Chiếc Nova theo sau chiếc xe tải của Công ty Cứu hỏa trong một cự ly an toàn. Caleb ngồi ở vị trí tài xế, kế đến là Stone, còn Reuben ngồi phía sau.
“Sao chúng ta không gọi cảnh sát và để họ lo vụ này nhỉ?”, Caleb lên tiếng.
“Rồi nói gì cho họ nghe?”, Stone phản ứng. “Anh đã chẳng bảo rằng thư viện đang đổi hệ thống cũ. Những gì chúng ta biết nãy giờ, chẳng qua là đúng quy trình. Làm vậy, có khi còn làm cho người vô can tưởng chúng ta có âm mưu gì khác. Chúng ta cần sự dò xét, không cần bọn cớm làm gì cả”.
Caleb trả miếng, “Hay thật đấy! Vậy là tôi phải lao vào nguy hiểm chứ không phải đám cảnh sát kia à? Vậy tôi trả tiền thuế cho chúng làm cái quái gì nhỉ?”
Chiếc xe tải lúc này rẽ trái rồi lại rẽ phải. Họ đi ngang qua khu vực điện Capitol rồi tiến vào vùng khá tồi tàn của thành phố.
Stone cất tiếng, “Chạy chậm lại thôi, xe tải dừng rồi đấy”.
Caleb thắng xe lại bên vệ đường. Lúc này chiếc xe tải dừng trước một cánh cổng khóa bằng xích, một người đàn ông từ phía sân trong bước ra mở cổng.
“Đó là khu nhà kho”, Stone suy đoán.
Xe tải chạy qua cổng vào bên trong, và cánh cổng được khóa lại như cũ.
“Vậy là chúng ta chỉ có thể làm bấy nhiêu mà thôi”, Caleb thở phào nhẹ nhõm. “Trời ơi, chắc tôi phải uống một ly cà phê sữa đậm đặc để lấy lại tinh thần sau một tối kinh hoàng như thế này”.
Stone cắt ngang, “Chúng ta cần lọt vào phía sau hàng rào”.
“Đồng ý”, Reuben tán thành.
“Hai anh điên hết rồi!”, Caleb thảng thốt.
“Anh có thể ngồi đợi ngoài xe, Caleb ạ”, Stone trấn an. “Còn tôi phải xem chuyện gì đang xảy ra trong ấy”.
“Lỡ anh bị bắt thì sao?”
“Phải chịu thôi. Nhưng tôi nghĩ cũng đáng mà”, Stone trả lời.
“Còn tôi vẫn ngồi trong xe à?”, Caleb chậm rãi nói. “Nhưng có vẻ như không công bằng cho hai anh lắm, hai anh phải liều mạng...”
Stone ngắt lời ông ta, “Nếu chúng tôi cần chuồn nhanh, thì anh ngồi trong xe, sẵn sàng là tốt chứ sao”.
“Đúng thế”, Reuben gật đầu.
“Vậy thì quyết định vậy thôi”. Caleb nắm chặt vô-lăng và nghiêm nghị, “Đôi khi tôi cũng cài số xe chạy nước rút đấy”.
Stone và Reuben nhẹ nhàng ra khỏi xe và lần về phía tường rào. Nép mình sau vài tấm ván cũ ngay phía ngoài khu nhà kho, họ dõi theo hướng chiếc xe tải đang đỗ xịch ngay góc sân. Những người thợ bước xuống, và đi vào khu nhà chính. Vài phút sau, họ thay đồ, rồi lái xe riêng đi mất. Một nhân viên bảo vệ khóa cổng và quay trở vào trong.
“Tốt nhất chúng ta nên leo vào từ phía bờ rào bên kia, nơi có xe tải đang đậu”, Reuben đề nghị. “Như vậy, lỡ như tên bảo vệ có quay ra cũng bị xe tải che tầm nhìn”.
“Ý kiến hay”, Stone tán thành.
Họ hối hả đi vòng về hướng bên kia hàng rào. Trước khi họ chuẩn bị leo rào, Stone lấy cây ném về phía hàng rào rồi nói, “Như vậy để xem có điện hay không”.
“Ừ”
Họ chầm chậm leo qua tường rào, rồi nhẹ nhàng đáp xuống đất, cúi thấp và bắt đầu tiến về phía chiếc xe tải. Khi được nửa đường, Stone dừng lại, ra hiệu cho Reuben cúi rạp người, nhìn xung quanh, khi không thấy ai, họ lại tiếp tục tiến về phía trước. Thình lình, Stone chuyển hướng từ chiếc xe tải sang hướng một khu nhà bê-tông nhỏ sát tường rào. Reuben hấp tấp bám theo sau.
Cánh cửa bị khóa, nhưng Stone vẫn dùng chìa mở được. Bên trong là hàng khối trụ lớn. Stone bật đèn pin nhỏ mang theo bên mình và chiếu xung quanh. Trong nhà, là một bàn gỗ với đầy đủ dụng cụ, máy phun sơn nhỏ trong góc, đặt cạnh vài thùng sơn và chất dung môi, phía trên một vách tường là một bình ôxy với mặt nạ. Stone bật chiếc bật lửa gần những khối trụ lớn, ánh sáng đủ để đọc những dòng chữ trên đó, “FM-200, Innergen, Halon 1301, CO2 , FE-25”. Ông quay lại quan sát xilanh CO2 kỹ hơn.
Reuben chạm khẽ vào tay ông và bảo, “Nhìn này”. Stone nhìn theo hướng tay chỉ lên tấm bảng trên tường.
“Công ty Cứu hỏa. Chúng ta biết rồi mà”, Stone nói, giọng thiếu kiên nhẫn.
“Nhìn hàng bên dưới kìa”.
Stone thở gấp, “Chữa cháy là một công ty con của Công ty Cổ phần Công nghệ Paradigm”.
“Công ty của Cornelius Behan đó”, Reuben thì thầm.
Caleb ngồi bồn chồn trong chiếc Nova, ánh mắt hướng về khu vực hàng rào. Ông lẩm bẩm ,“Thôi nào, sao mà lâu thế?”
Đột nhiên, ông nghiêng người qua một bên. Một chiếc xe chạy vụt qua hướng về phía khu nhà kho. Khi nó đi qua rồi, ông ngồi thẳng dậy, ngực vẫnđánh lô tô.Đó là một chiếc xe tuần tiễu, phía ghế sau chễm chệ một con chó Béc-giê Đức rõ to.
Caleb lập tức bấm điện thoại để gọi Stone, nhưng máy lại hết pin. Lúc nào ông cũng quên phải xạc pin cho cái điện thoại quỷ quái này cả, vì ông không thích lúc nào cũng kè kè theo nó.
“Lạy Chúa!”, Caleb rên rỉ. Ông hít một hơi thật sâu. “Mày có thể làm được mà Caleb Shaw. Mày làm được”. Ông thở ra một hơi, tập trung và đọc vài dòng thơ yêu thích để lấy can đảm, “Nửa đoàn quân, nửa đoàn quân/Nửa đoàn quân tiến về phía trước/Đến thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước/Tấn công, hỡi đoàn khinh binh/Xung phong vì súng ống/Tướng quân ra lệnh/Tiến vào thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước”. Ông ngừng đọc, và ngẩng lên đối diện với thực tại nơi có bảo vệ vũ trang tận răng và chó nghiệp vụ cùng vào cuộc. Lúc này thì ý chí của ông biến đâu mất ngay khi ngừng đọc thơ.
Ông bực bội, “Quý ngài Tennyson chẳng biết quái gì về nguy hiểm thật sự cả”.
Caleb leo ra khỏi xe, và ngần ngừ tiến về phía hàng rào.
Phía trong bờ rào, Stone và Reuben đang tiến về phía xe tải. Stone cảnh giác, “Nhớ canh chừng khi tôi thám thính nhé”. Ông leo vào phía thân sau xe. Thùng xe trống, chỉ có những thanh gỗ được đóng quanh thân xe, giữ hàng hóa. Ông dùng đèn pin soi rõ phần sơn trên thân trụ. Chỉ có một ống được sơn chữ “Chất Halon 1301”, còn tất cả những ống khác lại được sơn dòng chữ “FM-200”. Ông lấy ra trong túi một hộp nhựa thông và một miếng giẻ vớ được từ khu nhà kho rồi chùi mạnh trên trụ có dòng chữ FM-200.
“Nhanh nào, nhanh nào”, Reuben vừa nói, mắt vừa láo liên khắp nơi.
Khi lớp sơn phủ bên ngoài dần tan ra, Stone dừng lại và soi ánh đèn pin vào dòng chữ bên dưới, “Chất CO2”, “5 ngàn ppm”1.
“Chết tiệt!”, giọng Reuben vang lên từ ngoài. “Chạy thôi nào anh bạn Oliver của tôi”.
Stone nhìn qua phía thân xe. Chó đặc vụ vừa nhảy phóc khỏi chiếc xe tuần tra ngay gần cổng ra vào.
Stone nhảy vội ra khỏi xe tải, nhờ xe tải che khuất tầm nhìn, họ tiến vội về phía hàng rào. Nhưng con chó đánh hơi được mùi của họ, và chỉ thoáng chốc sau, nó bắt đầu gầm gừ, và sục sạo đi về phía họ, theo sau là hai tên lính canh.
Stone và Reuben nhảy bổ về phía hàng rào và bắt đầu leo, nhưng con chó có vẻ nhanh hơn họ. Nó táp vào quần Reuben.
Phía bên ngoài, Caleb quan sát thấy hết sự việc, có điều, ông không chắc mình có thể làm gì được, ông chỉ có thể thu hết can đảm để làm điều gì đó.
“Giữ lấy nhé”, một giọng cất lên. Reuben ráng hết sức bình sinh đá mạnh chân để con chó thả quần ông ta ra, nhưng nó vẫn ngoạm chặt. Khi Stone quay xuống nhìn, thì đã thấy hai miệng súng đen ngòm chĩa về phía họ.
Một tên bảo vệ đanh giọng, “Xuống mau, kẻo con chó cắn đứt chân ông đấy”. “Mau!”
Stone và Reuben từ từ leo trở lại. Con chó tha cho họ, dù vẫn còn gầm gừ.
“Tôi nghĩ đây chỉ là sự hiểu lầm mà thôi”, Stone lên tiếng phân bua.
“Đúng thế, cảnh sát sẽ tin ông”, tên còn lại chát chúa.
“Chúng tôi có mặt kịp thời để hỗ trợ mấy chú em đây”, tiếng phụ nữ tiếp lời.
Họ cùng nhìn về hướng tiếng nói. Annabelle đứng phía ngoài cổng, bên cạnh chiếc xe hơi, Milton đứng bên cạnh, trong chiếc áo gió và đầu đội mũ với dòng chữ “FBI”.
“Mấy người là ai thế?”, một trong hai tên bảo vệ hỏi.
“Nhân viên FBI McCallister và Dupree”, cô trình thẻ ra và giở áo khoác để lộ huy hiệu và súng dắt bên hông. “Mở cổng, và làm ơn giữ con chó quỷ quái đó tránh xa chúng tôi”, cô ta đanh giọng.
“Nhân viên FBI làm cái quái gì giờ này lại ở đây?”, tên bảo vệ có vẻ hơi căng thẳng, nhưng hắn vẫn chạy ra mở cổng.
Annabelle và Milton bước vào. Cô ta quay sang bảo Milton, “Buộc tội chúng, và còng chúng lại”. Milton rút hai chiếc còng từ trong túi, và tiến về phía Stone và Reuben.
“Đợi đã”, một tên cản lại. “Chúng tôi có nhiệm vụ bắt những tên đột nhập và báo cho cảnh sát liền”.
Annabelle đến gần tay bảo vệ có khuôn mặt phúng phính, nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi hỏi, “Này, chú em vào nghề bao lâu rồi thế?”
“Mười ba tháng. Tôi đã có thể được mang theo vũ khí rồi đó”, hắn tự hào trả lời.
“Chắc chắn là thế rồi. Nhưng mà bỏ cái khẩu súng đó qua một bên đi, kẻo lại gây thiệt mạng một người giống chị đây”.
Hắn ngần ngừ chĩa khẩu súng sang hướng khác khi Annabelle giơ thẻ ra lần nữa, “Cái thẻ này có tiếng nói hơn đámcớmđịa phương đấy”. Những tấm thẻ nhìn y như thật này, chỉ là một trong số những thứ cô đã nhờ Freddy chuẩn bị sẵn và luôn cất chúng trong hộp băng vệ sinh của mình.
Tên bảo vệ nhăn nhó, “Nhưng chúng tôi có quy tắc của mình, với lại bọn chúng đột nhập nữa”. Hắn chỉ về phía Stone và Reuben, lúc này đã bị còng tay. Phía sau áo khoác của Milton cũng là dòng chữ “FBI”, họ đã mua đủ đồ thứ súng ống, huy hiệu và còng giả tại cửa hiệu đồ chơi.
Annabelle cất tiếng cười lớn, “Đột nhập à!”. Rồi cô chống nạnh, “Hai chú em không biết hai chú em vừa tóm được ai sao?”
Chúng liếc nhau rồi hỏi dò, “Hai lão lang thang chứ gì?”
“Này, mày là thằng chó chết”, Reuben, tay vẫn bị còng, nhảy chồm lên trong cơn giận dữ. Milton ngay lập tức chĩa khẩu súng ngắn vào đầu của Reuben, hét lên, “Mày có im không, thằng khốn kia, không tao bắn vỡ sọ mày đấy”.
Ngay lập tức, Reuben đứng im.
Annabelle tiếp tục, “Gã “dễ thương” đằng kia là Randall Weathers, đang bị truy nã vì bốn tội danh khác nhau, bao gồm buôn ma túy, rửa tiền, bị tố cáo giết người và có dính dáng đến việc đánh bom nhà của quan tòa liên bang tại Georgia. Tên kia là Paul Mason, biệt danh là Peter Dawson, trong mười sáu cái tên giả khác của hắn. Tên chết tiệt này lại lần ra đường dây trực tiếp đến phòng chống khủng bố tại Trung Đông đang núp bóng điện Capitol. Chúng tôi vẫn đang theo dõi các cuộc điện thoại và thư điện tử của hắn. Tối nay, chúng tôi lần theo hắn đến đây và bắt quả tang hắn, có vẻ như bọn chúng đang âm mưu chôm vài món chất nổ. Rồi chúng sẽ đậu một chiếc xe tải, bên trong là vô số chất cần thiết, cùng đồng hồ hẹn giờ, đợi chín vị quan tòa đáng kính của chúng ta và “bùm” họ ra tro”. Cô ta nhìn Stone và Reuben với ánh mắt đầy kinh tởm. “Lần này bọn bay sẽ bị hạ gục hết. Hạ gục toàn bộ”, cô ta lặp lại.
“Hay thật đấy, Earl”, một trong hai tên quay sang tên còn lại, giọng phấn khích. “Khủng bố đấy!”
Annabelle rút ra một quyển sổ nhỏ, tiếp tục, “Để chị ghi tên hai chú em vào. Bảo đảm Cục điều tra sẽ cần phải biết tên ai để mà khen thưởng vì đã góp phần xuất sắc cho nhiệm vụ này”, rồi cô mỉm cười, “chị bảo đảm hai em sẽ sớm thăng tiến đấy”.
Hai tên bảo vệ nhìn nhau, hớn hở, “Tuyệt quá”. Bọn chúng đọc tên cho cô ta ghi, rồi cô ta quay sang Milton, ra lệnh, “Đưa chúng lên xe, Dupree. Những gã bại hoại này càng sớm vào tù chừng nào, càng tốt chừng đó”. Rồi quay sang hai tên bảo vệ, cô ta giải thích thêm, “Chắc chắn chúng tôi sẽ nộp chúng cho cảnh sát, có điều chỉ sau vài màn “hỏi thăm” nhẹ nhàng mà thôi, kiểu FBI đấy mà”. Cô ta nháy mắt với cả hai, “Mà xem như là hai chú em chưa nghe gì nhé”.
Hai tên cùng cười, ra vẻ hiểu biết, “Nhớ làm chúng phun ra hết sự thật nhé”, tên Earl nói với theo.
Cô ta trả lời, “Chắc rồi. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc”.
Họ đẩy Stone và Reuben vào ghế sau của chiếc xe hơi và lăn bánh. Caleb đợi đám bảo vệ đi hết rồi vội vàng ra khỏi chỗ ẩn nấp, leo lên chiếc Nova và nối đuôi theo xe Annabelle.
Trong xe, Milton tháo còng cho Stone và Reuben. “Milton này, chú em cũng ra vẻ gớm nhỉ”, Reuben thốt lên, giọng đầy tự hào.
Milton nở một nụ cười hãnh diện. Ông giở mũ ra, và mái tóc xổ dài. Stone khen ngợi Annabelle, “Khi cô yểm trợ, cô làm việc tốt lắm. Cám ơn nhé!”
“Đã làm thì phải làm tới cùng chứ”, cô ta đáp lời. “Chúng ta đi đâu đây?”
“Đến chỗ của tôi”, Stone trả lời. “Chúng ta có nhiều chuyện cần bàn đấy”.