nhảu chạy đi.
Nhược Hi đóng ngay cửa lại, ngồi xuống bên bàn, đợi trấn tĩnh mới mở lớp vải ra.
Bên trong là một sợi dây chuyền.
Nàng cầm lên xem xét. Dây gồm vài sợi bạc cực mảnh cuốn vòng, đan kết với nhau, trông như sóng gợn lăn tăn, mặt dây chuyền là một đóa mộc lan bằng bạch ngọc lóng lánh, trông tinh xảo như hoa thật thu nhỏ, tưởng đâu ghé mũi vào thì sẽ ngửi thấy hương thơm dịu êm. Một ý nghĩ xẹt qua óc, Nhược Hi choáng cả người. Thì ra không phải của “người ấy”, mà là của “người ấy”. Đóa mộc lan lành lạnh như làn môi ai… Một cơn tê buốt thoắt từ lòng bàn tay xộc thẳng vào tim, Nhược Hi ném phắt sợi dây xuống bàn, xạch một tiếng khô khốc, nó rơi đúng vào mảnh lụa đỏ đang mở.
Mảnh lụa đỏ tươi trải ra làm nền, bên trên là làn sóng bạc uốn lượn, yên ả nổi lên một bông mộc lan trắng tinh khôi. Nhược Hi đờ đẫn nhìn, cảm thấy bên tai lại có tiếng thở khe khẽ, trên má lại có đôi môi băng giá vờn qua. Người lạnh toát mà tim thì nóng bừng bừng, nàng bật dậy khỏi ghế, hấp tấp dúm mảnh lụa, mở rương vùi nó xuống tận đáy. Ngón tay vô tình lướt qua ba lá thư cũng bị nhét dưới cùng, nàng trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cầm lòng không đậu, bèn lấy thư ra, đặt trên bàn, im lìm nhìn chúng. Nội dung thư nàng đã thuộc làu, nét chữ màu mực cũng đã in sâu vào tâm tưởng. Trong những đêm đằng đẵng nơi cung điện ngột ngạt cô liêu, nàng từng mở ra nhẩm đọc cho qua bao lần mất ngủ.
Khóe miệng ứa một nụ cười cay đắng, nàng thì thầm tự nhủ: “Sau này không còn nữa rồi!”, và hít một hơi thật sâu, rút bức thư dưới cùng, chầm chậm giở ra:
Cửa đông một khoảnh đất bằng
Cỏ như lư mọc tầng tầng trên đê,
Nhà nàng thì vẫn ngay kia
Mà nàng chẳng biết đi về nơi nao.
Cửa đông cây lật xanh xao
Lớp nhà lớp cửa dưới rào giăng giăng,
Tưởng ta không nhớ nàng chăng
Mà nàng chẳng thấy ngó ngàng đến ta.
Đây là lá thư nhận vào ngày mùng Một Tết năm Khang Hy thứ bốn mươi lăm.
Lá thứ hai:
Bước chân ra khỏi cửa đông,
Ngẩng nhìn gái đẹp má hồng khắp nơi,
Tuy rằng sắc vóc gọi mời
Nhưng ta không chuộng những lời bướm ong,
Đã riêng vương vấn trong lòng
Một người lặng lẽ nhớ mong tháng ngày.
Đang âm thầm đọc, chợt nghe cửa gõ cốc cốc, Nhược Hi vội vơ hết thư lại, vừa hỏi “Ai đấy?” vừa ngó quanh, rồi nhét bừa thư vào chăn.
Bên ngoài đáp: “Nô tài Phương Hợp!” Lòng Nhược Hi như mở nắp lọ ngũ vị hương, chua xót mừng rỡ tuyệt vọng sững sờ chộn rộn, nàng nhất thời đứng ngẩn ra.
Phương Hợp đợi chốc lát, thấy trong nhà không động tĩnh gì, lại gõ gõ, gọi khẽ: “Cô nương!” Bấy giờ Nhược Hi mới bầng tỉnh, vội vã đi mở cửa. Gặp Phương Hợp, nàng không dằn được lòng, hỏi ngay:
- Sao năm nay lại muộn thế?
Phương Hợp mỉm cười đáp nhỏ:
- Bát gia cẩn thận dặn, hôm qua cô nương trực cả đêm trong điện, nên để cô nghỉ, đừng đến sớm quá.
Nhược Hi nghe rồi, lòng càng chứa chan cảm xúc, kìm nén không được, tỏ lộ không xong, cứ nghẹn ngào nơi ngực, nàng lại đứng sững như ngây ngốc. Phương Hợp ngó quanh, đoạn móc một phong thư nhét vào tay Nhược Hi, sau cúi chào rồi đi.
Nhược Hi nắm lá thư, ngồi ở bàn hồi lâu không nhúc nhích, cuối cùng chậm chạp mở thư ra. Vẫn thứ giấy tẩm hương bách hợp loại cực phẩm, vẫn nét chữ viết theo lối tiểu khải, ôn hòa mà cứng cáp:
Trời buông màn tối
Sao vẫn chưa về,
Vì vua chẳng phải
Dầm sương tội gì?
Trời buông màn tối
Sao vẫn chưa về,
Vì vua chẳng phải
Lấm thân tội gì?
Hệt như bị dao chích, Nhược Hi bỗng nghe nhói trong tim, không đừng được phải đưa tay ôm ngực. Nàng sấp mặt xuống bàn, lòng cuộn nổi trăm tơ ngàn mối, ngực tức nghẹn muôn ý vạn lời, nhưng không biết trút vào đâu, chỉ đành hỏi mình, hết lần này tới lần khác: “Sao vẫn chưa về? Tại sao? Sao vẫn chưa về? Tại sao?”