Bộ Bộ Sinh Liên

Chương 238: Q.5 - Chương 238: Diễm ngộ




Triệu Phổ là tể tướng, chức vụ khá cao, lúc này trực tiếp xuất hiện nhưng không thể hạ lệnh cho dân chúng được, vì không có ai nhận ra hắn, dù hắn có đi tìm Na Phường Chính, thì Na Phường Chính cũng không nhận ra hắn, nên không dám tuân lệnh lung tung. May mà một vị quân tuần phán quan của tả quân tuần viện phủ Khai Phong đưa người đi qua nơi lửa cháy mạnh đến tận trời này. Thấy tình hình như vậy chạy một mạch lại, hắn lại nhận ra Triệu tướng công, đến lúc này mới thay Triệu Phổ giải vây.

Triệu Phổ giờ ở Đại Tống là chức gì? Mệnh lệnh mà Hoàng Đế ban cho chỉ cần ra khỏi quan môn, cho dù lớn nhỏ đều là thánh chỉ, nhưng không qua nhị phủ đóng dấu thì vô hiệu, mà lệnh Triệu Phổ nói không phải là thánh chỉ, mà là quân dụ của tể tướng đại nhân, chỉ cần hắn viết ra, thì lúc nào cũng đều có thể truyền lệnh, không ai là không tuân lệnh, thậm chí còn nhanh và có hiệu quả hơn cả thánh chỉ. Trong tâm của dân chúng của thành Khai Phong, Đương kim Triệu tướng công và nam nha trực quản Khai phủ Triệu đại nhân, tầm ảnh hưởng còn mạnh hơn cả Quan Gia, Na Phường Chính vừa nghe thấy người phía trước này là Triệu tướng quân đương triều, vội khấu đầu và hiệu triệu dân chúng dỡ nhà ở dập lửa.

Có Triệu tướng công chịu trách nhiệm, nên không ai dám chần chừ nữa, xô chậu, dây thừng gậy gộc, tất cả những thứ có thể dùng thì đều tận dụng hết, không đợi Đảng Tiến dẫn cấm quân doanh trung đại nhân người ngựa đến. Lúc này tốc độ dỡ nhà nhanh chưa từng thấy. Điểm thuận tiện của những căn nhà được dựng bằng tre gỗ chính là đây. Muốn đốt thì cũng dễ, muốn dỡ bỏ thì cũng dễ, binh sĩ, dân chúng mỗi người một tay một chân, rất nhanh đã cách ly được khu xung quanh đám lửa, đám cháy này cuối cùng cũng có thể khống chế được.

Còn về chỗ lửa cháy, sớm đã đổ nước vào để dập, căn nhà bị cháy khiến mọi người đều khẩn trương cứu những người trong đó ra, cố gắng lấy lại một số đồ châu báu, còn những cái khác thì kệ cho lửa thiêu vậy. Trước mắt tình hình hỏa hoạn đã được khống chế, Dương Hạo mới rời khỏi hiện trường bị cháy, người đầy mồ hôi, người bụi mù ngồi ở một tảng đá lớn dưới gốc cây.

Mấy ngày nay, hắn giấu kín chuyện gì đó rất khó hiểu, an phận sống qua ngày, trong lòng hắn hiểu rõ, Quan Gia vì “Sự kiện đổ Trình” đã nghi ngờ hắn, sự nghi ngờ này chưa chắc sẽ hắn khéo léo mà tiêu trừ. Hắn ở trong triều không có ai, La Công Minh ngay cả có lòng giúp hắn, cũng chỉ có thể tìm lúc thích hợp mới giúp đỡ, mà nam nha Triệu Quang Nghĩa thì lại hoàn toàn không có loại kiêng kỵ này.

Con người hắn bị xa lánh, hắn làm sao có thể không giận được chứ? Dương Hạo tin tưởng lòng dạ của Triệu Khuông Dận, lại không tin Triệu Quang Nghĩa cũng có lòng dạ của đại ca hắn. Còn nhớ Cận tống thái tông sau khi làm Hoàng đến, nhìn thấy dân chúng hoan hô thái tử của hắn thì vừa ghen ghét vừa oán hận. Suýt chút nữa thì phế truất Thái tử. Ghen với cả con trai mình, chứng tỏ lòng dạ có rộng lớn đến mấy thực ra cũng chỉ có hạn, giờ mình lại đắc tội hắn, hắn bình thường lại có thể gặp Hoàng đế, rất bất lợi với mình.

Dương Hạo hết cách hiểu được suy nghĩ của Quan Gia hiện giờ, chỉ cố gắng làm ra bộ dáng an tâm định cư Khai Phong, chỉ cầu mong làm tan cơn tức giận trong lòng Quan Gia. Do bản thân hắn thực sự cũng muốn định cư lâu dài ở Khai Phong, làm một vị quan thái bình vô ưu vô lo, không cần phải giả bộ làm chuyện gì. Giờ nhà đã mua rồi, người hầu kẻ hạ cũng có rồi, còn thu xếp mua vài ba cô gái ca hát, làm bộ ở Khai Phong lâu dài.

Từ lúc tới Khai Phong, hắn vẫn chưa từng đi dạo cái thành phố này, giờ mùa xuân ấm áp, sắc hoa đua nở, ánh mặt trời ấm áp thích hợp cho việc đi dạo, mọi việc trong nhà cũng hòm hòm rồi, triều đình không làm gì hắn, dường như Quan Gia đã lãng quên con người hắn rồi, Dương Hạo giống như ẩn mình trốn trong hang động, cảm thấy thoải mái vô cùng, muốn ra ngắm cảnh tượng của Khai Phong một chút.

Kết quả là vừa ra thì hắn gặp phải hỏa hoạn, ban đầu là theo người ta cứu người dập lửa, nhưng hắn cũng không nghĩ đến lửa cháy nhanh đến vậy, mạnh đến vậy, tốc độ lan ra kinh khủng đến vậy. Trong tiềm thức của hắn, hắn rất có ấn tượng với lửa, đợi hắn hiểu ra nguyên nhân trong đó chính là kiến trúc tre gỗ, thì đám lửa đã cháy lan tràn ra xung quanh. Dù có dập tắt thế nào đi nữa, cũng chỉ mất một khắc thì có thể nuốt chửng một tòa dân cư, hắn lúc này mới nghĩ đến việc ngăn cách mồi lửa.

Giờ hỏa hoạn đã được khống chế, hắn mới đến bên cây nghỉ ngơi. Triệu Khuông Dận lặng lẽ không nói lời nào đứng bên một cây khác, nhíu mày nhìn đám cháy. Đám cháy hừng hực, tiếng tre gỗ sập xuống ầm ầm. Thỉnh thoảng vang lên một tiếng ầm dữ dội, đó chính là sập nhà ốc, nó vừa sập thì vô số đốm lửa bay lên cao đến bảy tám trượng, giống như cây pháo hoa, sau đó nhanh chóng biến mất trong không trung, hóa thành bụi tàn bay múa.

Mục Vũ thở hổn hển chạy đến trước mặt Dương Hạo. Lúc nãy hắn cũng được Dương Hạo bảo giúp đỡ cứu hỏa. Mặt Dương Hạo bám đầy bụi tro, ngoài hai con mắt và răng ra, tất cả đều đen xì, giống như cái côn lôn nô. Hắn bị kích động nói:

“Đại nhân, đám cháy đã khống chế được rồi”.

Dương Hạo cười khổ nói:

“Haiz! Đám lửa này tuy được cứu kịp thời, ít nhất cũng có ba bốn trăm hộ gia đình bị cháy trụi rồi, lửa lan tràn với tốc độ chóng mặt. Rất nhiều người vì trận cháy kinh khủng này mà táng gia bại sản, không còn người thân mà nhờ cậy, vô số nghệ nhân chỉ sợ phải bán giấy mực tìm con đường sống.

Mục Vũ nói:

“Ai bảo họ không nghe lời khuyên của đại nhân sớm, không chịu tháo dỡ nhà mình, kết quả là hại người hại cả mình, cũng coi như là tự làm tự chịu. Cũng may họ cuối cùng cũng nghe lời đại nhân, nếu không thì, tôi thấy đám lửa sẽ cháy vào mấy cái ngõ nhỏ, Biện môn sẽ bị cháy sạch sành sanh”.

Dương Hạo lắc đầu nói:

“Không phải nghe lời của ta, mà là nghe lời của đương triều Triệu tướng công”.

Hắn nhìn về phía xa, những tướng lĩnh thủ thành đang lục tục chạy tới, nam nha tuần quan, các quan lại địa phương nói chuyện, Triệu Phổ khen:

“Vị Triệu tướng công này đúng lúc qua nơi này, may mà có hắn ở đây, may mà hắn cũng nghĩ ra cách, nếu không thì thiệt hại của dân chúng ít nhất cũng lớn gấp mấy lần so với bây giờ”.

“Thế vị quan đó chính là Triệu tướng công sao?”

Mục Vũ cũng nhìn về phía Triệu Phổ, nói:

“Thế thì chả trách, tôi từ bên kia lại đây, nghe hắn nói, người bị thương phải cố gắng mà chữa trị. Người ta không còn gia sản mà lại còn bị dỡ bỏ nhà, triều đình đều sẽ bổ trợ ngân quỹ làm nhà mới cho họ, và trợ cấp một chút lương thực vải vóc. Ta nghe giọng nói người này quả quyết, thì hiểu đó là quan lớn, song không biết hắn có phải là Triệu tướng công nổi tiếng lẫy lừng không”.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Triều đình sẽ cứu trợ dân chúng? Quá tốt rồi, ha ha, đương nhiên là hắn rồi, nếu không phải là hắn, thì vị đại thần triều đình nào chưa nhận chỉ thị, mà dám tự tiện đưa ra chủ trương, lập tức ban bố phương pháp an dân như vậy? Triệu tướng công quả nhiên là một bậc nhân kiệt, triều đình lập tức sẽ nam chinh, thành Đông Kinh này không thể loạn được. Lần này hành động, thì có thể làm cho lòng dân ổn lại. Mà triều đình trợ cấp bạc vì bọn họ xây dựng nhà ở sao?”

“Vâng. Vừa rồi chính tai tôi nghe được”.

Dương Hạo nghiêng đầu nghĩ ngợi, bỗng nhiên nói:

“Tiểu Vũ à, chúng ta mấy ngày nay bố trí mua nhà, lại còn mua người hầu, tỳ nữ, tiền bạc mang từ Lô Châu đến đều tiêu sắp hết rồi.

Mục Vũ nhếch việc, lộ ra một chiếc răng trắng nói:

“Không có gì đáng ngại cả, chỗ Nguyệt Nhi vẫn còn có tiền, khi chúng ta đến thành Đông Kinh, Đường cô nương giao hết tiền riêng cho Nguyệt Nhi giữ, nói là để lại cho đại nhân người dùng đấy”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Không được, ta giờ vẫn chưa lấy cô ấy, nào có thể dùng tiền của cô ấy.

Mục Vũ nói: “Haiz, vậy thì còn ra cái gì nữa, lão gia sớm muộn chả lấy Đường cô nương”.

“Không giống nhau”.

Dương Hạo nói: “Ăn người miệng mềm, cầm người tay ngắn, giờ dùng tiền riêng của cô ấy, sau này đại lão gia ta ở trước mặt cô ấy còn có thể ngẩng đầu lên lớn tiếng nói chuyện sao?”

Triệu Khuông Dận nghe đến đây không khỏi bật cười, thì nghe thấy Dương Hạo lại nói:

“Ngươi nghe ta nói đây, mau đi về, mang vài người, đem số tiền còn lại đến. Tập hợp cách sườn núi mười dặm, nhưng chú ý là những vật liệu xây dựng như tre trúc, vật liệu gỗ, gạch ngói, cỏ lau có thể mua bao nhiêu thì mua bấy nhiêu”.

Mục Vũ ngạc nhiên nói: “Đại nhân, người muốn dựng thêm nhà sao?”

Dương Hạo cười nói: “Thêm nhà cái gì. Ngươi vận chuyển những vật liệu đó đến đây, sau đó xây ba bốn trăm cái nhà. Nếu vật liệu xây dựng ở Ngõa Pha Tập một chốc một lát sao vận chuyển đủ đến được. Vật liệu thiếu, giá cả tất sẽ tăng lên, mua vào bán ra, chúng ta có thể kiếm được một món kha khá, kinh tế sẽ dư dật hơn nhiều”.

Triệu Khuông Dận vừa nghe đến đây suýt ngất, sự tương phản quá lớn, vừa nãy còn là một vị quan hiền lương yêu nước yêu dân, sao lại trong nháy mắt đã trở thành một tên đại gian thương thế này?

Mục Vũ lúng túng nói:

“Đại nhân, kiếm những đồng tiền của nạn dân, thuộc hạ cảm thấy…cảm thấy chi bằng dùng tiền của Đường cô nương, hơn nữa, chẳng phải ngài nói, vật liệu xây dựng bằng tre gỗ dễ cháy sao, sao lại còn bán. Chúng ta chi bằng bán đá chuyên xây dựng, để họ có một nhà tử tế ở?”

“Ngốc lắm!”

Dương Hạo gõ một cái vào đầu hắn, cười nói:

“Tiền này là tự ngươi đi kiếm lấy. Ngươi không kéo giá tự có người kéo giá, nếu như thế, tại sao lại không kiếm chứ? Tiền chúng ta kiếm được đâu phải những đồng tiền nhơ bẩn, còn về dùng đá, ngươi xem kiểu tóc truyền thống của người Khương thế nào? Đỉnh đầu trống trơn, còn gì mát mẻ hơn. Qua vài ngày nữa thời tiết nóng bức, ngươi khuyên dân chúng người Hán ta đều đi cắt tóc đi, ngươi xem họ có chịu hay không?”

Mục Vũ nghĩ đến kiểu tóc quái dị kia, không nhịn được cười nói:

“Đương nhiên là không chịu rồi, bảo tôi tôi cũng không làm”.

“Thấy chưa, ngươi cần biết, khó thay đổi nhất chính là thói quen và cách nghĩ của con người, có vài chuyện không phải ngươi cảm thấy có lợi thì có thể thực hiện, dân chúng nơi đây quen dùng tre gỗ, ngươi có mỏi mồm bảo họ ở nhà đá, cũng không ai thèm quan tâm đến ngươi. Để họ nhận thức được lợi ích của việc dùng đá xây dựng thì phải có triều đình ra lệnh, khích lệ ầm ĩ, nhanh nhất cũng phải mất khoảng thời gian ba đến năm năm, giờ thì không được đâu.

Hơn nữa, ở đây lượng đá để dùng rất ít, lượng hàng có hạn, ít thời gian thì mua đâu cho được. Chẳng lẽ giờ đi ra ngoài đặt hàng à? Đợi đến lúc có hàng, đã là mấy tháng rồi. Những lời không đâu vào đâu thì nói ít thôi, mau đi đi, ngươi mau về phủ, mang tiền bạc đến rồi đi Ngõa Pha Tập, nếu những thương nhân khác cũng nghĩ tới điều này, thì chúng ta không kịp nữa đâu”.

“Đại nhân thì sao?”

“Ta tự trở về, ngươi thông minh lanh lợi, mau mau về đi”.

“Vâng, thế thuộc hạ đi đây”. Mục Vũ đáp, rồi xoay người chạy như bay.

Triệu Khuông Dận mỉm cười, xoay người đi, đi được hơn mười bước, thì dừng lại nói với thị vệ rằng:

“Ngươi đi nói với Triệu Phổ, không cần thánh chỉ, liên chuẩn. Mà thêm một điều nữa, trong lúc cứu tế xây dựng nhà cửa, vận chuyển buôn bán tre gỗ đá vào thành, miễn tất thuế cho ta”.

Tên thị vệ nhận chỉ, chỉ nghe rầm một tiếng, lại là một ngôi nhà lớn đổ xuống, khiến dân chúng la hét ầm ĩ, Triệu Khuông Dận nhắm nghiền mắt, nghĩ thầm :

“Về triều phải gọi các đại thần đến bàn bạc, Khai Phong ta phồn hoa là thế, dân cư lại đông đúc, nhà cửa san sát, hỏa hoạn liên tiếp sẽ xảy ra thì không được. Hỏa hoạn lần này tuy không thể tránh, nhưng dù sao cũng cần đưa ra những biện pháp, để giảm bớt tổn thất của hỏa hoạn mới được”.

Dương Hạo sai Mục Vũ đi xong, thì men theo sông Biện Hà dần dần đi đến gần ngõ giết lợn. Trên đường thì thấy trên Biện hà có hàng trăm người, thuyền vô số, có hồ thuyền, phi bồng thuyền, đủ loại kiểu dáng, đủ các công dụng đưa vải vóc, châu báu Quảng Đông, chè xanh Thục Trung, rượu, táo, gỗ Giang Lăng, nước sơn Trần Hạ, sợi đay Tề Lỗ, gạo Khương Quế, tơ lụa…đều được đưa vào Đông Kinh.

Ven Biện Hà có rất nhiều cửa hàng, buôn bán nhiều mặt hàng phong phú, muôn màu, da lông ngọc của tộc Hồi Hất, lương thực của Giang Hoài, thủy sản của các nơi duyên hải, trâu bò của nước Liêu, quạt của Nhật Bản, hương liệu và trân châu của Đại Lương và rượu đến từ các nước, hoa quả, trà, lụa, giấy, sách,… cái gì cần cũng có. Còn có một vài tiệm nhỏ bán đồ ăn vặt, đầu dê chín, kẹo, và các thứ khác.

Dân chúng không vì Biện môn bị cháy mà nhốn nháo, xung quanh mọi người buôn bán bình thường. Dương Hạo đứng ở cửa một tiệm gương, phát hiện ra trên má mình có vài vệt đen bụi, lúc này mới hiểu tại sao người trên đường luôn chỉ chỉ trỏ trỏ vào hắn, nguyên nhân nhỏ con, liền đi đến bờ Biện Hà.

Loại kiến trúc cổ kính so le, đan xen vào nhau chằng chịt, bức tranh điêu lan tao nhã hợp lòng người treo ở rèm cửa sổ nhỏ, giống như một khu biệt thự của nhà giàu, rất yên tĩnh. Các kiến trúc đình viện lầu các gần nước, cánh cửa ở một bên, còn bên đối diện gần nước là của sổ của hậu viện.

Dương Hạo đến bờ sông, ngồi xổm xuống rửa sạch mặt mũi, rồi cong lưng đứng dậy. “Boong” một tiếng.

Hắn ngây ra một lúc, ngẩng đầu giận quát: “Đúng là đồ không có mắt, oh, hóa ra là cô nương?”

Nhìn thấy nửa người trên lầu là một thiếu nữ, một tay nàng chống vào cửa sổ, mái tóc dài qua eo được gió thổi càng thêm quyến rũ, đuôi tóc còn có ít giọt nước, chắc vừa gội đầu xong.

Cô gái nhìn thấy dưới lầu có một người thanh niên, liền che miệng cười khúc khích nói:

“Ôi, thực sự là rất xin lỗi, em nhỡ tay làm rơi thanh cửa sổ, công tử chớ trách”.

Khuôn mặt của cô gái này vừa mừng vừa lo, nụ cười tuyệt đẹp, ánh mắt giận rỗi cũng trở thành đại từ đại bi, cơn giận của Dương Hạo bỗng chốc biến mất, liền cười nói:

“Không có gì đáng ngại, không có gì đâu, là ta không cẩn thận, không nên đứng dưới lầu cô nương”.

Cô gái kia cười nói: “Mời công tử ném hộ cái thanh kia lên, được không?”

“Á? Được được”.

Dương Hạo bỗng cảm thấy có gì đó rất quen, nhìn xung quanh hai bên, rất đang tiếc, không có cửa hàng nào bán nước trà bên bờ Biện hà của Vương bà, nếu không thì đây rõ ràng là cảnh lần đầu Tây Môn Khánh gặp Phan Kim Liên.

Hắn cầm lấy cái thanh kia lên, lau đất bám vào thanh lan can đó rồi tung lên cho cô gái, cô gái cười nói:

“Đa tạ công tử”.

“Không có gì”.

Nhìn thấy cô nương đó đóng của sổ lại, Dương Hạo nhớ đến một bài từ mà không thể nào nhớ nổi tên nó là gì, nhớ được câu nào thì nói câu ấy: “Cái dáng người, ngọn gió nào đưa nàng đến đây, nàng yêu kiều, nụ cười nàng tỏa nắng…”

Đọc đến đây thì không nhớ gì cả, cẩn thận ngẫm lại, vẫn không nhớ được. Ôi chao, Dương Hạo đang tiếc nuối lắc đầu, muốn bước đi, thì trên cửa sổ có một tiếng “Két” phát ra, một cô gái nhô đầu ra, đôi mắt to tròn nhìn Dương Hạo, đột nhiên hỏi:

“Bài từ này, là công tử làm sao?”

“À” Dương Hạo thầm nghĩ: “Là bài từ của ai đây? Ta cũng quên mất rồi, không thể nói là một người ăn mày gọi là Hồng Thất ở quê Phách Châu làm”.

Cô nương đó nghĩ là hắn làm, liền vui mừng, vội nói:

“Ta làm thương công tử, theo lý thì nên mời trà đền tội, mời công tử đến trước viện, có được không ạ, em lập tức sẽ đón ở trước cửa?”

“Chao ôi, Tây Môn Khánh đóng vai công tử, Tiểu Phan lại chủ động thông đồng với hắn phải không?”

Dương Hạo thầm tự trêu mình, lắc đầu nói: “Ta còn có chút việc, cô nương không cần khách khí”.

“Cái gì công…”

“Nếu như vậy kẻ đứng trên lầu người dưới lầu thì sao nói chuyện được, công tử, mời đến trước phủ đi, em còn có có cơ hội chuộc tội với chàng?”

“Cái này, được rồi”. Dương Hạo cũng không biết cô ấy rốt cuộc là có chuyện gì, liền thấy hiếu kỳ, dù sao thì cũng đang nhàn rỗi, liền đồng ý.

Cô gái thấy hắn đi về phía trước nhà, không khỏi vui mừng nói:

“Bài từ của vị công tử này làm quá tuyệt, xem chừng có thể giải vây cho tiểu thư nhà ta, hihi, nghĩ đau hết cả đầu, ngủ gà ngủ gật, thì có người mang gối cho, tiểu thư nhà ta may thật đấy”. Nói rồi đóng cửa sổ lại.

Khu nhà thật nho nhã, chủ nhân nơi đây chính là Liễu Đóa Nhi đang pha trà cho khách.

Trong nhà vô cùng tao nhã, trên vách tường treo mấy chữ. Có hai cái bàn con. Trên bàn có hoa quả, cửa có một cái bếp nhỏ, trên bếp là một ấm nước đang sôi.

Trong nhà không có ghế tựa, chỉ có cái thứ giống như cái giường thấp thấp.

Lúc này ghế dài vừa mới vào Trung Nguyên, nhà những người Trung Nguyên có loại ghế này vẫn chưa nhiều lắm. Hầu hết các nhà, đặc biệt là những nhà giàu có đối với những thứ không phải truyền thống của Trung Quốc đều không quan tâm lắm, bình thường đãi khách vẫn ngồi trên chiếu, có chiếc kỷ trà là được.

Mỹ nhân như ngọc, đi qua tấm rèm là một mùi hương thơm thoang thoảng, mát mẻ, gió làm rung chiếc chuông treo ở hành lang, khiếu thẩm mỹ thực khác.

Khách đến khoảng sáu mươi tuổi, khuôn mặt thanh lịch, râu dài, đầu có tóc trắng. Đang suy nghĩ gì đó. Hắn mặc một áo bào màu xanh nhạt có hoa văn. Bên hông đeo một tấm ngọc, tóc được búi lại, nhất phái tiên phong đạo cốt khiến người ta vừa nhìn đã nghiêm túc kính cẩn.

Vị này nếu Dương Hạo thấy nhất định sẽ quen, chính là một đại anh sĩ ở Quảng nguyên Lục Nhân Gia.

Người con gái ngồi đối diện chính là chủ nhân của Như Tuyết Phường Liễu Đóa Nhi, là một trong những tứ đại hành thủ tổ chức âm nhạc của Khai Phong, nổi tiếng nhờ ca múa hay, xem ra nàng không quá mười tám mười chín tuổi. Mặt một bộ quần áo màu xanh ngọc, áo lót lưới, tà áo và tay áo được may bằng vải mỏng, chiếc váy dài bó sát với eo thon, tóc được bện thành hình chim Trấm.

Liễu Đóa Nhi đang tuổi thanh xuân, chiếc áo lót mỏng nàng mặc để lộ khe rãnh của bộ ngực trắng nõn mê người, nàng ngồi đối diện, không chỉ có bộ ngực trắng nõn có thể thấy được qua lớp vải mỏng ấy, mà còn nhìn thấy làn da mịn màng của hai cánh tay nàng. ;

Áo lót lưới che lấy nửa bộ ngực, cánh tay ngọc. Lục Nhân Gia tuy cúi mặt xuống, song nhìn thấy một giai nhân mỹ lệ như vậy, mắt không khỏi sáng lên.

Cô gái này quả không hổ thẹn là một trong những tứ đại hành thủ, dáng người như vậy, mắt ngọc mày ngài, một mỹ nhân yểu điệu. Nụ cười như ngọn gió mùa thu thổi vào mặt, mắt đang lúc long lanh, thì bị một cử chỉ khiến cho hắn giật mình tỉnh lại.

“Định am tiên sinh, mời dùng trà”.

Hai tay Liễu Đóa Nhi dâng trà, cung kính đưa tới trước mặt Lục Nhân Gia, Lục Nhân Gia vội đưa tay đón lấy. Tay phải vừa đỡ, vừa mỉm cười nói:

“Ái khanh không cần đa lễ”.

Từ ái khanh giờ không phải là từ chuyên dụng cho hoàng đế. Những cô gái lầu xanh có thân phận địa vị quen thuộc cũng dùng cách xưng hô thân thiện này được, giống như thời cổ người người đều dùng những liên tự tự xưng với nhau. Lục Nhân Gia xưng hô với Liễu Đóa Nhi như vậy cũng phù hợp, song hôm nay hắn vào đây không phải đến tìm mùi thơm, mà là được Liễu Đóa Nhi mời đến giúp nàng soạn một bài từ, xưng hô như vậy, không khỏi có chút suồng sã, Liễu Đóa Nhi nghe hơi ngại.

Cô nương này dung nhan đoan trang, khi xấu hổ, thì bộ dạng của cô càng làm trái tim người ta dao động.

Lục Nhân Gia chớp chớp mắt, cười nói:

“Ái khanh không hổ danh là hành thủ Khai Phong, quả nhiên đẹp quá khiến trái tim người ta rung động”.

Liễu Đóa Nhi cúi mặt xuống, mỉm cười nói:

“Định am tiên sinh khen nhầm rồi, thiếp phong trần, dung nhan đâu có gì, sao tiên sinh khen như vậy. Thiếp từ thuở nhỏ thích nghiên cứu thơ từ, hôm nay mời định am tiên sinh tới, mong chỉ điểm nhiều hơn nữa cho thiếp, thường xuyên bàn bạc chuyện văn chương, thiếp vô cùng cảm kích”.

Lục Nhân Gia biết vị cô nương này giờ đang cạnh tranh lên đệ nhất hành thủ với Ngô Oa Nhi. Giờ lạc gió, mới tìm hắn, muốn mượn bài từ của hắn để tổng hợp, thế là hắn vuốt râu dài, cười ha ha nói:

“Lão phu vốn thích ca vũ, ái khanh có tố chất như lan tâm, khiến người ta thích thú. Nếu có thể thường xuyên cùng với ái khanh đối thơ từ, cũng là một chuyện hay, chẳng qua…”

Liễu Đóa Nhi hiểu ý, thản nhiên cười nói:

“Định am tiên sinh yên tâm, nếu bài từ của tiên sinh hay, thiếp xin có tiền thù lao dâng ngài. Một bài từ của tiên sinh, thiếp xin đưa năm lượng, ý tiên sinh thế nào?”

Hai lượng bạc một bài từ, giá cũng không phải là thấp, nhưng với một danh sĩ Trung Nguyên như Lục Nhân Gia, thì cái giá này cũng không phải là cao. Lục Nhân Gia cười nói:

“Ái khanh, lão phu không thiếu bạc, số bạc này không cần đâu, nhưng tứ đại hành thư của Khai Phong, có nhiều bài từ danh sĩ. Từ trước đến nay thường có bạc tạ ơn, nếu như lão phu chào giá thấp thì không hay cho lắm”.

Liễu Đóa Nhi vốn muốn để hắn trả giá, vừa nghe thì cười nói:

“Thế, không biết định am tiên sinh định giá nhuận bút là bao nhiêu?”

Lục Nhân Gia giơ một ngón trỏ ra: “Gấp đôi”. >”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.