Nhìn huynh đệ bên người càng lúc càng ít, rất nhiều quân Tống cùng binh sĩ Khiết Đan giương cung lắp tên vây mình vào giữa, Lô Nhất Sinh thở dài một tiếng, vứt cây cương xoa trong tay xuống đất.
"Nhạn Cửu là huynh đệ ruột của ngươi? Nói đi, hai huynh đệ các ngươi, một người làm nô cho hào môn, một người làm cường đạo ngoài tái ngoại, rốt cuộc là vì cái gì?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi mà chỉ cười lạnh không nói.
Dương Hạo cười cười: "Bí mật này có giải được hay không cũng chẳng liên quan gì tới ta, ngươi muốn giữ bí mật, vậy cứ mang theo nó xuống âm tào địa phủ đi."
Dương Hạo vừa mới vung tay, một đợt những tiếng cung tiễn lên dây vang lên, vô số mũi tên lập tức chĩa về phía Lô Nhất Sinh, chỉ cần Dương Hạo hạ tay xuống là những mũi tên lạnh lẽo này sẽ găm chặt vào cơ thể Lô Nhất Sinh. Đúng lúc này, ánh mắt Lô Nhất Sinh chợt lóe lên, đột nhiên hô lớn: "Chậm đã!"
Dương Hạo lắc đầu nói: "Ta sẽ không tha mạng cho ngươi đâu. Rất nhiều huynh đệ của ta đã chết, vì vậy ngươi đừng cố gắng xin ta tha mạng, khiến cho bọn họ khinh thường ngươi. Nếu đã phải chết thì nên chết cho xứng hai chữ hán tử!"
"Ta không xin ngươi tha mạng. Từ ba mươi năm trước, đáng ra ta đã nên chết rồi. Lô mỗ cửu tử nhất sinh, còn sống tới bây giờ đã là may mắn lắm rồi!" Lô Nhất Sinh ngạo nghễ ưỡn ngực lên nói: "Dương Hạo, ta chỉ muốn biết, Đinh Thừa Nghiệp hiện giờ thế nào? Hắn hiện tại đang ở nơi nào? Ngươi có tin tức gì của hắn không?"
Dương Hạo nhìn hắn, trong mắt không khỏi lộ ra một vẻ cổ quái. Lô Nhất Sinh có chút kích động nói: "Ta sắp phải chết, hiện giờ ta chỉ muốn biết nơi hạ lạc của hắn. Nếu ngươi biết tin tức của hắn, xin hãy nói cho Lô mỗ, Lô mỗ cầu xin ngươi."
Dương Hạo chậm rãi nói: "Định Thừa Nghiệp có quan hệ gì với ngươi?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi lập tức ngậm chặt miệng không đáp.
"Cái gì?" Con mắt còn lại của Lô Nhất Sinh lập tức mở lớn, mang theo vẻ hoảng loạn vội vàng bước lên phía trước hai bước, khàn giọng kêu lên: "Ngươi nói cái gì? Ngươi nói cái gì? Nó đã chết, nó thật sự đã chết rồi?"
Dương Hạo thản nhiên nói: "Đúng, hắn đã chết rồi. Ngay trước cuộc chinh phạt Nam Đường, hắn đã chết trong một cái cống rãnh bẩn thỉu ở Kim Lăng."
Sắc mặt Lô Nhất Sinh chuyển sang trắng bệch, thống khổ gào lên: "Nó đã chết? Nó đã chết! Hậu duệ cuối cùng của Lô gia ta, hậu duệ cuối cùng a. Là ngươi giết hắn? Lô Nhất Sinh ta có thành quỷ cũng không tha cho ngươi, họ Dương kia!"
Lô Nhất Sinh gào lên một tiếng rồi đột nhiên nhào về phía Dương Hạo. "Sưu sưu sưu sưu" vô số lợi tiễn lập tức bắn ra. Dương Hạo vừa nghe hắn gào lên hậu duệ cuối cùng của Lô gia liền giống như bắt được điều gì đó, vội vàng hô lớn: "Dừng tay!"
Nhưng không còn kịp nữa rồi. Lô Nhất Sinh trong khoảnh khắc đã bị bắn thành một con nhím, một con nhím mang theo vô số tên trên người, giương nanh múa vuốt bổ nhảo tới trước người Dương Hạo. Hai gã thị vệ bên cạnh Dương Hạo nhanh tay nhanh mắt, khi Lô Nhất Sinh còn chưa kịp lao đến gần thì đã bị hai thanh khoái đao vung ra như hai dải lụa, trong tiếng kêu gào thê thảm của hắn mà chặt đứt hai bàn tay.
Máu tươi phun ra, Lô Nhất Sinh cả người rơi bịch xuống mặt đất một cái nặng nề. Hai bàn tay cùng bị chặt đứt, trên người găm đầy lợi tiễn, trong cổ họng hắn vẫn tiếng gầm gừ, ánh mắt mang theo vô tận hận ý cùng oán độc, dùng hết sức lực toàn thân là trườn về phía Dương Hạo. Mắt thấy không còn cách nào giết được kẻ thù diệt tộc nữa, hắn gầm lên một tiếng rồi đột nhiên ngửa đầu ra, cắn chặt lấy vạt áo Dương Hạo, dùng hết sức lực mà cắn nghiến, phảng phất như đang cắn vào cổ họng Dương Hạo vậy.
Dương Hạo nhìn vậy nhưng vẫn bất động. Hắn chậm rãi ngồi xổm xuống nhẹ nhàng nói: "Đinh Thừa Nghiệp không phải chết trong tay ta. Là tỷ tỷ hắn tự tay giết hắn đó, giết chết một thằng nghịch tử giết cha hại huynh, thanh lý môn hộ."
Trong ánh mắt mờ đục của Lô Nhất Sinh thoáng hiện lên một chút mê mang, hắn từ từ há miệng, lẩm bẩm: "Hắn không giết cha hại huynh, hắn không giết cha hại huynh. Lô Cửu Tử đại ca ta mới là phụ thân của hắn, ta là thúc thúc duy nhất của hắn, trừ hắn ra, chúng ta không còn người thân nào nữa, không còn một người thân nào nữa rồi, không còn một người nào, không còn người thân nào nữa rồi. Hắn... là hậu duệ duy nhất của Lô gia nhất mạch chúng ta."
Một hàng nước mắt từ từ theo gương mặt hắn chảy xuống, đem những vệt máu đỏ tươi trên mặt hắn hòa tan vào bên trong.
"Cáo hóa thái tử!" Dương Hạo trong chớp mắt đã hiểu ra huynh đệ bọn họ đã làm những chuyện gì. Tinh quang trong mắt hắn chợt lóe lên, túm chặt lấy Lô Nhất Sinh mà hỏi: "Đứa nhỏ thực sự của Đinh gia hiện ở nơi nào?"
Trên mặt Lô Nhất Sinh lộ ra một vẻ tươi cười quỷ dị, nói: "Nó đã sớm chết từ lâu rồi. Nó cùng mẹ nó đều bị ném xuống đáy giếng, sớm hóa thành một đống xương khô. Chết hết, tất cả đều chết hết, Lô gia ta cũng xong rồi. Thừa Tự đường, thất tông ngũ họ, mối thù diệt môn rốt cuộc cũng không báo được nữa rồi."
Dương Hạo tuyệt đối không thể ngờ tới, ở tại nơi này, từ miệng một tên mã tặc tái ngoại lại có thể nghe được cái tên của tổ chức thần bí kia, hắn giật mình gặng hỏi: "Thừa Tự đường? Thất tông ngũ họ, ngươi rốt cuộc là ai?"
Lô Nhất Sinh chỗ song chưởng bị cụt phun máu như suối, trên người lại cắm vô số lợi tiễn, sớm đã lâm vào trạng thái hấp hối sắp chết. Lúc này hắn đã như ngọn đèn hết dầu, mọi âm thanh hình ảnh bên ngoài đã không còn ảnh hướng tới hắn nữa. Hắn chỉ lẩm bẩm: "Phạm Dương Lô thị ta từ triều Hán tới nay, nhất lưu cao môn, huyết mạch chúng ta... tới đây... đã tuyệt."
"Các ngươi là một chi trong Thừa Tự đường thật sao?
Dương Hạo hỏi những không thấy trả lời, nhìn lại thật kỹ chì thấy Lô Nhất Sinh đã trợn con mắt độc nhất lên, không ngờ khí đã tuyệt.
Từ chỗ Da Luật Túng Hoành, Dương Hạo liền biết được phản quân Khánh Vương đã tiếp tục bỏ chạy về phía tây còn Da Luật Hưu cũng đích thân dẫn đại quân đuổi theo quân đội chủ lực của Khánh Vương. Sau không biết được thân phận của Dương Hạo, Da Luật Tunh Hoành không dám chậm trễ, lại phái thêm nhân thủ, hộ tống hắn đi thẳng tới Thượng Kinh.
Dương Hạo từng nghe Thôi Đại Lang nói qua những chuyện về Thừa Tự đường, bây giờ lại từ miệng Lô Nhất Sinh mà biết thêm một chút tin tức. Tổng hợp tất cả lại, hắn đã mơ hồ đoán được ra chân tướng thảm kịch ở Đinh gia. Đinh gia quả thật là bị tai ương oan uổng, bị người ta lợi dụng làm công cụ báo thù, cho nên mới có kết quả thê thảm như vậy.
Hắn biết Đinh Thừa Nghiệp tuy đáng chết, nhưng khi Đinh Ngọc Lạc tự tay đâm chết huynh đệ ruột thịt, trong lòng nàng chắc chắn vẫn có chút gì đó không vui. Nếu như bây giờ kể lại mọi chân tướng cho nàng, nhất định có thể cởi bỏ gánh nặng đó trong lòng nàng.
Lúc này, có trọng binh Da Luật Túng Hoành bảo hộ, Dương Hạo bình tĩnh mà đi, không hề gặp chuyện gì trắc trở.
Đi qua Quy Hóa Châu là tới Thiên lĩnh. Khi nơi này còn thuộc sự thống trị của Trung Nguyên, người ta lại gọi nơi này là Từ Hương lĩnh. Cả dãy Từ Hương lĩnh kéo dài từ đông sang tây, trùng trùng điệp điệp, mây vàng cỏ trắng, đứng trên đỉnh mà nhìn cũng không thể nhìn thấy điểm cuối cùng.
Dương Hạo nhìn mà cũng chẳng có bao nhiêu xúc động, cái gì mà Quy Hóa châu, Từ Hương lĩnh, giống như chân trời góc biển. Chuyến đi này, hắn đi thực sự là để đón Đông Nhi trở về, đã sớm hận không thể chắp thêm một đôi cánh mà bay thẳng đến Thượng Kinh Khiết Đan, thì nào còn để ý tới vất vả mệt nhọc lặn lội đường trường.
Đi trong thảo nguyên mênh mông bốn ngày là tới Hắc Du lâm. Mặc dù ở Dương Hạo trong lòng cũng không biết chỗ này còn cách xa lắm không, song lúc này cảnh tượng đã có sự khác nhau rất lớn, kéo dài kéo dài kéo dài liên miên, không phải vô tận của thảo nguyên, là núi hoang tích lĩnh, người ở rất thưa thớt, đến giờ nó vẫn hoang vắng, cảm nhận trong lòng vẫn khác nhau rất lớn .
Đi xa hơn nữa chính là Tà cốc. Bay qua hơn năm mươi dặm cao nhai tuấn cốc dài dằng dặc, qua Hoàng thủy, Hắc thủy, Mỹ Hương hà, tiếp đó lại đi tiếp năm sáu ngày, cuối cùng mới tiến vào thủ đô Thượng Kinh của người Khiết Đan.
Sau khi tới nơi này, Dương Hạo bắt đầu có chút lo âu. Một là bởi vì rất nhanh sẽ được gặp lại Đông Nhi, trong lòng không tránh khỏi hồi hộp. Mặt khác, cho đến tận bây giờ, hắn vẫn chưa từng liên lạc được với Đông Nhi, nếu như lúc lên kim điện gặp mặt Đông Nhi, mà lúc trước Đông Nhi cũng không biết hắn đã đổi tên từ Đinh Hạo thành Dương hạo, đột nhiên gặp được hắn, khó tránh khỏi sẽ để lộ dấu vết.
Tuy đó cũng không phải là mối quan hệ xấu xa, bẩn thỉu gì, cũng chẳng thể vì thế mà đưa tới họa sát thân. Nhưng một khi để Tiêu Xước biết được mối quan hệ giữa hai người bọn họ, nếu nàng khảng khái thả người thì thôi, còn không kế hoạch trộm người của mình tất khó mà thi hành được. Chỉ cần tung tích Đông Nhi đột nhiên biến mất, khi đó mình lập tức sẽ trở thành mục tiêu đầu tiên bị hoài nghi, như vậy thì còn mang theo nàng về Trung Nguyên làm sao được?
Song hắn có lo lắng cũng vô ích. Nơi này là Thượng Kinh của người Khiết Đan, nhất cử nhất động của hắn đều nằm trong tầm mắt bọn họ. Nếu hắn đột nhiên phái ra một người đơn độc ra ngoài tìm Ngọc Lạc, tất sẽ khiến bọn họ hoài nghi. Hơn nữa, lúc này rốt cuộc là Ngọc Lạc đã gặp được Đông Nhi hay chưa thì hắn cũng không chắc.
Tới gần Thượng Kinh, dân cư sinh sống cũng càng lúc càng đông, thị trấn bắt đầu trở nên phồn hoa, đến khi vào kinh thành rồi, phố phường lại càng trở nên nhộn nhịp. Nơi nơi đều là phòng xá, mà cũng có không ít trướng bồng. Chỉ nhìn cũng biết là kiến trúc nơi này chính là được dung hợp từ bản sắc văn hóa du mục của người Khiết Đan cùng bản sắc định cư của người Trung Nguyên, tràn đầy phong vị dị quốc.
Nơi này cũng có phường thị, giống như Biện Lương của Trung Nguyên, dân cư đông đúc, thương nhân tụ họp, võ sĩ Khiết Đan, sĩ tử mặc Hán phục đi lại trên đường, tạp kỹ, đô vật trong câu lan (nơi hát múa diễn kịch thời Tống) thì ra sức biểu dẫn, thu hút khách khữa. Hòa thượng hóa duyên, ni cô, đạo sĩ cũng đi lại tập nập trên đường.
Từ khi Khiết Đan lập quốc đến hôm nay, bọn họ cũng có đúc tiền, nhưng mà lấy vải làm tiền, lấy vật trao đổi vật vẫn là chủ lưu trong giao dịch phường thị. Cái này so với thói quen dùng tơ lụa để giao dịch, thay thế tiền mặt của người Tống về cơ bản là giống nhau. Điều này cũng là bình thường, vì lượng tiền lưu thông lúc này không đủ, hơn nữa tơ lụa cùng vải vóc cũng đảm bảo giá trị rất hiệu quả, so với tiền lại càng nổi bật hơn.
Sau khi tiến vào rồi, được Hồng Lư tự, Lễ Tân viện nghênh đón, đám sứ giả Tống quốc mới phát hiện ra quan chế, lễ nghi của người Khiết Đan trên cơ bản cũng rất giống với Trung Nguyên, hoàn toàn không có chút gì gọi là dân tộc man rợ, không biết lễ nghi cả.
Bọn họ cũng không hề lập tức dẫn đám sứ giả Dương Hạo vào hoàng cung mà đi tới Lễ Tân viện trước. Càng làm cho Dương Hạo cùng mấy đặc phái viên Trung Nguyên cảm thấy kinh ngạc chính là trước Lễ Tân viện còn có sứ giả do hoàng đế phái tới trái phải nghênh tiếp, giống y hệt với Trung Nguyên.
Ngay sau khi tiến vào Lễ Tân viện, thông sự xá nhân (phiên dịch viên) Khiết Đan ngồi xuống đối diện với Dương Hạo, cười dài rồi nói: “Quý sẽ từ xa tới, dọc đường vất vả, hôm nay cứ thư thả nghỉ ngơi một ngày, ngày mai bản quan sẽ tới nghênh đón quý sứ nhập cung. Hoàng đế chúng ta vừa không may mắc chút bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt, vậy nên hoàng hậu nương nương sẽ nghênh tiếp quý sứ.”
Vị thông sự xá nhân Khiết Đan này là một người Hán, họ Mặc tên Thùy Ngân. Bởi vì người Khiết Đan rất tôn sùng văn hóa Hán, những nhân vật thuộc giới thượng lưu đều lấy chuyện thông thạo Hán ngữ để kiêu ngạo. Hán ngữ là tiếng mẹ đẻ của hắn tự nhiên hắn phải biết, tuy rằng từ đời ông nội hắn đã tới định cư ở Thượng Kinh, nhưng hắn vẫn nói Hán ngữ rất tốt.
Dương Hạo thấy không phải tiến cung ngay lập tức nên trong lòng hơi an tâm trở lại. Hắn mỉm cười chắp tay nói: “Đa tạ Mặc đại nhân. Dương mỗ dọc đường tới đây, đều là nhờ quý quốc hộ tống chiếu cố, mệt thì cũng không phải mệt, nhưng mà dọc đường phong trần, không tiện lập tức kiến giá hoàng hậu nương nương quý quốc. Ta vẫn nên tắm rửa, thay quần áo, sau đó ngày mai mới vào cung trình quốc thư.”
Mặc xá nhân cười nói: “Như vậy là tốt nhất. Vậy bản quan xin nói một lượt chuyện tiếp đón quý sứ ngày mai, tránh để đến lúc đó trong lúc vội vàng lại sai sót, làm mất lễ nghi đi.”
“Làm phiền Mặc đại nhân.”
Mặc Thùy Ngân ho khan một tiếng rồi nói: “Sáng sớm ngày mai, bản quan sẽ tới nghênh tiếp đại nhân, dẫn đại nhân đi qua Thừa Thiên môn, sau đó tới ngoài Ngũ Phượng lâu. Theo viên sứ giả mang theo vàng ngọc tới làm cống phẩm. Cổ nhạc hợp tấu, hoàng hậu nương nương lên ngự tọa, mặt nam lưng bắc, tiếp kiến quý sứ. Quý sứ đăng lâu, đại nhân dập đầu hành lễ với hoàng hậu nương nương. Ta hướng về phía lục cung thượng quan tuyên đọc chế thư, tuyên sắc lệnh. Trung thư thị lang nhận lệnh đi tới trước mặt quý sứ, quý sứ trình quốc thư, thị lang đem quốc thư lên trình cho hoàng hậu. Quý sứ lại đem cống vật giao cho lễ quan đồng thời cùng với nhân viên tùy hành hành lễ một lần nữa. Tiếp kiến xong, quý sứ cùng tùy viên hành lễ lui ra ngoài, trở về lễ tân viện. Ngày tiếp theo, hoàng hậu ta sẽ thiết quốc yến, mở tiệc chiêu đãi quý sứ.”
Dương Hạo nghe thấy La Đông Nhi tuyên đọc chế thư, tuyên sắc lệnh, trong lòng không khỏi trở nên kích động: “Đông Nhi, tiểu Đông Nhi của ta, nàng thật sự khiến ta nếm biết bao đau khổ. Quan nhân đến đây, quan nhân tới đón nàng về nhà, sau này chúng ta không bao giờ rời xa nhau nữa.”
Mặc xá nhân nói xong, thấy Dương Hạo đang mỉm cười, vẻ mặt rất quỷ dị, dường như đang thần hồn xuất khiếu, không khỏi mờ mịt, chẳng hiểu ra làm sao. Hắn ho khan một tiếng, hỏi: “Dương đại nhân, ngài đã hiểu hết sắp xếp chưa?”
“Hiểu rồi, hiểu rồi.” Dương Hạo liên tục gật đầu, trong bụng vui mừng không thôi: “Đại nhân nói là, bản quan hành lễ với hoàng hậu nương nương quý quốc, sau đó lục cung thượng quan La đại nhân của quý quốc tuyên chế thư. Ha ha, đúng rồi, ngài còn nói gì nữa.”
Mặc đại nhân vừa mới nâng được cái tách lên uống trà, nghe Dương Hạo nói như vậy thiếu chút nữa phun hết cả nước trà trong cổ họng ra ngoài. Hắn vội vàng ho khan một luc rồi mới đỏ mặt nói: “Bản quan nói, sáng sớm ngày mai, bản quan sẽ đến nghênh đón đại nhân. Đại nhân mặc lễ phục, bản quan dẫn đại nhân đi qua Thừa Thiên môn, sau đó tới bên ngoài Ngũ Phượng lâu, tùy viên sứ giả bưng vàng ngọc tới làm đồ cống nạp. Ta vào xin tấu, hoàng hậu nương nương lên ngự tọa, mặt nam lưng bắc, đón tiếp quý sứ…”
Hắn lại kể lại một lượt rồi hỏi lại: “Quý sứ nhớ rõ hết chưa?”
Dương Hạo làm việc ở Hồng Lư tự cũng được một thời gian khá lâu, đối với những lễ nghi này cũng hiểu khá rõ, hắn cẩn thân suy nghĩ một chút rồi nói: “Hoàng hậu quý quốc mặt nam lưng bắc mà ngồi, vậy bản sứ sẽ hướng về phía bắc mà bái sao?”
Mặc đại nhân mỉm cười nói: “Cái này có gì không ổn sao?”
Dương Hạo nói:” Tất nhiên là không ổn. Đại quốc chi khanh tương đương với tiểu quốc chi quân, ta là đặc phái viên Trung Nguyên, như thế nào lại hành lễ hạ thần với hoàng hậu quý quốc? Cái này chẳng phải làm mất thân phận bản sứ sao? Lẽ ra phải là bản sứ cùng quý quốc chi chủ, một đông một tây mà đứng, sau đó dâng lên quốc thư mới đúng.”
Mặc xá nhân không cho là đúng nói: “Dương đại nhân, cái này làm sao được? Hoàng đế triều ta không phải là phiên thuộc (chư hầu) của quý quốc, hai nước đứng ngang hàng với nhau, quốc chủ làm sao có thể đứng đối diện với ngài, yêu cầu như thế thật sự có phần quá đáng rồi. Dương đại nhân, ta cũng là người Hán, biết tư tưởng người Hán là coi Trung Nguyên làm trung tâm thiên hạ, trừ bản quốc ra, tứ phương đều là man di. Đây không phải là tự cao tự đại sao? Trung Quốc ngày xưa và Trung Quốc bây giờ mặc dù giống nhau, nhưng Khiết Đan bây giờ không phải là tứ di ngày trước. Nước ta lập quốc lâu như vậy, đã không còn sống theo kiểu bộ lạc man hoang, chăn ngựa thả dê như ngày trước. Đây là chưa nói tới lãnh thổ nước ta càng ngày càng rộng, thực lực cả nước ngày càng mạnh mẽ, thậm chí còn hơn cả Trung Nguyên. Quý sứ không biết là yêu cầu này rất quá đáng sao?”
Hắn hơi dừng lại, mỉm cười rồi nói tiếp: “Lại nói, lúc trước Thạch Kính Đường xưng thần xưng tử với Khiết Đan ta, xin chủ ta xuất binh trợ giúp mà đoạt được đế vị. Sau khi xưng thần với triều ta, Thạch Kính Đường dựng lên Tấn quốc. Tấn quốc Hà Đông tiết độ sứ Lưu Tri Viễn chiếm cứ một nửa giang sơn mà xưng đế, dựng lên Hán quốc, lập nên nhà Chu. Hoàng đế quý quốc đoạt được đế vị xưng Tống, quốc gia của ta hiện giờ đối xử khoản đãi với ngoại quốc, chẳng lẽ còn không đủ tôn trọng sao?”
Khổng lão phu tử từng nói: “Di thu chi hữu quân, bất như chư hạ chi vô”. Lịch đại sĩ phu thực là như vậy, song ở thời điểm Trung Quốc cường đại, dân ngay cả đốt rẫy gieo hạt cũng không biết, quả thật chẳng khác nào một đám dã nhân ma hoang, hoàn toàn không có một chút gì liên quan đến văn minh, nói như vậy tất nhiên không có gì không ổn.
Nhưng thời gian trôi qua, vật đổi cảnh dời, phải nhìn nhận rằng, bọn họ đang dần trở nên hùng mạnh, thậm chí còn có dị tộc xưng chủ Trung Nguyên. Khổng lão phu tử từng nói: “Di thu chi hữu quân, bất như chư hạ chi vô”, nhưng cũng từng nói: “Quân quân thần thần, phụ phụ hồ hồ.” Ngay khi thời điểm dị tộc thành quân, đám sĩ phu đem lời Khổng Tử cung phụng như thần dụ cũng có chút không biết theo ai rồi. Phu tử nói phải lắm, còn Tôn Vương nữa, hiện giờ man di thành vương, là nên Tôn Vương ư? Hai người lấy ai làm trọng?
Nếu đổi lịch sử, chỉ sợ sẽ vì vấn đề này đánh nhau vỡ đầu và gây ra chiến tranh, kiên quyết yêu cầu Khiết Đan tôn Tống quốc là chính thống. Dù là ngoại quốc, nhưng Dương Hạo này sau này lấy được lòng người thì sao? Chớ nói Khiết Đan chính quyền hiện giờ không kém gì Tống, cho dù là một cái quốc gia nhỏ yếu, hắn cảm thấy cũng có thể ngang hàng đối đãi, mà không ứng với vọng lấy thiên triều xưng tôn, lễ tiết đòi chỗ tốt hơn, lại lấy lợi ích kinh tế thật lớn đi trấn an người ta.
Huống chi, thế giới này cũng không phải trời tròn đất vuông, duy ngã độc tôn, đại đế quốc cũng không chỉ có một mình chúng ta. Không nói đâu xa, trải qua mấy ngày năm phát triển, một triều đinh Khiết Đan cường đại, có thể chống lại đế quốc Hoa Hạ Trung Nguyên đã xuất hiện rồi. Khiết Đan hiện giờ đã không phải bộ lạc liên minh như Hung Nô, Đột Quyết nữa, bọn họ đã là một quốc gia cường đại, có nền văn hóa, hành chính, lãnh thổ hoàn thiện, lực thống trị của triều đình cũng đi vào quỹ đạo. Hơn nữa, Trung Nguyên trải qua hơn trăm năm chiến loạn, khiến cho lực ảnh hưởng của Trung Nguyên ở khu vực Á Âu thua xa Khiết Đan. Muốn khiến quốc chủ bọn họ nhận mình là thần quốc (thần trong hạ thần) thì hoàn toàn không có khả năng. Nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, dùng lễ ngang hàng mới là hành vi sáng suốt.
Dương Hạo trước tiên đưa là một cái yêu cầu mà đối phương tuyệt đối không thể đáp ứng, chẳng qua song muốn khiến cho cuộc cò kè mặc cả phía sau lại càng dễ ép bọn họ đáp ứng hơn mà thôi. Vì thế hắn làm ra bộ dáng cực kỳ khó khăn, suy nghĩ một hồi lâu mới lên tiếng: "Lời của Mặc đại nhân cũng có lý, bản sứ kỳ thật cũng không có ý tứ khinh thị quý quốc. Bất quá khi Hoàng hậu quý quốc lên ngự tọa, yết kiến bản sứ, cũng phải chung cổ tề minh ( nhạc kèn vang lên), tấu lễ nhạc tiếp đón. Đây là lễ nghi để tiếp đón sứ giả nước lớn, không thể bỏ qua."
Mặc đại nhân suy nghĩ một lát rồi chắp tay nói: "Cái này thì được."
Dương Hạo lại nói: "Bổn sứ tuy là ngoại thần ( thần tử triều khác), nhưng dù sao cũng là đại biểu cho Hoàng đế bệ hạ triều ta tới. Ngoại thần lễ tọa ( được ngồi), là đại biểu cho Hoàng đế bệ hạ nước ta nói chuyện với Hoàng hậu nương nương quý quốc, há có thể khom người nói chuyện? Khi quý quốc thượng tọa yết kiến, bản sứ phải được ngồi nói chuyện với Hoàng hậu bệ hạ."
Trước khi Mặc Thủy Ngân tới tiếp đón Dương Hạo, đối với quy cách đón tiếp và phương diện lễ chế đã từng gặp mặt thỉnh giáo Hoàng hậu. Từ xưa đến nay, Trung Nguyên vẫn duy ngã độc tôn, tôn Trung Quốc là chính thống, đối với tứ di chư quốc ( bốn nước man di) cũng đã thành thói quen. Hiện giờ tuy Khiết Đan đã trở thành một quốc gia cường đại, muốn mưu cầu tôn nghiêm cùng thể diện một quốc gia, vì thế hiện giờ có thể cùng ngồi cùng ăn, đứng ngang hàng với Trung Nguyên thì bọn họ cũng coi như đắc chí rồi. Dù sao Trung Nguyên cũng có ngàn năm văn hiến, há có thể dễ dàng vượt qua như vậy. Tứ di chư quốc đối với văn hóa Trung Nguyên vẫn mang ấn tượng tôn sùng, tự ti cùng kính sợ rất sâu, trước mắt vẫn không thể đè lên đầu Tống quốc được. Về điểm này thì Tiêu Xước đã dặn dò hắn rất kỹ.
Mặc xá nhân cũng là tay đàm phán lão luyện, làm ra vẻ rất khó nghĩ một hồi lâu mói nói: "Được rồi, chuyện này bản quan sẽ nhanh chóng tấu lên nương nương, xin nương nương định đoạt. Bản quan nhất định sẽ cố gắng, thuyết phục nương nương chấp nhận điều kiện này của quý sứ. Ha ha, Dương đại nhân, ngươi cũng đừng đưa ra điều kiện nào nữa đấy, nếu không bản quan thật khó mà đáp ứng được."
Dương Hạo cười ha ha nói: "Đó là tất nhiên, hai nước chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Lần này bản sứ cũng là vì mục đích hòa bình mà tới, không phải là giương thương múa kiếm, muốn khơi lên chiến tranh giữa hai nước. Được rồi, hai chuyện quan trọng, thứ nhất là khi bản sứ lên điện cũng như hạ điện, quân chủ quý quốc phải dùng lễ nhạc để nghênh đón cùng đưa tiễn. Thứ hai, khi nói chuyện trên điện, quý quốc phải thiết tọa cho bản sứ (cho ngồi). Còn những thứ khác thì không có vấn đề. À đúng rồi, lần này bản sứ tới đây, thấy thủ đô quý quốc thật phồn hoa, hàng hóa chất đầy như núi, kỳ trân dị bảo vô số, lát nữa ta muốn đi thăm thú đường phố một chút, không biết có tiện không?"
Mặc xá nhân nói: "Quý sứ xin cứ tự nhiên, nhưng có cần bản quan phái người dẫn đường không?"
Dương Hạo mỉm cười nói: "Không cần đâu. Ta từ ngàn dặm xa xôi tới đây, khó mà thấy được dị vật không có ở Trung Nguyên. Bản sứ chỉ muốn mua một số thứ, làm quà cho mấy vị bằng hữu đồng nghiệp thôi. Đa tạ ý tốt của đại nhân."
Tiễn Mặc xá nhân về, Dương Hạo cùng Trương Đồng Chu ăn xong xuôi rồi dẫn theo mấy thị vệ thân tín đi dạo phố. Hắn dự tính, tin tức mình đi tới Thượng Kinh nhất định sẽ được Ngọc Lạc nghe được, bây giờ hắn phải tìm cơ hội ra khỏi quán dịch ( nơi ở cho sứ giả) thì nàng mới có cơ hôi gặp hắn.
Dương Hạo đi trên đường cứ nhằm về phía náo nhiệt mà đi. Thượng Kinh thành chia thành Nam thành cùng Bắc thành. Bắc thành là nơi người Khiết Đan ở, còn Nam thành phần lớn là người Hán sinh sống. Điện vũ lâu các ở khu vực người Hán sinh sống mặc dù không thể hào hoa bằng kiến trúc ở đế đô Khai Phong, Kim Lăng, nhưng so với nhiều thành nhỏ khác thì hoành tráng hơn nhiều.
Về phần Bắc thành thì chính là nơi người Khiết Đan cùng hoàng tộc sống với nhau. So với Nam thành, Bắc thành lại khác hẳn. Hoàng thành chia làm nội ngoại, cho dù là trong nội thành cũng có rất nhiều khoảng đất trống, chuyên dùng để dựng trướng bồng. Thứ nhất là để nghênh đón các vương công ở bên ngoài, quen với cuộc sống du mục. Thứ hai là để hoàng tộc thường xuyên đến ở, tránh gặp phải tình trạng quên gốc gác.
Lễ Tân viện nơi Dương Hạo đang ở thật ra cách hoàng cung rất gần, hắn muồn tìm được Ngọc Lạc cũng phải đi về phía Nam thành, nơi người Hán tập trung sinh sống. Nam thành không những không phải khu dân tị nạn, mà ngược lại còn là nơi phồn hoa nhất Thượng Kinh. Trong khu vực Nam thành, cửa hàng tửu lâu mọc lên san sát. Từ rượu ngon, tơ lụa, rau quả, lương thực, công cụ lao động cho tới các loại mặt hàng quý hiếm cũng đều có bán, hơn nữa ở nơi này cũng có chợ đêm.
Bình thường, rất nhiều hoàng tộc Khiết Đan, quý tộc cũng mặc Hán phục, đến nơi này dạo chơi, mà ngay cả vị Thụy Vương Hoàng đế bị phụ thân của Tiêu Hoàng hậu - Tiêu Ôn Tư ám sát chết, trước kia cũng thường xuyên mặc Hán phục tới khu vực buôn bán này uống rượu xem hát, uống đến trời đất quay cuồng, say ngoắc cần câu mới hồi cung.
Trên phố xá, ngọc châu, sừng tê giác, hổ phách, thủy tinh, mã não binh khí đều bán tất. Thậm chí còn có cả đồ bạc của Đông Doanh, nhân sâm của Cao Ly, đồ da của Nữ Chân cùng với đồ của đám thợ săn kiếm được trong rừng như mật ong, hạt thông, nấm khô vân vân. Lúc này trên đường đầu người lúc nhúc, phi thường náo nhiệt. Dương Hạo cứ thế đi một mạch trên đường, chuyên nhằm vào mấy nữ tử hoặc nam nhân trẻ tuổi, dáng người gầy gầy mà nhìn, thử xem có thể đột nhiên bắt gặp Ngọc Lạc hay không.
Bên cạnh đường cái có mấy đại hán người Khiết Đan mặc áo da truyền thống kéo theo những chiếc xe, chọn mua rau xanh lương thực. Lúc mới đầu, thân phận của người Hán trong đất Khiết Đan kém hơn người bản địa một bậc, những chuyện như người Khiết Đan nổi giận, giết luôn người Hán trên đường xảy ra như cơm bữa. Song trải qua một thời gian dài, người dân Hán trong đất Khiết Đan càng lúc càng phát triển, số lượng đông đảo, vì để trong nước ổn định và phát triển, người thống trị Khiết Đan mới dần dần thực hiện nghiêm túc luật pháp. Đừng nói chuyện giết người giữa ban ngày ban mặt, ngay cả chuyện dựa vào ưu thế chủng tốc ép người Hán mua bán hàng hóa cũng trở nên hiếm thấy, mấy người đại hán Khiết Đan kia muốn mua chút hàng rẻ cũng phải cò kè mặc cả.
Một hán tử mập mạp mặc trang phục truyền thống của người Khiết Đan, nhưng giọng nói của hắn lại đặc sệt khẩu âm của người phương bắc Trung Nguyên: "Lưu lão đầu, chúng ta lâu nay vẫn chiếu cố không ít tới buôn bán của ngươi nha. Cơm canh của một ngàn mấy trăm cái miệng trong nhà lao chúng ta không phải lâu nay vẫn mua ở chỗ người sao. Nếu ngươi bán mắc quá, chúng ta phải tìm người khác mua thôi."
Tiểu thương ( buôn bán nhỏ) bán đồ ăn là một lão đầu gầy gò, khuôn mặt đầy những nếp nhăn, tóc hoa râm. Lúc này hắn đang khom lưng cúi đầu, cười bồi với tên mập mạp kia: "Vương gia (người họ Vương), ngài thường mua hàng ở chỗ chúng ta, lão Lưu ta làm sao lại không để giá tốt cho ngài chứ? Song hiện giờ vừa mới đầu xuân, giá cả lương thực lên cao, nếu bán như cũ thì lão Lưu ta lỗ vốn mất. Vương gia, lão Lưu ta cũng có lão bà, con nhỏ phải nuôi mà. Nghe nói gần đây Vương gia mới sinh được quý tử nha, đây chính là chuyện đại hỉ nha. Chúc mừng, chúc mừng, Vương gia có chuyện đại hỉ như vậy, còn đi so đo hai cắc bạc này với lão Lưu sao? Đây đây, túi rau khô này coi như là lão Lưu ta kính hiếu ngài, coi như là chút lễ mọn mừng ngài sinh được quý tử. Còn tiền chỗ đồ ăn này, xin Vương gia giơ cao đánh khẽ, đừng làm khó lão Lưu ta nữa."
Người được gọi là Vương gia kia cả người vừa béo vừa lùn, lùn đến độ gần như không nhìn thấy cái cổ đâu nữa, chỉ thấy một cái đầu béo tròn đặt trên thân thể, miệng dẹp, hai mắt cũng hẹp dài, nhìn chẳng khác nào hình vẽ mặt người trên quả bóng cả.
Nghe Lưu lão đầu nói xong, hắn liền bật cười ha ha, hai mắt híp lại như sợi chỉ, không để ý chắc chẳng phát hiện được mắt hắn ở nơi nào: "Lưu lão đầu này, ngươi càng ngày càng láu cá rồi đấy, tưởng ta không biết hả? Được rồi được rồi, thấy ngươi có thể nói như vậy, ta cũng không so đo với ngươi nữa, cứ tính theo giá này đi, Ngột Diễn, đưa tiền cho hắn đi."
Lưu lão đầu vừa nghe hắn nói xong liền ngoác miệng tới tận mang tai, cười bồi: "Đa tạ Vương gia, đa tạ Vương gia. Vương gia là lão đại chủ sự trong thiên lao, gia quyến phạm quan ai mà không phải hòm vàng thúng bạc vác tới hiếu kính ngài chứ? Làm sao lại đi chấp nhặt với chúng dân đen như lão. Hắc hắc, lão thấy ngài có tâm địa bồ tát, nhìn lại phúc tướng của ngài, ta nghĩ ngài chắc chắn là Phật Di Lặc chuyển thế đó."
Vương Bằng cười mắng: "Con mẹ nó, bớt nịnh nọt đi. Bây giờ ngươi được hời rồi. Chờ khi thức ăn tươi hạ giá, ngươi phải để cho ta giá tốt một chút đấy."
Nói xong hắn vừa cười dài vừa quay đầu đi, trong lúc ánh mắt chuyển đi, trong lúc vô tình lại chiếu thẳng về phía Dương Hạo cùng mấy tên thị vệ đang chậm rãi đi tới đây. Trong chớp mắt, hắn lập tức như bị sét đánh trúng, sắc mặt trở nên trắng bệch, cả thân thể giống như lá vàng rơi trong gió thu, bắt đầu run rẩy kịch liệt.
Lưu lão đầu đang mặt mày hớn hở đếm tiền chợt ngẩng đầu lên nhìn thấy sắc mặt của hắn, không khỏi giật mình nói: "Ôi, Vương gia, ngài làm sao vậy?"
Lúc này Dương Hạo vừa đi vừa ngó đông ngó tay, sắp đi tới nơi này, mập mạp vội vàng xoay người ra chỗ khác, lệ rơi đầy mặt, cổ họng nghẹn ngào, khàn khàn nói: "Không có gì, bụi bay vào mắt đấy mà."