Trên điện Tập Anh, mấy vị cận thần của thiên tử đang thảo luận làm thế nào để tăng cường việc phòng bị hỏa hoạn ở kinh thành. Thành Biện Lương lửa cháy nghi ngút, kiến trúc nhà cửa và dân cư đông đúc, tổn thất hỏa hoạn càng ngày càng nghiêm trọng, một chốc một lát mà đốt đi hơn mấy trăm hộ dân, dù có là phủ đệ vương công đại thần, cung điện trong hoàng cung cũng không thể may mắn thoát khỏi, điều này khiến cho hoàng đế cũng coi trọng việc phòng bị hỏa hoạn, nên mới mời quần thần đến bàn bạc, đưa ra cách phòng ngừa hỏa hoạn.
Tể tướng Triệu Phổ, phó tướng Lữ Dư Khánh, Tiết Cư Chính, Khai Phong doãn Triệu Quang Nghĩa, kế tướng Sở Chiêu Phụ, phó kế tướng La Công Minh, mỗi người tự phát biểu ý kiến của mình, đại khái vẫn là tăng cường quản lý đám cháy, cách truyền thống là đi lấy nước xung quanh, hô hào dập lửa. Cách này vốn là phương pháp quen thuộc, nhưng nếu áp dụng cho thành Biện Lương, hiệu quả sẽ có hạn.
Triệu Khuông Dận thấy họ đưa ra những cách lý giải không có chút mới lạ gì, bèn nói:
“Trẫm hôm nay đi thành Tây cấm quân doanh trung, tận mắt chứng kiến hỏa hoạn Biện Lương, đám cháy không nhỏ, trong khoảnh khắc mấy trăm hộ hóa thành tro tàn, của cải của dân chúng cả đời tích góp mới có được bị cháy trụi, gào khóc thê thảm, thật thương tâm.
Lúc ấy có Dương Hạo nguyên nhậm Lô Châu tri phủ tham gia vào việc chữa cháy, nghe những lời hắn nói. Giờ trẫm mời các khanh đến đây bàn bạc, nếu các khanh cũng không thể đưa ra cách nào hay, hạ chiếu, Dương Hạo đến kinh thành coi giữ công việc phòng chữa cháy, không biết các khanh nghĩ sao?”
La Công Minh nghe xong hai hàng lông mày nhíu lại, hắn định cư ở đây, biết triều đình nghi ngờ Dương Hạo, giờ Quan Gia lại đề bạt thế này, không biết là họa hay phúc đến với Dương Hạo, kế an toàn vẫn là Dương Hạo này giờ vẫn không nên xuất đầu lộ diện thì tốt. Dương Hạo là người bạn thân con út Khắc Địch mình yêu thương nhất, thái độ lại vô cùng nhu thuận, không ngại vì hắn tiến lên nói đỡ một lời.
Lòng nghĩ vậy, La Công Minh tiến lên phía trước một bước, cúi người thi lễ, nói:
“Quan Gia, thần nghĩ rằng, nói dễ làm khó, khi xảy ra hỏa hoạn, thuận miệng nói mấy câu, nghe giống như có cách giải vây, song chưa chắc đã có đủ kiến thức về lĩnh vực này. Nếu Quan Gia cảm thấy Dương Hạo này có cách gì hiệu quả, có thể mời hắn đến, đưa ra cách phòng cháy, nếu như có lý có tình, có thể giảm bớt thiệt hại, thì cân nhắc chức cho hắn cũng chưa muộn”.
Triệu Quang Nghĩa ngồi chỗ cao cao, nhìn bao giờ cũng hơn người ta một cái đầu, nhắc đến Dương Hạo làm hắn suýt té ngã, hắn vốn không có thiện cảm đối với tên Dương Hạo này. Tuy dựa vào thân thế địa vị của hắn, nếu như để cho Dương Hạo nắm một chức quan dù có nhỏ đi chăng nữa thì hắn vẫn canh cánh trong lòng, có cơ hội sẽ gây bất lợi cho hắn.
Những lời nói của La Công Minh rất hợp với ý của hắn, Triệu Quang Nghĩa lập tức tấu:
“La đại nhân nói có lý lắm. Quan Gia, thần ở phủ Khai Phong, hỏa hoạn lần này, là việc của vi thần. Giờ hỏa hoạn xảy ra, làm Quan Gia lo lắng, vi thần thực sự rất sợ hãi. Thần từ nay về sau sẽ tăng cường quản lý mồi lửa, giảm bớt nguyên nhân phát sinh hỏa hoạn. Còn về phần Dương Hạo, chí lớn nhưng tài mọn, chỉ giỏi khôn vặt, làm sao mà kham được trọng trách này. Lựa chọn và bổ nhiệm quan viên là việc quan trọng của triều đình, thần chưa bao giờ thấy tên Dương Hạo này có sở trường trong việc phòng cháy chữa cháy, cho nên không nên giao trọng trách lớn này cho hắn. Xin quan gia nghĩ lại”.
Triệu Khuông Dận lại nhìn sang Sở Chiêu Phụ, bèn hỏi:
“Sở Khanh nghĩ thế nào?”
Sở Chiêu Phụ tự là Củng Thần, người Tống thành. Hắn là một vị đại thần, vốn là một viên võ tướng, vì biết toán, hắn được coi là người có văn hóa, bởi vậy hắn làm tam ti sứ, cũng là một kế tướng chủ quản tài chính thuế má.
Người ngày làm việc cần kiệm, xưa nay không giám lấy việc công xen việc tư, chỉ keo kiệt một chút, và cũng được coi là quan thanh liêm. Hắn vốn là một võ tướng, quản lý tài chính chỉ là miễn cưỡng, bình thường rất nhiều công vụ đều là phó tướng La Công Minh thay hắn làm, việc đi cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy hắn dốt đặc cán mai, nghe Hoàng đế hỏi, vội vàng nghĩ ngợi, quen dựa vào La Công Minh nói:
“Cái này, thần nghĩ rằng Triệu đại nhân, La Công Minh nói đều có lý, mong bệ hạ xem xét”.
Triệu Khuông Dận nhíu mày, lại nhìn về phía Triệu Phổ, còn chưa hỏi hắn, Triệu Phổ đã tiến bước phía trước, chắp tay thi lễ nói:
“Quan Gia, thần nghĩ rằng, tai nạn nước lửa, lẽ ra nên xây dựng các trạm, chuyên lo kiểm tra phòng tránh, như thế mới giảm bớt hỏa hoạn, có lợi cho nước cho dân. Biện môn cháy, thần cũng có mặt, theo lời Dương Hạo nói, thì thực có cách hay, Quan Gia ái tài, đừng ngại đề bạt”
Triệu Quang Nghĩa phản đối, còn Triệu Phổ thì ủng hộ, còn Quan Gia thì rõ ràng đã có kế hoạch, Triệu Phổ tự nhiên tán thành. Triệu Khuông Dận duyệt, vuốt râu cười nói:
“Triệu Phổ nói có lý lắm, ý trẫm là tìm một nha môn phòng cháy chữa cháy, tìm một người phù hợp phụ trách chuyện này, ha ha…”
Hắn chuyển ánh mắt sang nhìn các huynh đệ hơi khó coi, vội trấn an nói:
“Nếu như thế, trẫm sẽ điều hòa các khanh một chút, Dương Hạo thì ủy thác hắn đi sai sứ, nha môn này có thể xây ở Nam nha, nhậm chức thì thuộc quản lý của phủ Khai Phong”.
***
Mẫu Y Kha bưng khay trà từ phòng Dương Hạo đi ra, mới đi dọc hành lang gấp khúc được vài bước, thì trán bị một vật nào đó ném phải, Mẫu Y Kha kêu “Ai zô” một tiếng, suýt nữa nhỡ tay làm rơi khay trà, cố nhìn, mượn ánh sáng ở hanh lang, chỉ thấy trên khay trà có một tờ giấy được cuộn tròn.
Mẫu Y Kha ngẩng đầu lên xem, cây tường vi trong viện khẽ rung trong cơn gió lạ, xung quanh vắng vẻ, nàng vội buông khay trà, mở ra giấy ra, có chữ viết, song lại không biết viết gì, vội xoay người lại đi vào phòng Dương Hạo.
Dưới ánh đèn, Dương Hạo nhìn vào tờ giấy kia, nhìn từ trên xuống dưới một lần, rồi mặt trầm xuống. Mẫu Y Kha không nhịn được, bèn hỏi:
Mẫu Y Kha không dám nhiều lời, lặng lẽ lui ra, Dương Hạo chỉ mặc quần áo lót, phủi phủi hai tay, thong thả bước đến dưới ánh đèn..
Trang giấy này là ai mật báo, hắn không biết được, nhưng theo tình lý mà phỏng đoán, những việc được nói trong giấy này là thật, nếu đơn thuần dựa vào thứ này, thực khó nói có thể gây bất lợi gì cho hắn. Trên giấy chỉ nhắc đến một chuyện, Quan Gia cần lập một hữu ti nha môn việc phòng cháy chữa cháy, sai sứ này cắt cử cho hắn, hơn nữa nha môn này còn bị chịu sự quản lí của phủ Khai Phong.
Tin này lập tức đã khiến cho Dương Hạo lơ mơ: “Lẽ nào hôm ấy cứu hỏa bị Triệu tướng công nhìn thấy, cho nên mới tiến cử ta lên?”
Dương Hạo khóe miệng run rẩy nói:
“Trời xanh không có mắt, đây không phải là cái mà ta theo đuổi, huống hồ còn làm việc dưới Triệu Quang Nghĩa. Cho dù Triệu Quang Nghĩa đại nhân đại lượng, khinh thường vốn kiến thức nhỏ mọn của ta, nhưng Trần Đức Huyền giờ có thể đã về kinh rồi, giấc mộng con đường làm quan của hắn bị đứt đoạn, hận ta tới tận xương tủy, nếu không vì mục đích trả thù mới là lạ. Vốn cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, giờ như thế nào mới tốt đây?
Không tiếp chỉ thì không được, hơn nữa không có thành tích gì cũng không được. Như vậy, Trình Đức Huyền có càng nhiều cơ hội lấy cớ lời rèm pha, huống hồ Quan Gia lại thích người thẳng thắn, lại không thích người không tài cán gì, hắn thích người vừa thẳng thắn vừa tài giỏi, có thể làm những chuyện đâu ra đấy, nếu như trước mặt hắn không hề có chiến tích gì, sợ rằng bản thân sẽ bị Nam nha nhòm ngó, hắn cũng lười để ý, thôi vậy, bất luận chân Quan Gia to thế nào cũng phải ôm lấy”.
“Nhưng muốn có thành tích gì đó mà lại làm việc ở phía dưới Nam nha, nói dễ nhưng làm khó, còn không có ai cản đường sao? Đến lúc đó tấn công ngầm hay công khai sợ rằng có thể đối phó được không? Ta ở kinh thành không có quen biết ai, đến khi đó ai có thể bảo vệ che chở cho ta đây?”
Dương Hạo lưỡng lự, trầm tư suy nghĩ, không còn cách nào khác, chợt nghe tiếng cánh cửa kêu vang, Dương Hạo giật mình, hỏi: “Là ai?”
“Đại nhân, tôi về rồi”.
Dương Hạo nghe giọng nói, kêu thất thanh: “Bích Túc? Mau, mau vào đây”.
Cửa phòng được mở, một bóng xám tiến vào, chỉ thấy người này đỉnh đầu trống trơn, mặt mày thanh tú, mặc quần áo kín, chính xác là Bích Túc đến rồi”.
Dương Hạo ngạc nhiên nói: “Bích Túc, sao ngươi lại ăn mặc thế này?”
Bích Túc tiến lên chào nói:
“Một lời khó nói hết, thuộc hạ phụng sai phái của đại nhân, đi điều tra người nhà Chiết cô nương, nhưng vẫn không tìm thấy tin tức của cô ấy và người nhà, về sau được tin từ nhà xe, hình như có một vị cô nương giống Chiết cô nương đi Đường Quốc rồi, thuộc hạ bèn cùng người đuổi theo. Người Đường luôn cảnh giác với người phương bắc, nhưng họ đặc biệt sùng bái Phật giáo, thuộc hạ liền giả làm hòa thượng tiện làm việc, song…thuộc hạ hổ thẹn quá, từ đầu chí cuối vẫn không có tin tức gì của Chiết cô nương”.
Dương Hạo im lặng một lúc lâu, thản nhiên nói:
“Tìm người như vậy chẳng khác nào tìm kim dưới đáy bể. Haiz…có lẽ ta và nàng chỉ có duyên mà vô phận, không tìm được thì…thôi vậy, nhưng mong nàng bình yên vô sự”.
Bích Túc vâng vâng dạ dạ:
“Vâng, thuộc hạ không thu hoạch gì được ở Đường Quốc, đành trở về Khai Phong tìm, lúc này mới nhận được tin từ Phi Vũ, biết được đại nhân đã đến Khai Phong, định cư ở nơi này luôn, lúc này mới tìm đến giữa đêm hôm thế này. Đại nhân vào triều làm quan, Quan Gia không làm khó ngài chứ, có thích không ạ?”
Dương Hạo cười mếu máo nói:
“Vốn dĩ là rất thoải mái, đúng là cầu gì được nấy. Ta thấy giờ ngày nào cũng vậy. Nhàn quá lại hóa buồn, lần sai sứ này khó nói là mang đến tai hay họa cho ta, ta không thể từ chối được, lại chẳng có gì tự bảo vệ mình”.
Dương Hạo nhìn Bích Túc muốn nói gì đó nhưng lại thôi, hắn lắc đầu bước thong dong đến một bên, quay đầu lại nhìn toàn người Bích Túc lần nữa, suy tính gì đó, ánh mắt trở lên khác thường, Bích Túc bị hắn nhìn chằm chằm, sợ hãi, cảm thấy có gì đó, không nhịn được bèn hỏi:
“Đại nhân, trên người thuộc hạ có gì không ổn sao?”
“Không có gì là không ổn cả”.
Dương Hạo cười:
“Trong triều không tìm thấy bùa hộ mệnh, vừa nhìn thấy ngươi, ta lại nghĩ hay là đi lối tắt, chính là cái gọi là bố y khanh tướng, nhất phẩm bạch sam, không được làm khanh tướng, nhưng nếu có uy tín của một khanh tướng, thì ai muốn động vào ta cũng phải suy nghĩ cho kỹ…”
“Đại nhân, ngài xem ta thế này có được không?”
Bích Túc choàng bộ quần áo tro của hòa thượng, sợ hãi nói: “Thuộc hạ chưa từng làm hòa thượng, khi ở Quảng Nguyên là vùng quê thì thế nào cũng được, thành Biện Lương này nhân tài ẩn dật, ta chỉ sợ…”
“Không phải sợ, bổn quan trước đã đi chùa Đại Tướng Quốc, cũng thấy các cao tăng, ni cô Biện Lương ở trước cửa chùa bán những cái ví thêu hoa, cứ một vị hòa thượng béo một cái đệm cói, ở đó giảng Phật pháp, so tài chính là giọng lớn nhỏ, giọng ai thét to có khí thế thì được những reo hò ủng hộ, thì nói hắn là một cao tăng hữu đạo, ta thấy không mạnh hơn ngươi là mấy”.
Dương Hạo cười an ủi, Bích Túc vẫn chưa yên tâm, lại nói: T
“Nhưng lần này theo đại nhân ra, ngộ nhỡ có người hỏi tôi về Phật pháp, một đoạn hoàn chỉnh tôi cũng không thuộc, thì thể nào cũng bị phát hiện ngay tại trận”.
Dương Hạo nói:
“Có gì mà phải thuộc, ngươi nhớ rằng, ngươi là cao tăng Tây Tạng đến, Phật pháp cao siêu, sao lại phải học cái tiểu sa di đó, còn phải thuộc kinh văn gì nữa sao? Còn nữa, không được xưng là thuộc hạ, mà phải xưng là bần tăng khi nói chuyện. Nguyệt Nhi, Tiểu Vũ hai ngươi nhớ kỹ đấy, phải gọi Bích Túc là đại sư, không được gọi thẳng tên ra”.
Tiểu Vũ và Mẫu Y Kha đồng ý: “Vâng”.
Bích Túc chau mày, méo mặt nói:
“Thuộc…bần tăng không thuộc kinh văn, nếu có người thỉnh giáo bần tăng Phật học, cũng không thể không nói câu nào chứ? Lúc đó phải làm sao đây?”
Dương Hạo cười nói:
“Cái này dễ thôi, cao tăng mà, đều thích nói lời sắc bén. Người ta nói gì, nếu ngươi cảm thấy không tiện trả lời, vào lúc đó…thì nói hai khả năng, ngươi yên tâm, càng nói những chuyện không đâu, mù mịt thì càng giống với thiền cơ (diệu pháp của các hòa thượng Thiền tông), người ta càng cảm thấy ngươi Phật học cao siêu, không hiểu còn phải giả vờ hiểu ý chứ, hỏi cũng không dám hỏi nữa. Hơn nữa, ngươi hóa trang thành vị hòa thượng thích rượu thịt), có vài lời không giống người xuất gia, cũng cần phải chú ý”.
Dương Hạo nói xong lại nói: “Ta nói cho ngươi hai bài từ, ngươi có học thuộc lưu loát được không?”
Bích Túc nói: “Học thuộc lòng rồi, nhưng…”
“Vậy thì được, chúng ta đi, đi đến Như Tuyết Phường nổi danh thôi”.