Gia Luật Hưu Ca nghe thấy La Đông Nhi nói vậy đáng lẽ định từ chối, nhưng nhìn thấy ánh mắt cầu khẩn của La Đông Nhi, lại mềm lòng. Khó khăn lắm La Đông Nhi mới mở lòng với hắn ta, hắn không muốn vì mấy chuyện nhỏ nhặt mà làm nàng không vui.
Chỉ là mấy tên nô lệ mới không chịu khuất phục, ở Thượng Kinh Thành cũng chẳng có chuyện gì, cùng lắm đến lúc đó thì phái mấy người ra giám sát bọn chúng là được rồi, đỡ phải phiền lòng nhiều, nghĩ đến đây, Gia Luật Hưu Ca bèn rộng lượng nở một nụ cười rồi nói: “Dù cho nàng muốn gì, chỉ cần ta có, ta sẽ cho nàng hết. Chỉ là mấy tên nô lệ thôi mà, có gì phải lo lắng đâu. Hồi Ly Bảo à, bổn đại nhân muốn mua lại bọn chúng, ngươi tính xem tiền nong thế nào…”
Hồi Ly Bảo đứng ở một bên đã nghe thấy rất rõ ràng, thấy bộ dạng nghe lời mỹ nữ của Gia Luật Hưu Ca, vội vàng cười nói: “Hưu Ca đại nhân, ngài nói gì thế, chỉ là mấy tên nô lệ thôi mà, đại nhân nói là tiểu nhân nào dám lấy tiền? Ngài cứ đưa chúng đi đi, dâng chúng cho đại nhân là diễm phúc của tiểu nhân.”
Gia Luật Hưu Ca cười, thò bàn tay đang đút trong ngực áo ra, nói: “Được, ngươi đã có lòng như vậy thì ta không khách khí nữa. Hai người các ngươi, đi theo Đông Nhi cô nương.”
Mắt Loan Đao Tiểu Lục sáng lên, vội vàng kéo La Khắc Địch nói: “Còn có người này nữa.”
Dáng vẻ La Khắc Địch lúc đó không giống với lúc đầu, Gia Luật Hưu Ca phải nhìn kỹ mới nhận ra hắn, Gia Luật Hưu Ca nhớ mang máng, người này đứng đầu Tống Quân,sau khi bị bắt cũng chẳng hỏi thêm được chút thông tin nào, cuối cùng mới bị bán làm nô lệ, không ngờ hôm nay lại gặp lại hắn.
Gia Luật Hưu Ca chau mày nói: “Người này, là tù nhân Tống Quân, thật là không nên….Đông Nhi cô nương, nàng không có can hệ gì với hắn chứ?”
Thời gian này ở trên thảo nguyên, Loan Đao Tiểu Lục, Thiết Đầu và La Khắc Địch thân như chân tay, lúc nào cũng giúp đỡ che chở lẫn nhau, nên tình bạn rất keo sơn, ngày hôm nay thấy mình có cơ hội từ bỏ kiếp nô lệ, sao có thể nhẫn tâm để lại một mình La Khắc Địch, đầu Loan Đao Tiểu Lục lóe sáng, hắn vội vàng nói: “Đại nhân, hắn là anh họ xa của Đông Nhi cô nương, sao lại không liên quan được chứ?”
La Đông Nhi vốn thông minh, chỉ là trước đó không nhanh nhạy nên không làm chủ được mình, giờ đã được tôi luyện trong ổ địch một thời gian dài, đã rất nhanh nhạy, nghe Loan Đao Tiểu Lục nói vậy, hiểu được rằng hắn muốn bảo vệ người Hán này.
Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu là vì cô mới bị bắt đến Khế Đan, La Đông Nhi vô cùng hổ thẹn, hắn đã muốn giữ lại người này, thì dù có thế nào nàng cũng phải làm theo mong muốn của hắn. Ngay lập tức nàng ngước đầu nhìn La Khắc Địch, vô cùng kinh ngạc, mừng rỡ nói: “Đúng là anh họ thật sao? Huynh…Sao huynh lại ở đây?”
Gia Luật Hưu Ca rất bực mình, mặc dù hắn yêu La Đông Nhi, nhưng không đến độ vì một người con gái mà mất hết lý trí, cam tâm bị người khác đem ra làm trò cười, thấy bọn họ hợp nhau vào diễn kịch như vậy, coi mình như tên ngốc, trong lòng hắn vô cùng tức tối, hắn đang định bộc phát ra, nhưng khi chỉ tay vào La Khắc Địch, hắn bỗng nhớ lại tên mà La Khắc Địch báo cho hắn biết: La Hạo.
Hắn họ La, lúc đó chưa gặp được Đông Nhi cô nương, chẳng lẽ lại trùng hợp như vậy được sao? Trừ phi, hắn thật sự là anh họ của La Đông Nhi. Gia Luật Hưu Ca nghĩ lại, quân phía bắc Đại Tống hầu hết là chiêu mộ ở vùng đó, người này là người đứng đầu Biên Quân, lại mang họ La, không chừng là anh họ của La Đông Nhi thật. Nghĩ thế, hắn lại suy xét, trông tên Hán Tử gầy guộc đó có vẻ gian manh, nhưng Đông Nhi cô nương lại rất ngây thơ thuần khiết, nếu không phải anh họ của nàng, thì bảo nàng ấy đóng kịch sao có thể tự nhiên như vậy được. Giờ đồng ý, về sau đi điều tra thêm thân phận của bọn chúng, nếu có điều gì bất thường thì bọn chúng cũng chẳng cao chạy xa bay được.
Nghĩ vậy, Gia Luật Hưu Ca bèn hừ một tiếng, rồi nói: “Đã vậy thì ngươi cũng đi theo đi. Các ngươi hãy nhớ lấy, có Đông Nhi cô nương ở đây, ta không làm khó các ngươi. Nhưng các ngươi tốt nhất là cũng an phận thủ thường cho ta, nếu ngoan ngoãn khuất phục, thì về sau trút bỏ được cái thân phận nô lệ cũng không phải là khó. Nếu không thì…Hừm! Nếu xảy ra chuyện gì, không chỉ các ngươi gặp nạn, mà còn liên lụy đến cả Đông Nhi cô nương đấy, hiểu không!”
Loan Đao Tiểu Lục vội vàng gật đầu, La Khắc Địch cũng giả bộ nhận ra Lã Đông Nhi, rất vui mừng. Vì chuyện này mà đã bỏ xa quá với Tiêu Hậu Nương Nương, Gia Luật Hưu Ca có trách nhiệm phòng thủ, không thể để lỡ thêm giây phút nào nữa, đành phải dặn Đông Nhi mau chóng đi theo, sau đó hắn ta vội vàng lên ngựa đuổi theo Tiêu Hậu.
Gia Luật Hưu Ca đi rồi, Lã Đông Nhi dặn dò mấy nữ binh cùng ngồi chung ngựa, để chiến mã cho La Khắc Địch và mấy người khác. Ba người lên ngựa, Thiết Ngưu không không nhịn được nữa liền nói: “Tẩu tẩu, sao tẩu lại lưu lạc đến Khế Đan, tên quan Khế Đan đó rất khách khí với tẩu, tẩu…tẩu nhất định khuất phục bọn chúng rồi, nếu không sao hắn có thể để tẩu chỉ huy ngần này nữ sĩ Khế Đan?”
La Đông Nhi vội vàng giải thích: “Đại quan Khế Đan đó là Gia Luật Hưu Ca, là Đại Thích Ẩn Ty của Khế Đan, chuyên quản mấy quan lại trong hoàng tộc, quyền lực rất lớn. Hắn…Hắn đúng là rất khách sáo với ta, nhưng chưa từng có hành động nào quá trớn cả, là một người quân tử thực thụ, ngươi đừng nghĩ linh tinh.”
La Đông Nhi vừa nói hộ cho Gia Luật Hưu Ca, ngay cả Loan Đao Tiểu Lục cũng lộ ra vẻ nghi ngờ, những người Khế Đan mà họ đã từng gặp đều rất tàn bạo hung hắn, một nữ tử người Hán như La Đông Nhi, có thể được người Khế Đan đối xử như vậy sao? Trừ phi là đã cho tên đại quan Khế Đan đó món hời nào đó, nên họ mới để nàng ta sống tử tế đến vậy.
La Đông Nhi nhìn biểu hiện của họ, vừa giận vừa xấu hổ, nói: “Sau khi Đông Nhi bị bắt đến, may mà có hoàng hậu Tiêu Nương Nương của Khế Đan sủng ái, từ đó đến giờ ở bên cạnh người, không bị chịu nhục gì hết, những điều Đông Nhi nói đều là sự thật, hai vị sư huynh không tin ta sao?”
Loan Đao Tiểu Lục nghĩ lại việc La Đông Nhi vì Dương Hạo mà không ngại đem thân mình ra đỡ đạn, trước kia ở Tử Ngọ Cốc đã từng vì cứu người chỉ huy và giữ gìn sự trong sạch của mình mà tự tử, tính cách của nàng mạnh mẽ như vậy, không thể không biết mình nên làm gì, bèn vội vàng nói: “Đại tẩu, ta không tin người Khế Đan biết phép tắc như vậy, nhưng ta tin vào con người tẩu. Tẩu nói là phải thì nó sẽ là phải, có điều ta thấy Hưu Ca gì gì đó chưa chắc đã có tấm lòng tốt đâu, tẩu phải hết sức cảnh giác với hắn ta, phải giữ khoảng cách.”
La Đông Nhi nói: “Điều này đương nhiên ta hiểu, chúng ta đừng dừng lại lâu quá làm người khác sinh nghi, mau lên ngựa, đợi đến khi vào Kinh Thành, lúc khác nói chuyện sau.” Thiết Ngưu thấy Loan Đao Tiểu Lục nói như vậy, chỉ còn cách vất bỏ hết những gì đang nghĩ, lên ngựa đi tiếp.
Không lạ lùng gì khi Thết Ngưu và Loan Đao Tiểu Lục có cách nghĩ như vậy. Cũng như tác giả, hai mươi năm trước khi từ một làng nhỏ chuyển đến thành phố Thẩm Dương, bạn học lúc nào cũng nhắc nhở bằng lời của mẹ: “Nghe nói người trong thành nuôi báo kiếm tiền, gặp phải trẻ con đi lạc là sẽ bắt về cho báo ăn, con phải cẩn thận đấy, không được đi lên phố một mình đâu.”
Mấy học sinh không biết gì nói vậy cũng còn hiểu được, nhưng ngay cả cô giáo cấp một của thôn đó cũng nói: “Trong thành ô nhiễm rất nặng nề, ngẩng đầu không nhìn thấy trời đâu, toàn là bụi, cả thành Thẩm Dương chẳng có lấy một cái cây. Người ở đây cũng rất thô bạo, người trong quán rượu, chỉ cần nói không hợp nhau là có thể vác dao ra chém nhau ngay. Những cảnh như vậy ở đâu cũng có thể bắt gặp.” Những lời nói đó làm cho tại hạ thật là khủng hoảng, không biết thành phố sao lại có thể là một nơi bẩn thỉu và đầy cạm bẫy như vậy.
Thời kỳ đó Tống Liêu không hay giao lưu với nhau, lại chịu sự uy hiếp của Đả Thảo Cốc, người dân đều hận thù với người phía bắc, làm cho hình tượng của họ bị xấu đi đáng kể, lão bách tính nói ở Bắc Quốc ô nhiễm nặng nề, chỉ có một bầy người man rợ, không có chút văn minh nào.
Nhưng không ai biết rằng Khế Đan đã thành lập được hơn mười sáu năm rồi, thể chế chính trị còn kiện toàn hơn ở Trung Nguyên, do 16 châu của U Vân có rất nhiều người Hán, khi Trung Nguyên trải qua thời kỳ Ngũ Đại, lại có rất nhiều người Hán bao gồm cả thương nhân và người đọc sách rời từ bắc đến Khế Đan tránh nạn, từ đó định cư lại, mức độ Hán hóa của người tộc Khế Đan cũng khá cao.
Lúc đó, người Khế Đan thống trị từ khu vực từ tây đến Lưu Sa, từ đông đến Hắc Long Giang và khu vực thuộc về Bột Hải, từ bắc đến song Khắc Lỗ Luân bây giờ, phía nam bao gồm 16 châu Yến Vân. Khu Khế Đan cũ và khu định cư của dân du mục Tây Bắc lấy kinh thành làm trung tâm vẫn giữ chế độ nô lệ. Sau khi phía Đông diệt Bột Hải, vẫn giữ lại chế độ phong kiến cũ vốn có. 16 châu của U Vân phía nam và ba khu vực khác nhau của phía nam vẫn giữ nguyên xã hội phong kiến và chế độ chính trị cũ. Từ đó hình thành nên Tây bộ, Đông bộ và Nam bộ. Ba khu vực này có những dân tộc không giống nhau, thực hiện những chế độ không giống nhau, thống nhất dưới sự thống trị của triều Liêu. Quý tộc Khế Đan mặc áo Hán, đọc văn Hán, học tiếng Hán, ba thứ này lưu hành rộng rãi, rất nhiều quý tộc Khế Đan tinh thông cưỡi ngựa bắn thú, giỏi chiến đấu, về đến phủ, thì lại cầm kỳ thi họa, đàm thơ luận văn, điều gì cũng biết. Dù là pháp chế hay văn hóa, Bắc Quốc đều đã có trình độ khá cao, đó không phải là một thế giới đen kịt không cách nào xóa bỏ được.
Nhưng nô lệ vẫn chưa có nhân quyền, còn không bằng nô gia của các nhà người Hán, đó là sự thật. Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu vừa bị bắt, liền ở trong cảnh thân phận nô lệ thấp bé, lại bị nhốt trong trại của Hồi Ly Bảo, sự hiểu biết duy nhất về Khế Đan là roi vọt và mắng nhiếc, nên cách nhìn của họ đương nhiên là tiêu cực.
La Khắc Địch thì hiểu một chút về người bắc, biết người bắc cũng có cha mẹ vợ con, cũng biết trung quân ái quốc, hơn nữa người bắc sùng bái văn hóa của người nam, rất nhiều người đến từ Trung Nguyên nhận được sự trọng dụng của người Khế Đan, trở thành những quan cấp cao ở Khế Đan. Vị cô nương Đông Nhi này từ trước đến giờ đều ở trong tầng lớp những nhân vật bề trên ở Khế Đan, lại được hoàng hậu Khế Đan sủng ái, sự việc đó không kỳ lạ chút nào.
Hắn nói: “Đông Nhi cô nương nói đúng lắm, chúng ta mặc dù đã chịu khổ, nhưng trong lão bách tính Bắc Quốc, chẳng khác gì với chúng ta cả. Người bắc cũng có hiếu nghĩa, lễ tiết, chỉ là thân phận nô lệ của chúng ta, không ở trong số đó. Đông Nhi cô nương được hoàng hậu sủng ái, có cuộc sống như ngày nay không phải là điều gì lạ lẫm.”
Hắn đảo mắt một lượt, thấy những nữ binh đó đi đàng sau không nghe thấy họ nói gì, bèn tiếp lời: “Đông Nhi cô nương, ta thấy Gia Luật Hưu Ca đó vẫn hiềm nghi ta, ta và cô nương phải thống nhất lại với nhau về thân phận phòng tên đó hỏi ra.”
“Được!” La Đông Nhi cũng cảnh giác đảo mắt xung quanh, rồi nói nhỏ: “Tổ tông của ta, là hệ họ Hoài Nam. Tiên phụ là La Công Viễn, định cư ở Bá Châu Liễu Gia vào 17 năm trước, lấy dạy học kiếm kế sinh nhai, gia mẫu…”
Nàng còn chưa nói xong, La Khắc Địch liền tròn xoe mắt, nói: “Hoài Nam La Công Viễn? Quý danh lệnh đường có phải là Lý Yên Nhiên không?”
Lần này đến lượt Đông Nhi ngạc nhiên rồi, nàng kinh ngạc nhìn La Khắc Địch, nói: “Quý danh của mẹ ta, ngoài ta và tiên phụ, không ai biết, sao huynh..sao huynh lại biết?”
La Khắc Địch kích động, nói: “Đông Nhi cô nương, à không…Đông Nhi muội muội, muội đã từng nghe lệnh tôn nhắc đến La Công Minh chưa?”
La Đông Nhi nghĩ một lúc rồi lắc đầu: “Chưa từng nghe qua…”
Mặt La Khắc Địch bỗng buồn, rồi cười đau khổ đáp: “Thúc phụ…đúng là đến chết cũng không tha thứ cho cha ta…”
La Đông Nhi lặng người: “Huynh nói gì cơ?”
La Khắc Địch nhìn nàng, nghiêm túc nói: “Đông Nhi, ta….ta đúng là anh họ của muội, gia phụ La Công Minh, là anh của lệnh đài, lệnh tôn….lệnh tôn từng giận gia phụ ta ta tham gia vào Ngũ Triều, ra làm quan, bị người đời chỉ trích, như kẻ vô học, hai huynh đệ thường hay cãi nhau. Một buổi tối 17 năm trước, hai người uống rượu xong cãi nhau, gia phụ bực quá tát thúc phụ một cái, không ngờ thúc phụ không chịu được, từ đó bỏ nhà ra đi, không còn tin tức gì nữa. Không ngờ, phụ thân ta tìm mọi người mười mấy năm rồi vẫn không thấy tin tức gì, huynh muội chúng ta lại tương phùng ở đây…”
La Đông Nhi tròn xoe mắt, chiếc miệng đáng yêu mở rộng thành hình chữ O, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu ở hay bên nghe xong cũng đờ người. Loan Đao Tiểu Lục không ngờ mình chỉ nói bừa một câu, hai người họ là anh em, giờ lại linh ứng thật rồi: “Bà nó chứ, ta còn trù úm tên Hồi Ly Bảo đó chết không được yêu, sao hắn vẫn chưa chết cơ chứ? A! Đúng rồi…Ta quên không nói thời gian rồi…”
“Trình Phán Quan, Lô Lĩnh Châu của chúng ta tây giáp Đảng Hạng, đông giáp Phủ Châu, muốn làm bạn với Trung Nguyên, không thể thiếu được sự giúp đỡ của Phủ Châu Chiết Thị, bổn phủ lần này đến Phủ Cốc, không biết là sẽ cần thời gian bao lâu. Những ngày ta không ở đây, việc vũ trang do Đoàn Luyện Phó Sử Mục Lão và Kha huynh đệ phụ trách, việc thuế vụ buôn bán do Lâm Bằng Vũ và ba người còn lại phụ trách, việc học phủ do Phạm Tư Kỳ phụ trách, việc tư pháp do ngươi toàn quyền lo liệu. Các vị phải đồng tâm nhất sức, làm cho Lô Lĩnh Châu chúng ta phát triển như vũ bão.”
Trình Đức Huyền cung kính nói: “Phủ Tôn cứ yên tâm đi, tại hạ và các quan sẽ dốc hết sức mình, không để cho Phủ Tôn đại nhân phải lo lắng.”
Mấy ngày này, Trình Đức Huyền biểu hiện rất tốt, làm việc nghiêm túc, thói nghiện rượu cũng đã bỏ rồi. Rất cung kính với Dương Hạo, làm cho người ta không tìm được một lỗi dù là nhỏ nhất. Dương Hạo cũng không biết hắn đang sửa đổi hay là đang mưu đồ việc gì khác, vì sự an toàn, Dương Hạo giao cho Trình Đức huyền quản việc tư pháp, còn quân quyền nằm trong tay Lý Quang Sầm, Mộc Ân và hai vợ chồng Kha Trấn Trấn, Mục Thanh Tuyền. Quyền quản lý tiền bạc thì do bốn vị lão trượng Lâm Bằng Vũ phụ trách, Phạm Tư Kỳ đứng đầu. Hai quyền lực quan trọng này giao cho những người hắn tin cậy, không sợ Trình Đức Huyền giở trò gì nữa, đồng thời phân chia quyền lực thế này, cũng tránh cho việc một người nắm quyền, tham ô phủ bại.
Thấy Trình Đức Huyền đáp lời hợp ý, thái độ lại cung kính, Dương Hạo mỉm cười, nhìn sang Lý Quang Sầm, sau đó chào tạm biệt Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ, Kha Trấn Trấn và mấy người khác, cột lại yên ngựa, mang theo mấy người Bích Túc, Mục Vũ rời khỏi nha môn tri phủ, đi trên con đường rộng lớn bằng phẳng, tiến về bên ngoài Cốc.
Lữ Động Binh cũng nằm trong đội ngũ của hắn, hôm trước Bích Túc mặc áo sư chạy đi chạy lại bên Dương Hạo, mọi người đã quen rồi, giờ xuất hiện thêm một người đạo sỹ trung niên, cũng chẳng có ai lấy làm lạ, Dương Hạo không giới thiệu mọi người cũng chẳng hỏi han gì thêm.
Lữ Động Binh mười năm gần đây đều quy về ở ẩn khổ công tu luyện, đã rất nhiều năm không gặp lại bạn cũ Trần Đoàn, ngày hôm nay hắn đã cao tuổi, sắp quy về với trời đất, gặp được bạn cũ một lần vô cùng quý giá, lần này đến Thái Hoa Sơn, mục đích là muốn gặp lại bạn cũ Thúc Thúc Cựu. Hắn đi cùng Dương Hạo đến nửa đường là chia tay, một mình một ngựa phi đến Thái Hoa Sơn, Dương Hạo thì mang theo những người còn lại đến Phủ Cốc.
Đến giờ mới đi gặp Chiết Ngự Huân, Dương Hạo nhất định có tính toán của hắn. Chiết Ngự Huân trước kia đang dồn quân phong tỏa Đảng Hạng Thất Thị, không ở Phủ Cốc, đây là một nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn nữa là, nếu vội vàng tìm đến Phủ Châu, thì hắn lúc đó chưa có thực lực thật sự, chỉ có thể xin ân sủng từ Chiết Ngự Huân mà không có tư cách ngồi lại đàm phán.
Nếu là trước kia, hắn chẳng thèm để ý, con đường buôn bán của Lô Lĩnh Châu đã bước đầu khai thông, muốn phát triển hơn nữa, không thể bỏ qua được sự tồn tại của Phủ Châu, mà bản thân mình cũng đã có tư cách để mặc cả với hắn, nên lần này mới quyết định đến Phủ Cốc.
Lần trước Dương Hạo đến, nơi hắn ở là Dịch Trạm Phủ Cốc, lần này đến vẫn ở nơi đó. Sau đó hắn đi bái kiến Chiết đại tướng quân, không ngờ phủ Chiết đại tướng quân đóng cửa, hắn đứng ngoài một lúc lâu người vào bẩm báo mới quay trở ra, giả bộ cười nói với hắn rằng: “Phủ Đài đại nhân, Tiết Độ Sử đại nhân nhà chúng tôi dẫn binh ra trận vừa quay về, không được khỏe, không tiếp khách được. Mời Phủ Đài đại nhân quay về, đợi đến khi đại nhân nhà chúng tôi bình phục thì mời đại nhân đến gặp mặt.”
Dương Hạo nghe xong câu ấy không giận chút nào, mỉm cười đáp: “Vậy là Dương mỗ đến không đúng lúc rồi, Chiết đại tướng quân thân thể quý giá ngàn vàng, đã mắc bệnh thì không thể chậm trễ được, quản gia bẩm báo lại cho Tiết Độ Sử đại nhân dùm ta, nhắn đại nhân mời thầy dùng thuốc, nghỉ ngơi cho điều độ, đợi đến khi đại nhân bình phục thì Dương mỗ lại đến.”
Quản gia đó không ngờ Dương Hạo phản ứng bình thản đến vậy, nên sứng người ra, muốn nói gì nhưng lại không nói nữa, nhìn Dương Hạo cười từ biệt, người quản gia này nghĩ một hồi rồi lại vội vàng chạy vào.
Bích Túc tức giận nói: “Đai nhân, Chiết Ngự Huân đó sao lại bệnh đúng lúc thế, mà bệnh gì đến độ không tiếp được khách cơ chứ, hắn rõ ràng đang kéo dài thời gian, không muốn gặp ngài.”
Dương Hạo cười: “Cũng không hẳn vậy, người ta là nhân vật lớn mà, nhân vật lớn làm việc, thì rất ít khi trực tiếp, cứ thích vòng qua vòng lại, hình như người khác đến tìm hắn ai nấy đều có mưu đồ riêng. Đây cũng là chuyện khó tránh, vì người ở trên chức vụ cao lâu rồi, không tránh được thói đa nghi. Người anh hùng trên thế gian có ai không phải là Tào Tháo? Ngươi tưởng rằng họ thẳng ruột ngựa như hảo hán trên giang hồ nhà ngươi ư?”
Hắn lên ngựa, rồi quay lại mỉm cười nói: “Chúng ta đi về đi, muốn biết Chiết Ngự Huân có muốn qua lại với ta hay không, phải lấy chính mình ra mà đánh cuộc thôi, chúng ta thử một lần là biết.”
Bích Túc nhảy lên ngựa, ngạc nhiên nói: “Thử hắn ta thế nào?”
Dương Hạo cười: “Lần trước ta đến đây với thân phận khâm sai, Thừa Mông Phủ Châu Chư Quan lại và Hào Thân khoản đãi rất thịnh tình, có qua phải có lai, giờ bổn quan đến Phủ Châu với thân phận quan tri phủ Lô Lĩnh Châu, lẽ tất nhiên phải mời lại họ mới đúng. Sau khi về đến nơi, ngay lập tức mời Hào Thân, Quan lại phủ cốc đến dự tiệc, những người này dù là quan hay là thương nhân, thì đều rất thân thiết với Chiết Phủ, tất cả thông tin họ đều biết cả, chỉ cần họ đồng ý đến, thì Chiết đại tướng quân rốt cuộc đang nghĩ gì, chúng ta cũng có cơ sở rồi.”
Hắn cười gật đầu nói: “Về đến nơi, bổn đại nhân phải dựa vào thư pháp vô song của mình, tận tay viết thư mời. Lần này phải mời cả mấy vị công tử của Chiết đại tướng quân nữa, ha ha, xem là họ…có đến hay không!”
Tiểu Phàn Lâu, là quán rượu lớn nhất ở Phủ Cốc.
Đông Kinh Biện Lương cũng có một gian Phàn Lâu, chính là Phàn Lâu mà hai nhân vật Lâm Chung và Lục Khiêm trong Thủy Hử đã từng uống rượu ở đó. Đó là quán rượu lớn nhất ở Đông Kinh Biện Lương, vào thời Ngũ Đại, quán rượu ấy vốn là nơi bán buôn rượu và thịt, tên là Bạch Phàn Lâu. Sau này càng ngày càng nổi tiếng, lầu càng ngày càng cao, sau này phát triển thành một kiến trúc có 5 gian nhà, mỗi gian có ba tầng.
Quy mô của nó rốt cuộc lớn đến đâu? Thúy Vân Lầu của Đại Danh Phủ có hơn trăm gian phòng, Bạch Phàn Lâu ở Đông Kinh quy mô không lớn hơn nó là mấy, nhưng một căn có hơn trăm phòng, 5 căn là hơn sáu trăn phòng, có thể nó là quán rượu 5 sao thời Bắc Tống, nổi tiếng khắp thiên hạ, sau đó có người đã xây dựng Tiểu Phàn Lâu ở Phủ Cốc, mượn danh tiếng của Phàn Lâu ở Đông Kinh, quy mô của nó dù không sánh được với Bạch Phàn Lâu ở Đông Kinh Biện Lương, nhưng cũng có đến hơn 100 gian.
Dương Hạo mời khách quý ở đây, cũng được xem là phù hợp với thân phận hiện giờ của hắn. Thư mời của Dương Hạo được gửi đi như hoa bay trên trời, những người đã sớm hiểu tâm ý của Chiết Ngự Huân và những người Tần Gia, Đường Gia, Lý Gia thường xuyên qua lại với Chiết phủ cũng đều đã nắm chắc tình hình trong tay, mặc dù không ai nói kiên quyết, nhưng cũng chẳng có ai từ chối thẳng thừng. Những người đó, dù không có cách nào đánh tiếng được thái độ của Chiết đại tướng quân, nhưng lại có thể suy đoán, nhìn phản ứng của những người này, cũng có thể biết được một số điều, tất cả đều nhận lời.
Dương Hạo sau khi nhận được thư hồi âm, biết được những người được mời nói nếu có thời gian nhất định sẽ đến, trong lòng liền yên tâm rất nhiều. Những người này đã có thái độ như vậy, thì không phải lo lắng gì về sự từ chối gặp mặt của Chiết đại tướng quân ngày hôm nay, Chiết đại tướng quân làm ra vẻ như vậy, thì là để tạo thành thái độ nghiêm khắc cho chính mình thôi, để hắn phải nhượng bộ nhiều hơn nữa. Chiết đại tướng quân đã có nhu cầu với Lô Lĩnh Châu, thì không sợ hắn không nhận lời kết đồng minh, khác biệt chỉ là mình phải nhượng bộ nhiều hơn một chút.
Thấy trời đã ngả về chiều, Dương Hạo thay một bộ áo khoác mới, bước ra khỏi Dịch Trạm, ngồi xe ngựa đến Tiểu Phàn Lâu. Ngồi trong xe ngựa, nhìn những người đi đường, Dương Hạo đột nhiên nghĩ đến người con gái mỹ miều đó, buổi tối hôm ấy quá đường đột, mạo phạm giai nhân, làm cho nàng xấu hổ, không dám gặp lại mình nữa, ngày hôm sau không đến tiễn, chưa kịp hỏi xem nàng ấy ở đâu, giờ đến Phủ Cốc rồi, biết tìm người nơi nao?
Nhiều ngày không gặp, dù là việc quan bận bịu, nhưng hắn vẫn thường xuyên nghĩ đến nàng. Tự bao giờ, người con gái dễ thương hay cười ấy đã khắc sâu vào trái tin hắn, giờ nghĩ lại vẫn thấy ấm lòng. Đang trong mạch suy tư, đột nhiên xe ngựa dừng lại, nghe thấy tiếng người mắng mỏ và tiếng con gái khóc. Dương Hạo vội vàng dừng luồng suy nghĩ, hỏi: “Có chuyện gì thế?”