Bộ Bộ Sinh Liên

Chương 197: Q.5 - Chương 197: Gặp hồng






Dương Hạo trở lại tri phủ nha môn, tất cả võ tướng đều ở đó, quan văn và phụ tá lại dạt sang đứng bên Phạm Tư Kỳ, cảm thấy khó hiểu, Dương Hạo nói:

“Tư Kỳ, Trình phán quan và Lâm lão, bọn họ đi đâu rồi?”

Phạm Tư Kỳ vội khom lưng nói:

“Khởi bẩm phủ tôn, gần đây Lô Lĩnh Châu ta được số lượng lớn thịt thú, da lông, cung nỏ, đao kiếm, trâu dê ngựa và châu báu, ngoài ra còn có mấy nghìn dân chúng người Khương Hoành Sơn, các loại vật tư, việc sắp xếp bố trí dân chúng mới đều là việc cần phải làm ngay, mấy vị ấy vội ra sau cốc xử lý việc rồi ạ. Về phần Trình đại nhân, vì giờ người trong cốc đã tăng, bố trí ổn thỏa không kịp thời, gần đây liên tiếp xảy ra các vụ cướp bóc, giờ Trình đại nhân đang đi điều tra ạ”.

Dương Hạo khẽ nhau mày nói:

“Những người nào phạm tội vậy?”

Phạm Tư Kỳ nói:

“Phần lớn là người Hán của châu này, có tên vì báo thù cho hả giận, có tên thì là lưu manh, dân chúng người Khương đều là tù binh, nên họ không có phản ứng gì”.

Dương Hạo tức giận nói:

“Buồn cười, đục nước béo cò, nhân lúc cháy nhà thì vơ vét các thứ của người khác, phải lấy trọng hình mà xử phạt, bọn chúng mới biết thân biết phận, ngươi đi đi, tìm mấy vị chủ bộ và Trình phán quan về đây cho ta, bổn phủ cần biết một số tình hình mấy ngày qua trong cốc, có vài việc không nói không được”.

Phạm Tư Kỳ tuân lệnh rồi đi ra, Dương Hạo quay sang hỏi việc phòng ngự của đám người Kha Trấn Áp, thấy bọn họ bố trí phòng ngự đâu vào đấy, liền cười và khen ngợi. Sau đó cho mọi người lui, chỉ có Lý Quang Sầm ở lại.

Các quan tướng lui ra, Dương Hạo mới mời Lý Quang Sầm ngồi xuống ghế chủ, còn mình thì ngồi xuống bên cạnh, nói:

“Nghĩa phụ, nay Lô Lĩnh ta đã mạnh lên, khí thế hừng hực, vừa nãy ở cửa cốc thấy có rất nhiều thanh niên trai tráng tình nguyện nhập ngũ, chúng ta giờ phải rèn sắt khi còn nóng, tranh thủ thời cơ, tổ chức lập đội quân thôi”.

Lý Quang Sầm nghe nói việc tổ chức lập đội quân, trong lòng cũng hoan hỷ, nhưng hắn còn đang băn khoăn điều gì đó, chần chừ nói:

“Hạo Nhi, triều đình ủy thác cho con làm Lô Lĩnh tri phủ kiêm châu đoàn luyện sứ, vốn là bao gồm cả quyền tổ chức lập đội quân, nhưng triều đình lại chưa từng trích cấp binh khí áo giáp cho con. Biết rằng tri phủ thì sẽ kiêm chức đó, nhưng cái gọi là đoàn luyện sứ chỉ là một chức suông, không cần thiết phải thực sự tổ chức quân đội, nếu con tùy tiện tổ quân, có kiêng kị gì với Triệu Quan Gia hay không?”

Vị trí của đoàn luyện sứ thấp hơn tiết độ sứ, phòng ngự sứ thì cao hơn chức luận chức quyền, tiết độ sứ giờ tương đương với bộ tư lệnh, phòng ngự sứ tương đương với sở tư lệnh, mà châu đoàn luyện sứ tương đương với quân phân khu tư lệnh, nhất định là có quyền được tổ chức quân đội. Nhưng binh lính, xây dựng chế độ, quân lương, võ trang cũng cần được triều đình thống nhất và phê chuẩn. Mà ý chỉ thánh thượng chưa bao giờ đề cập đến, nên chức vụ này chỉ là ảo mà thôi, chỉ giao cho hắn một chức suông. Còn hắn lại muốn tổ chức quân đội. Trừ phi triều đình hạ chỉ rõ ràng, nếu không thì không thể làm được.

Dương Hạo cúi đầu nói:

“Những điều mà nghĩa phụ lo lắng là một chuyện, Lô Lĩnh xây dựng quân đội là một chuyện, đã được Phủ Châu Chiết đại tướng quân cho phép, nhưng về phần triều đình, thì không muốn lập quân đội tại đây, quân quyền là do ta nắm bắt, nếu ta trực tiếp tấu lên triều đình, nói cần phải lập quân đội, triều đình không cần nhúng tay vào, mà là do một tướng khác đến chỉ đạo, ta cần phải đề bạt ngay, để cho Trình phán quan kiêm luôn chức này.

Ta cũng không ôm đồm, ham quân quyền, nhưng tình hình hiện nay của Lô Lĩnh Châu, trên dưới phải cùng nhau thoát khỏi khó khăn này, Trình Đức Huyền tuy luôn khách khí với ta, khoảng cách ta và hắn so với trước đây càng xa, để hắn cầm quân, ta thực sự không yên tâm, quân quyền này vẫn cần ta nắm giữ.

Nói đến đây, hắn nhô người về phía trước, mỉm cười nói:

“Cho nên, con nghĩ ra cách này để giải quyết vấn đề trước mắt”.

Lý Quang Sầm vuốt râu cười nói:

“Con ta xưa nay túc trí đa mưu, có cách chắc chắn là cách tốt, con nói đi, là diệu kế gì vậy?”

Dương Hạo nói:

“Nghĩa phụ, triều đình để trấn an các tộc người Khương, từ trước đến nay đều ban cho chúng chức quan và trọng thưởng, các thủ lĩnh của hàng trăm lều thì phong cho chức quân chủ, dưới trăm thì phong chức chỉ huy sứ. Giờ tộc dân của nghĩa phụ già có trẻ có cũng phải đến năm nghìn người, mà các bộ lạc người Khương Hoành Sơn hoặc là quy thuận hoặc là đầu hàng làm tù binh, tổng số cũng phải có mấy nghìn người, Lô Lĩnh nay được thêm gần vạn người rồi. Con chỉ cần báo tình hình bọn họ lên trên, bổ sung vào tộc người của nghĩa phụ và dân tráng của châu này, là lấy được rất nhiều chức quan, khi đó có thể dùng tên của các bộ lạc người Khương mà tổ chức quân đội.

Đương nhiên là quan sứ của các bộ lạc người Khương mà triều đình phong thưởng chỉ có ban bổng lộc, không ban thưởng vũ khí, nói trắng ra là, cũng chỉ là cái hư danh để trấn an bọn họ, nhưng trong đó vẫn có khe hở. Đó chính là tuy triều đình không cho bọn họ vũ khí, nhưng nếu các bộ Đảng Hạng người Khương lại tự mình huấn luyện dũng sĩ, đúc binh khí, luyện tập võ nghệ, triều đình cũng không thể khống chế được…”

Lý Quang Sầm vừa nghe thì hiểu liền, vỗ tay khen:

“Quả là diệu kế, chỉ cần có vậy thôi, vũ khí binh giáp, cung nỏ chiến mã, chúng ta đều có thể tự thân vận động được”.

Dương Hạo nhướn mày nói:

“Cái này không cần phải lo lắng, Lô Lĩnh Châu ta trong vòng mười năm không cần nộp thuế cho triều đình, chỉ cần buôn bán vào cầu, dùng số tiền đó để xây dựng quân đội thì còn dư. Huống hồ triều đình hàng năm còn trích cấp tiền bạc cho dân chúng. Hơn nữa, Phủ Châu Chiết đại tướng quân đã đồng ý viện trợ áo giáp binh khí cho ta rồi”.

Lý Quang Sầm gật gật đầu, nói:

“Nhưng, hoàn toàn dựa vào người ngoài, sẽ bị người ta khống chế. Phủ Châu không biết xuất phát từ mục đích nào mà lại nguyện để con tổ chức quân đội, nhưng binh khí ắt phải sẽ không ngừng cung cấp cho ta. Trên thảo nguyên, vũ khí chiến trận sắc bén nhất là cung tên, mà trong các binh khí, cái tiêu hao nhiều nhất chính là mũi tên, con lấy danh là các bộ lạc người Khương ngầm tổ chức quân đội, hay gọi là dấu triều đình, nhưng một khi nhập số lượng lớn mũi tên về, triều đình lại không phát hiện ra hay sao?”

Dương Hạo nói:

“Trong các bộ tộc đều có thợ rèn, việc làm ra mũi tên thực sự là không khó, con nghĩ có thể phân cho các bộ tộc làm”.

Lý Quang Sầm hỏi:

“Thế sắt từ đâu mà ra? Mua số lượng lớn sắt, quan sát sứ các châu chẳng nhẽ không phát hiện ra? Hơn nữa, trong mắt chúng ta còn có Trình Đức Huyền mà, hắn tuy không hiểu tình hình ở đây lắm, nhưng mua nhiều sắt thép như vậy, làm sao qua khỏi mắt hắn”.

Dương Hạo nghe xong, nhướn mày, chắp tay sau đít, bước đi thong thả trong sảnh, cuối cùng cũng không nghĩ ra hai kế nào diệu kế, tự nhiên ngẩng đầu lên thì thấy Bích Túc đang đi qua sân, nhìn qua thì thấy hắn như tên hòa thượng, một sáng kiến chợt lóe lên trong đầu Dương Hạo, Dương Hạo mỉm cười nói:

“Có rồi”.

Lý Quang Sầm vội hỏi:

“Kế từ đâu ra?”

Dương Hạo lại cười nói:

“Nay dân chúng trong thiên hạ, dân sùng kính phật như sen nở rộ. Phụ cấp vào xây dựng chùa chiền, sẽ có ối người vứt bỏ của cải mà theo phật.

Mộc đại nhân, tộc người của đại nhân cũng đã thuộc Đại Tống, từ Thổ Phiên thảo nguyên nghìn dặm đến đây, được đãi ngộ như dân chúng Lô Lĩnh Châu ta, Người Khương và người Hán là một nhà, các trưởng lão trong tộc đối với triều đình Đại Tống và Quan Gia đều rất cảm kích, để thỏa chí nguyện to lớn, Lô Lĩnh Châu là ngọn núi cao nhất, đúc một cái pho tượng bằng sắt, lấy ý là cảm ơn hồng ân của triều đình, đại nhân nói xem…Quan Gia nếu thấy thiên uy của Đại Tống, nhân đức của Thiên Tử như vậy, có lấy làm vui mừng hay không?”

Lý Quang Sầm ngây người ra, rồi cười ha ha.

***

Dương Hạo rời tri phủ nha môn, đi tìm Đường Diễm Diễm.

Lần trước liên kết đồng minh với Đảng Hạng Thất Thị, là việc bí mật cho nên trên dưới Lô Lĩnh Châu không ai biết chuyện, chỉ có Lý Quang Sầm đi theo thì biết. Lần này liên kết đồng minh với bộ lạc Dã Ly Thị lại là việc lớn, niềm hãnh diện của người Hán, chẳng những không sợ triều đình biết, mà còn mong sao triều đình biết.

Một khi triều đình biết được người Khương Hoành Sơn ngang ngược kiêu ngạo trở nên lễ độ với quan lại Đại Tống, ngưng chiến liên minh, thì đó là công lao rất lớn, nhất định sẽ có được một chức quan to của triều đình, đặc biệt là sẽ lấy được thiện cảm của các võ tướng, triệt tiêu những ảnh hưởng trái chiều về người Khương hay làm loạn, giết người bằng những thủ đoạn tàn khốc.

Cho nên lần này đi gặp bộ lạc Dã Ly Thị để liên kết đồng mình các bộ lạc người Khương, không những rầm rộ sôi nổi mà còn mang theo một vài thương nhân đi cùng, sau khi liên kết đồng minh xong, lập tức sẽ buôn bán trở lại, một phần có lợi ích trực tiếp thì bộ lạc người Khương có thể chân chính mà ngụ ở đây, mặt khác cũng triệt tiêu được những ảnh hưởng của chiến loạn lúc trước, mau chóng khôi phục lại sức sống vốn có của Lô Lĩnh Châu.

Giờ đã là mùa thu, phải nhanh chóng khôi phục lại sự yên bình của Lô Lĩnh Châu và sự giao thương tấp nập của các thương nhân, thì mới có thể có một món lời lớn trước mùa đông. Sau mưa tuyết, dân chúng Lô Lĩnh Châu phải nghỉ đông, việc làm ăn buôn bán cũng kết thúc, chỉ có những vật tư được gom góp để qua mùa đông, để mùa đông qua đi không khắc nghiệt quá, hơn nữa có thể là nền tảng tốt cho việc làm ăn buôn bán mùa xuân mới.

Đường gia có ảnh hưởng rất lớn đối với các toàn thương nhân tây bắc, hơn nữa do Đường gia đã đứng ra mời chào các thương nhân tới đây, sức thuyết phục còn hơn cả việc tri phủ ra tay bảo đảm sự an toàn. Như vậy, Đường Diễm Diễm tự nhiên mà trở thành nhân vật quan trọng, chỉ có thuyết phục nàng, mới có mối quan hệ tốt với Đường gia.

Mà Đường Diễm Diễm…nếu hắn có điều cần nhờ vả, chắc chắn Đường Diễm Diễm sẽ không từ chối. Nghĩ đến điều này, Dương Hạo tự nhiên có cảm giác xấu hổ, vì sao hiệu buôn đầu tiên ở Lô Lĩnh Châu mà hắn nghĩ đến không phải Lý Ngọc Xương mà lại là Đường Diễm Diễm. Có phải là hắn thấy thuyết phục Đường Diễm Diễm dễ hơn là Lý Ngọc Xương?

Dương Hạo thúc ngựa tới trước cửa hiệu của Lý Ngọc Xương, ghìm ngựa nhìn lên nhà hầm trên vách núi, thầm nghĩ:

“Ta…lợi dụng tình cảm mà nàng ấy dành cho ta, có phải là đê tiện quá không?”

Rồi hắn tự nhiên giật mình, khẽ thở dài một tiếng:

“Một núi không thể chứa hai hổ, trừ phi là hai con hổ một đực một cái. Tử Du và Đường đại tiểu thư ai cũng có cái uy của mình, cho dù là ta có cưới thiếp, thì trong hai người ai sẽ cam tâm tình nguyện làm thiếp? Ta đã hứa với Tử Du rồi, sao lai có ý nghĩ kì quái này được nhỉ.

Ít nhất lần này ta làm không phải vì bản thân mình. Hơn nữa, Đường gia cũng thấy rõ cái lợi của mình, về sau làm ăn buôn bán được, đối với Đường gia mà nói con đường tiền tài không phải là mới mẻ gì, ai còn sợ tiền nhiều bao giờ. Chỉ là…chỉ là ta nợ mối tình cay đắng quá…Nàng ấy tuy đanh đá, nhưng khi đối với ta thì lại không còn gì để nói…”

Ý chí hơi dao động, hắn dắt ngựa đi chậm về phía trước, gió thu lùa vào từng kẽ lá, lá rơi xuống vai hắn, gió mang đến sự hiu quạnh trong lòng hắn, hắn thò tay phủi chiếc lá kia xuống, khẽ thở dài:

“Thôi, quyên đi, không để chuyện này làm tâm gan mình rối bời nữa, đợi khi mưa tuyết mùa đông, dân chúng Lô Lĩnh được nghỉ ngơi, ta sẽ bỏ chút thời gian về Phách Châu, chấm dứt ân oán kia, làm quan mấy năm rồi, mấy ngày đó sẽ cho tâm hồn không bị ràng buộc gì hết. Những mỹ nhân giống Tử Du, Diễm Diễm, nếu có thêm một mạng nữa, ta không biết thế nào là đủ, giờ sao trong đầu lại có cái ý niệm được voi đòi tiên thế này? Lòng tham không đáy, ắt sẽ bị quả báo”.

Dương Hạo chậm rãi bước vào hiệu Lý gia, người hầu Lý gia liền ra chào, Dương Hạo thường xuyên đến đây, nên hắn đã trở nên quen thuộc với những người này. Người hầu toan đi bẩm Lý Ngọc Xương, Dương Hạo cười nói:

“Không cần phiền tới Lý viên ngoại, lần này ta đến, ta muốn gặp Đường cô nương, ngươi thấy ta định đi bẩm Lý viên ngoại đó hả?”

Nói xong, bảo người hầu đi gọi Đường Diễm Diễm ra sân.

Bên ngoài cửa hiệu của Lý gia có một cái sân lớn, trong sân lại được ngăn ra những sân nhỏ. Nơi Đường Diễm Diễm ở có một cái sân nhỏ. Trong sân lại được phân ra ngoài sân và trong sân, tuy sân này xấu xí nhưng cũng được coi là đẹp hơn các sân khác.

Đến trước sân, Dương Hạo chỉnh lại mũ cánh chuồn của mình, sửa sang lại quần áo rồi bước vào sân, không có ai cả, yên tĩnh, Dương Hạo thấy cửa thứ hai mở, liền bước qua đi vào cổng bên trong.

Cái bình mà Đường Diễm Diễm ném, chẳng những không vỡ, ngược lại nó còn kêu “Keng” một tiếng rồi bắn lên cao, khiến nàng kinh ngạc. Nhặt chiếc bình đó lên xem, phát hiện ra chiếc bình bị vỡ phần gốm, để lộ ra màu đồng trắng. Chiếc bình đồng trắng ấy có được gọi là đã bị nàng đập vỡ rồi không? Đường Diễm Diễm thấy không thể hiểu nổi.

Hóa ra, năm đó Đường lão thái gia theo lệnh của phu nhân mà làm thêm một chiếc bình giống hệt cái cũ, lúc đó không có nghề làm gốm, mà ông ta lại là chủ nhân của Đường gia, còn nhiều việc lớn cần phải làm, sao có thời gian đi Giang Nam tìm vị cao thủ làm gốm để làm lấy một cái thật giống. Vì thế chỉ tìm một người thợ rèn sắt làm nó, bên ngoài là lớp gốm, vẽ hình hoa lan, Đường lão phu nhân thì không hiểu gì về gốm sứ nên chiếc bình đó đã che mắt được bà.

Ai ngờ người thợ đó làm theo chiếc bình cũ đã không cẩn thận làm chiếc bình cũ ấy vỡ, Đường lão thái gia chỉ biết đó là của hồi môn của phu nhân, sợ khi về sẽ bị bà ấy giận, nên đã giở thủ đoạn vàng thau lẫn lộn, làm ra hai chiếc bình đồng trắng giống nhau y sì rồi mang về nhà, hai chiếc bình đó giống hệt nhau, chỉ là nghề thủ công đúc đồng bấy giờ kém hơn một chút so với máy móc đúc đồng bây giờ. Vì đồng cũng nặng nên không phát hiện ra sự khác biệt về trọng lượng.

Đường lão thái gia đã qua đời, chuyện này Đường Diễm Diễm không thể biết. Nàng vô cùng ngạc nhiên, lại còn tưởng chiếc bình này dùng chất liệu đồng mới có hiệu nghiệm, cho nên nàng cũng không nghĩ nhiều, cá tính của nàng là bám riết không tha, còn cái việc cỏn con này sao làm nàng phiền lòng được.

Sau khi nàng trở về hiệu buôn Lý gia, liền mượn người hầu cái búa, rồi một mình tới sân, đuổi hết người hầu đi, mang chiếc bình kê lên một phiến đá, nghiến răng nghiến lợi dùng búa đập.

Nàng dù có võ nghệ, nhưng vẫn chỉ là một nữ nhi, sức có hạn, hơn nữa lại chưa bao giờ cầm chiếc búa to như vậy, lần đầu đập xuống không chính xác, đập lệch sang một bên, chỉ nghe thấy “Bụp” một tiếng, phiến đá vỡ vụn, còn chiếc bình kia thì bay thẳng đến cửa sân.

Dương Hạo đang mải miết đi đến cửa sân, vừa mới ngẩng đầu lên thì thấy một vật gì đó trăng trắng bay đến, mặc dù hắn có võ, giác quan thứ sáu hơn người thường, nhưng chiếc bình bay như tên, khi hắn phát hiện ra có vật lạ bay đến, cố né sang một bên nhưng đã muộn.

Dương Hạo vừa ngẩng đầu nên cũng không thấy rõ vật đó là vật gì, chiếc bình đồng trắng nhằm mặt hắn mà bay tới, Dương Hạo không kịp né thì đã “Cộp” một tiếng, chiếc bình gõ vào đầu hắn, da đầu hắn bị bong, máu chảy xuống mặt be bét.

Ông lão Lâm Bằng Vũ và Trình Đức Huyền hùng hổ tới hiệu buôn Lý gia.

Bọn họ vốn đang ở đằng sau cốc giải quyết vài việc, vì cái vụ án tranh chấp, đúng vào lúc đó, Phạm Tư Kỳ vội đến thông báo là tri phủ đài đại nhân đã trở về, mời họ nhanh chóng trở về, có việc cần bàn, nên hai vị này mới gấp rút về. Hai người đến tri phủ nha môn mới biết Dương Hạo đi hiệu buôn Lý gia, hai người không chần chừ lại đi đến đây.

Bọn họ giải quyết chuyện gì vậy?

Hóa ra, hôm trước Mộc Khôi trở về, mang theo rất nhiều tù binh Đông Dương Trại và dân chúng người Khương. Trai tráng Đông Dương Trại những tên đã bị chết không nói làm gì, còn đàn bà trên thảo nguyên thì như hàng hóa vậy, ai là chủ nhân của họ thì có quyền xử lý, nên đàn bà và những đứa trẻ theo quy tắc trên thảo nguyên thì được phân cho các kỵ sĩ. Về phần này, Dương Hạo và người Khiết Đan tiến hành phân thể chế giống nhau, cũng là một châu hai chế độ.

Còn về phần người Khương vốn trở thành nô lệ sau cuộc chiến với Đông Dương Thị, đã được Dương Hạo coi là dân chúng bình thường, sắp xếp ổn thỏa. Lâm Bằng Vũ ở trong cốc cho bọn họ ở cùng một khu với nhau, rồi lại có người giúp đỡ họ làm lều trại, nhà tranh, phân phát lương thực, tạm thời dàn xếp như vậy, chuẩn bị cho họ đăng kí làm hộ tịch, hỏi họ các công việc trước đây của họ rồi sắp xếp nghề nghiệp.

Có vài dân chúng nhàn cư vi bất thiện. Có một tên họ Hoa tên Vô Nguyệt, vốn là cậu ấm quần là áo lượt của Bắc Hán, đất Bắc thường xảy ra chiến loạn, gia đình xuống dốc, Hoa công tử sa cơ lỡ bước liền gia nhập vào nhóm một bọn lưu manh, chơi bời chác táng, rồi sinh ra những ý đồ hãm hại lừa gạt người khác.

Sau khi đến Lô Lĩnh Châu, tên này hết ăn lại nằm, không làm gì cả, về sau thì lại kinh doanh sòng bạc. Nhưng gần đây vì người Khương thường đến cướp bóc, thương nhân không dám tới Lô Lĩnh Châu buôn bán, sòng bạc vắng vẻ, hắn không có việc gì làm, cả ngày chỉ đi chơi.

Hắn đến đây đi dạo, gặp Lâm Bằng Vũ tiên sinh đang bố trí nhà cửa cho người Khương, trong đó có một thiếu nữ, dáng người yểu điệu, khuôn mặt khả ái, tuy lam lũ, sắc mặt không được tươi tắn, song cũng gọi là có sắc, hắn bỗng động lòng.

Đám người Khương vừa từ kiếp nô lệ trở thành thường dân, lại được bố trí sống giáp ranh với người Hán, thấy ai cũng nơm nớp lo sợ. Thấy bọn họ yếu đuối như vậy, tên Hoa Vô Nguyệt này mới nảy ý định muốn bọn người Khương làm tù binh tiếp, biết quan phủ cũng sẽ không phân xử cho bọn chúng, bởi vậy mà hắn nhắm túp lều của thiếu nữ kia, đến ban đêm thì lén lút vào trong trại, giở trò đồi bại.

Cha của thiếu nữ đó biết tin liền tới ngăn cản, thì bị Hoa Vô Nguyệt cho một đao mà chết tươi, sự việc đó vỡ lở, hắn vội vàng trốn chạy, thì bị một thợ rèn cao to người Khương tóm được. Nếu như theo lệ cũ thì sẽ bị đánh chết thì thôi, xác vứt cho chó, nhưng ở đây dù sao cũng là Lô Lĩnh Châu, bọn họ mới đến, sợ tùy tiện xử lý người Hán sẽ bị giam giữ, đợi đến khi trời sáng liền đến chỗ Lâm chủ bộ đăng kí hộ tịch khóc lóc om sòm.

Lâm chủ bộ nghe thấy vậy giận tím mặt, lập tức sai người đi bẩm chủ quản tư pháp luật lệnh Trình phán quan, mời hắn đến xử lý.

Trình Đức Huyền mấy ngày nay ở Lô Lĩnh Châu cảm thấy không thoải mái, dù hắn giờ đã làm việc cần cù và thành khẩn, chịu mệt nhọc, rất cung kính với Dương Hạo, nhưng quan lại phủ nha lại không thân thiết với hắn, hơn nữa lại không chiếm được sự khen ngợi và cảm tình của bách tính môn dân. Tất cả dân chúng Lô Lĩnh đều coi Dương Hạo như phụ mẫu tái sinh, mà hắn thì lại không có cái uy gì trong mắt dân chúng.

Vì sau khi Lô Lĩnh thiết lập châu phủ, dân chúng cũng không biết là ai, chỉ biết ân oán ban đầu trên đường xảy ra với khâm sai Dương Hạo, nên hắn bị dân chúng xa lánh. Tuy nói hắn hiện giờ là phán quan của phủ này, mọi người không dám có ý kiến gì với hắn, nhưng trong mắt thì tỏ rõ sự khinh thường.

Cũng không biết ma xui quỷ khiến thế nào, hắn cảm thấy đến nha dịch cũng không coi hắn ra gì. Ở Lô Lĩnh Châu này, hắn thực cô độc, hắn không có tác dụng gì, ngay cả đến một người bạn cũng không có, sự cô độc và sự lạnh nhạt của người khác khiến Trình Đức Huyền ngấm ngầm chịu đựng, nhưng như vậy, hắn ở Lô Lĩnh Châu sau này làm sao có thể hoàn thành sứ mạng thành phủ doãn đại nhân được đây?

Song xích mích giữa người Hán và người Khương dẫn đến án mạng thì lại mời Trình Đức Huyền, Trình Đức Huyền tự thấy cơ hội quan trọng nâng hình tượng bản thân trong mắt bách tính môn dân đã đến. Dân chúng Lô Lĩnh Châu vốn là bốn vạn người, được sự ủng hộ của họ, mới có thể trở thành chủ của Lô Lĩnh Châu, mới có thể bảo đảm cho việc thực hiện lệnh thông suốt, theo thể từ cao xuống thấp. Mà người Khương, dù không nói đến mối thù cướp bóc và giết hại với dân chúng Lô Lĩnh Châu, thì họ cũng chỉ là bọn tù binh bị bắt vì thua trận, dám dựa vào cái gì để thừa hưởng quyền lợi và sự bảo đảm giống người Hán?

Hắn tin rằng, nếu như xử lý tốt vụ án này, đứng sang phía người Hán, nhất định sẽ nhận được sự ủng hộ của toàn thể dân chúng, triệt tiêu đi tình hình bất lợi xoay quanh hắn.

Ban đầu, Dương Hạo quyết định dùng cách ăn miếng trả miếng với người Khương, lấy máu phải trả bằng máu, hung hăng đả kích dáng vẻ kiêu ngạo và bệ vệ của bọn họ, Trình Đức Huyền phản đối làm vậy, hắn thấy chó cắn người một miếng thì người không được chấp chó, người phải giữ được uy phong của người, nên lấy lòng nhân nghĩa, vương đạo mà trị, mà cảm hóa những người dân thiếu văn minh. Nhưng cách làm của Dương Hạo lại có hiệu quả rõ ràng, bọn người Khương bị đánh một đòn đau thì mới trở nên cung kính, lễ độ như vậy.

Trình Đức Huyền vội đến hiện trường, phán xét vụ án trước rất nhiều dân chúng người Hán và người Khương. Hoa Vô Nguyệt lấp liếm xảo quyệt trước mặt hắn, chỉ nói thiếu nữ người Khương kiếm kế sinh nhai bằng việc làm **, lúc đó chủ động mời chào hắn. Hắn không nghĩ rằng người Khương lại ngang ngược vô liêm sỉ như vậy, chặn đường hắn đi, cướp tiền bạc của cải của hắn, hai bên xảy ra tranh chấp, khi hắn rời đi, cha của thiếu nữ đó bèn rút ra một con dao nhỏ đe dọa, trong lúc hắn tự vệ, đã vô ý giết lão kia.

Hoa Vô Nguyệt tuy là tên lưu manh vô lại, nhưng cũng là kẻ đã từng học hành, nên bịa lời khai rất giỏi, người Hán khu đó vốn chẳng có cảm tình gì với lũ người Khương, trong lời khai của hắn lại vô tình nhắc đến sự hãm hại của người Khương Hoành Sơn đối với dân chúng Lô Lĩnh Châu trong những ngày qua, kích thích mối thù của mọi người, nhiều người nhất thời không phân đúng sai đã cổ vũ ủng hộ hắn.

Hoa Vô Nguyệt tuy bịa lời khai rất thành công, bên trong kỳ thực không phải không có sơ hở, hung khí giết người kia rõ ràng không phải là dụng cụ mà người Khương quen dùng, huống hồ dân chúng người Khương vào cốc đều đã được kiểm tra kĩ càng, làm sao có chuyện dấu dao nhỏ trên người được? Nếu tinh tế một chút, dựa vào kinh nghiệm mấy năm làm ở phủ Khai Phong thì có thể tìm ra rất nhiều sơ hở.

Nhưng Trình Đức Huyền vội vàng thẩm tra xử lý, rồi lấy luôn lời khai của Hoa Vô Nguyệt, vu cho người Khương kia làm kỹ viện, không nộp thuế, lừa bịp tống tiền khách, tự rước họa vào thân. Mà Hoa Vô Nguyệt là vì tự vệ mà giết người, vốn không có gì sai, nhưng hắn chơi bời lêu lổng, không làm việc đoàng hoàng, mới xảy ra chuyện đó thì chỉ phạt cảnh cáo hắn mười roi.

Trình Đức Huyền đổi đen thành trắng, rõ ràng là che chở cho hành vi sai trái của người Hán, bọn người Khương thất vọng liền làm loạn. Bọn họ vốn đã lo lắng, không dám tin vào sự bảo đảm của Dương Hạo, không dám tin vào bọn người Hán, nay đại quan người Hán che chở cho cái tên hành hung giết người, hãm hiếp thiếu nữ, nên bọn họ không dám tin rằng sau này tộc người của mình sẽ nhận được đãi ngộ gì.

Rất nhiều người Khương của các bộ lạc ra nhập vào Lô Lĩnh Châu, cùng đến nghe hắn xử lý vụ án, thấy hắn xử lý bất công như vậy cũng xôn xao. Chẳng qua nơi này là địa bàn của người Hán, bên ngoài là đại quân người Hán, bọn họ cũng thấy sợ, người nhà, tộc dân đều ở đây, họ không có dũng khí bạo loạn phản kháng, chỉ có thể xôn xao bàn tán.

Lâm Bằng Vũ ngồi ở một bên nghe xử, cũng bị Trình Đức Huyền chọc giận, thấy tên cổ hủ này không biết đường thay đổi, lúc đầu Dương Hạo quyết định chế độ tàn bạo thì hắn không đồng ý, nguyên nhân chủ yếu là sợ người Khương làm loạn, một khi dùng thủ đoạn khốc liệt trả thù, có thể bảo đảm an toàn cho bách tính môn dân, nhưng ngược lại bất lợi cho con đường làm quan của Dương Hạo. Hắn vốn là chủ bộ trong nha môn của Dương Hạo, thế hệ con cháu của hắn cũng làm quan dưới quyền Dương Hạo, tiền đồ của chúng nằm trong tay Dương Hạo, làm sao không vì Dương Hạo mà lo lắng được?

Nhưng giờ Dương Hạo có công rất lớn, có danh tiếng có gièm pha, ưu và nhược hòa lẫn nhau. Không muốn dùng cách lấy bạo mà trị bạo nhưng cuối cùng cũng phải dùng, giờ chiến tranh đã kết thúc, nếu Dương Hạo có thể đồng hóa được bọn người Khương, bảo đảm cho sự ổn định của Lô Lĩnh Châu, thế thì tiếng tăm sẽ còn vang xa hơn.

Nhưng Trình Đức Huyền lại bất công như vậy, ngộ nhỡ đám người Khương này lại quyết tâm tạo phản lần nữa, không biết sẽ lại chết bao nhiêu dân chúng, cho dù quân đội có đem quân đi đàn áp thì không thể làm lành được mối quan hệ giữa hai bên, việc này một khi đến tai triều đình, không phải là bằng chứng Dương Hạo lấy bạo trị bạo mà làm hằn sâu mối thù của dân chúng sao?

Cho nên Lâm Bằng Vũ đã để ý và có sự tranh chấp xảy ra với Trình Đức Huyền ngay tại hiện trường. Trình Đức Huyền quản luật pháp, ngoài chủ quan của phủ này, người khác không có quyền vung tay múa chân trước mặt hắn. Đặc biệt là khi phán quyết của hắn đưa ra, người Hán nghe phán xét đều hoan hô ca ngợi hắn, Trình Đức Huyền nhất thời kích động: Khuôn mặt u sầu của hắn đã bao lâu rồi không được nghe dân chúng ca ngợi?

Trình Đức Huyền được dân chúng hoan hô, thì càng thêm lâng lâng, vốn không để ý đến ý kiến của Lâm Bằng Vũ, tranh chấp hai người chưa đâu vào đâu thì nghe tin Dương Hạo đã trở về, vì thế cùng nhau quay về, muốn nghe quyết định của hắn. Trình Đức Huyền không sợ đi gặp Dương Hạo, làm việc với Dương Hạo lâu như vậy rồi, hắn cũng phần nào hiểu được con người của Dương Hạo, ngay cả khi hai người có oán giận gì đó, Dương Hạo cũng không phải là loại người công tư lẫn lộn, huống hồ khi nghe nói người Khương đến đánh úp thì Dương Hạo phản ứng rất kịch liệt, hắn cực kỳ coi trọng và ủng hộ người Hán, phản ứng của hắn với người Khương kịch liệt như vậy, coi là thù địch, há lại không đồng ý với cách phán quyết của mình. Nếu hắn phản đối, không phải nện cho dân chúng một cú sao?


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.