Anh thấy họ qua cửa sổ của quán cà phê, hơi mờ một chút bởi hơi ẩm dù lúc đó đã là buổi chiều hè muộn. Con trai anh ngồi ngay ở cái bàn cạnh cửa sổ, chân duỗi dài trong lúc xem thực đơn. Anh dừng lại một chút trên vỉa hè, ngắm đôi chân dường như dài hơn của con trai. Anh cố gắng thể hiện là người đàn ông mà con anh mong muốn nhìn thấy ở anh. Anthony thấy tim mình dường như thắt lại. Anh ôm chặt gói quà trong tay và bước vào.
Quán cà phê này do Clarissa chọn. Một nơi rộng rãi, ồn ào, các cô phục vụ bàn vận đồng phục lỗi mốt và tạp dề trắng. Cô gọi đó là phòng trà, như thể cô thấy hơi quá khi gọi đó là quán cà phê.
‘Chào Philip!’
‘Bố!’
Anh dừng lại bên bàn, hạnh phúc khi thấy nụ cười của cậu con trai khi nhìn thấy anh.
‘Chào Clarissa!’
Cô có vẻ không còn giận anh nhiều như trước nữa, ngay lập tức anh nhận ra điều đó. Khuôn mặt cô luôn lộ rõ sự giận hờn căng thẳng khiến anh cảm thấy tội lỗi trong suốt những năm vừa qua mỗi lần họ gặp nhau. Giờ cô nhìn anh với đơn giản chỉ là ánh mắt pha chút tò mò, giống như một người đang điều tra một cái gì đó, cô hơi quay lại một chút và nhìn xa xăm.
‘Trông em khỏe mạnh!’
‘Cám ơn anh.’
‘Còn con lớn lắm rồi,’ anh nói và nhìn con trai. ‘Lạy Chúa, bố nghĩ con phải tăng lên tới mười lăm phân trong vòng hai tháng.’
‘Ba tháng rồi. Ở tuổi nó, chuyện đó là bình thường.’ Môi Clarissa bĩu lên theo đúng kiểu dè bỉu anh quá quen thuộc ở cô. Nó làm anh bất chợt nghĩ tới môi của Jennifer. Anh không nghĩ một điệu bộ như thế có thể ở trên môi của Jennifer, có thể cách cô được giáo dục không cho phép cô làm vậy.
‘Còn anh vẫn… khỏe chứ?’ Cô hỏi, rót một ly trà và đẩy về phía anh.
‘Rất khỏe, cám ơn em. Anh đã khá bận rộn.’
‘Lúc nào chả thế.’
‘Đúng vậy. Còn con thì sao, Philip? Mọi chuyện ở trường vẫn ổn chứ?’
Con trai anh vẫn dán mắt vào tờ thực đơn.
‘Trả lời bố đi.’
‘Cũng tốt.’
‘Tốt. Vẫn duy trì bảng điểm tốt chứ?’
‘Em có đem theo báo cáo kết quả học tập của nó ở đây. Em nghĩ có thể anh muốn xem qua.’ Cô thọc tay vào túi và đưa cho anh.
Anthony nhận ra, với sự hãnh diện bất ngờ, rằng con trai anh luôn nhận được những lời khen tặng như ‘tính cách ôn hòa,’ hay ‘nỗ lực đáng nể’.
‘Nó còn là đội trưởng đội bóng đá của trường.’ Cô không giấu nổi sự hãnh diện trong lời nói.
‘Con đã làm rất khá.’ Anh vỗ vai con trai.
‘Nó làm bài tập về nhà mỗi tối. Em luôn nghiêm khắc trong chuyện đó.’
Philip không hề nhìn anh. Edgar có lấp nổi chỗ trống của một người cha trong cuộc đời của Philip không? Anh ta có chơi cri-kê với nó không? Có đọc truyện cho nó nghe? Anthony thấy như có bóng mây bay ngang qua trước mặt, anh uống nhanh một ngụm trà và gắng an ủi bản thân. Anh gọi một đĩa bánh. ‘Ba gọi cho con chiếc bánh to nhất. Chúng ta ăn mừng sớm,’ anh nói.
‘Anh sẽ khiến nó ngang bụng,’ Clarissa nói.
‘Chỉ một ngày thôi mà.’
Cô quay mặt đi, như thể cố giữ không phát ngôn điều gì gây khó chịu. Tiếng ồn trong quán cà phê dường như tăng lên. Chiếc bánh đã được mang lên trong một cái khay bằng bạc nhiều tầng. Anh thấy mắt con trai hướng về chiếc bánh và ra hiệu cho thằng bé tự phục vụ.
‘Anh được nhận một công việc mới,’ anh nói khi thấy sự im lặng giữa họ đang khá nặng nề.
‘Làm cho tờ Nation?’
‘Đúng thế, nhưng ở New York. Một phóng viên làm cho Liên Hợp Quốc nghỉ hưu và họ hỏi anh có muốn thay thế vị trí của anh ta trong vòng một năm không. Anh được trợ cấp một căn hộ, ngay giữa trung tâm thành phố.’ Anh đã không thể tin vào tai mình khi Don nói với anh như vậy. Don nói, điều đó chứng tỏ họ đặt rất nhiều niềm tin vào anh. Có thể anh ta nói đúng, biết đâu đấy. Vào giờ này năm sau có thể anh đã lại rong ruổi trên đường.
‘Tốt quá rồi.’ Cô lấy một miếng bánh kem nhỏ và để vào đĩa trước mặt.
‘Cũng hơi đột ngột một chút với anh, nhưng đó là cơ hội tốt.’
‘Ồ, đúng rồi. Anh vẫn luôn thích đi đây đi đó.’
‘Không phải là đi đây đi đó. Anh sẽ làm việc cố định tại một thành phố.’
Anh thấy khá nhẹ nhõm khi Don nói điều này với anh. Nó sẽ quyết định được khá nhiều chuyện. Anh có một công việc tốt hơn, cũng có nghĩa là Jennifer có thể tới ở cùng anh, bắt đầu một cuộc sống mới với anh… và dù anh cố không nghĩ tởi khả năng này, nếu cô từ chối đi với anh, tới đó cũng là cách để anh lẩn trốn cuộc sống. Thành phố London có quá nhiều kỷ niệm gắn bó với cô: chốn nào cũng in dấu những lần họ ở bên nhau.
‘Dù sao anh cũng sẽ tới thăm mẹ con em vài lần một năm. Anh hiểu những điều em đã nói, nhưng anh vẫn muốn gửi thư…’
‘Em không hiểu…’
‘Anh muốn kể cho Philip về cuộc sống của anh ở đó. Thậm chí anh có thể đón nó tới chơi khi nó lớn hơn một chút.’
‘Edgar nghĩ sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu chúng ta đơn giản hóa mọi chuyện. Anh ấy không thích… một sự can thiệp.’
‘Edgar không phải là bố của Philip.’
‘Anh ấy cũng là bố của nó giống như anh đã từng là bố của nó vậy.’
Họ nhìn nhau giận dữ.
Miếng bánh của Philip vẫn còn nằm nguyên trên đĩa, bàn tay thằng bé để dưới đùi.
‘Không bàn chuyện này ở đây lúc này. Hôm nay là sinh nhật Philip.’ Anh cất giọng vui vẻ. ‘Bố nghĩ chắc con sốt ruột muốn xem quà sinh nhật lắm rồi, đúng không con trai?’
Thằng bé vẫn không nói gì. Lạy Chúa, Anthony lặng đi. Chúng ta đã làm gì với nó vậy? Anh đưa tay xuống dưới bàn và lấy ra một bọc quà to hình chữ nhật. ‘Con có thể để dành nó cho tới đúng ngày sinh nhật nếu con muốn, nhưng mẹ con bảo là con – cả nhà định đi chơi vào ngày mai, nên bố nghĩ có thể con muốn mở nó luôn bây giờ.’ Anh đưa quà cho con. Philip cầm món quà và rụt rè nhìn mẹ.
‘Mẹ nghĩ con có thể mở bây giờ vì ngày mai con sẽ không có nhiều thời gian cho việc đó,’ cô nói, cố nở một nụ cười. ‘Xin lỗi, em chạy vào nhà vệ sinh xỉ mũi cái.’ Cô đứng dậy, và anh nhìn theo cô đang len lỏi qua những dãy bàn, tự hỏi có phải cô xúc động trước tình cảnh hai bố con vừa rồi không. Mà cũng có có thể là cô đi tìm điện thoại công cộng để gọi cho Edgar phàn nàn về sự quá đáng của người chồng cũ.
‘Nào, hãy mở quà ra đi con,’ anh nói với thằng bé.
Không bị mẹ cai quản, Philip dường như sống động hơn. Nó vội mở giấy gói quà màu nâu và sững người trong vui sướng khi thấy món đồ. ‘Đó là Hornby,’ Anthony nói. ‘Bộ đẹp nhất dành cho con đó. Còn đây là Flying Scotsman. Con đã bao giờ nghe về nó chưa?’
Philip gật đầu.
‘Có bộ đường ray đi kèm nữa này, bố còn có cả một người để đứng ở sân ga và một vài người nữa để trang trí. Tất cả để trong cái túi này. Con nghĩ con có thể tự lắp ráp không?’
‘Con sẽ nhờ chú Edgar lắp cùng con.’
Anthony cảm thấy như ai vừa thúc vào mạng sườn và cố không nghĩ tới nỗi đau. Suy cho cùng, đứa trẻ không có lỗi.
‘Đúng rồi,’ anh nói, hàm răng nghiến chặt. ‘Bố chắc chắn chú ấy có thể giúp con.’
Họ im lặng một lúc. Rồi Philip đưa tay, lấy một miếng bánh bỏ vào miệng, như thói quen của một đứa trẻ khi trong lòng vui sướng tột cùng. Rồi nó lựa một miếng, một miếng bánh nhỏ phủ sô-cô-la trên bề mặt, nháy mắt về phía bố mình như tìm sự đồng tình cho âm mưu ăn uống này.
‘Vẫn vui khi được gặp lại ông bố già này chứ con trai?’
Philip vươn người về phía trước và tựa đầu vào ngực bố. Anthony vòng tay ôm thằng bé, ghì nó thật chặt trong lòng, hít hà mùi hương trên tóc nó, cảm thấy một sợi dây ràng buộc bản năng mà anh cố không nghĩ tới.
‘Cuộc sống của bố giờ đã ổn hơn chưa?’ Thằng bé hỏi sau khi anh thả nó ra. Nó bị sún một chiếc răng cửa.
‘Con hỏi gì cơ?’
Philip tìm cách bẩy động cơ trong chiếc hộp. ‘Mẹ nói bố bị mất cân bằng, vì vậy bố không viết thư cho con.’
‘Đúng vậy. Nhưng giờ bố khá hơn rồi.’
‘Chuyện gì xảy ra vậy?’
‘Có những việc – một vài điều tồi tệ xảy ra khi bố làm việc ở Châu Phi. Những việc làm bố phiền lòng. Vì vậy bố đã đổ bệnh, khi ấy bố đã rất ngốc nghếch, bố nốc thật nhiều rượu để quên đi.’
‘Đó quả thật là một việc làm ngu ngốc.’
‘Đúng. Đúng như vậy. Bố sẽ không làm thế nữa.’
Clarissa đã trở lại bàn. Anh nhận thấy, với một chút ngạc nhiên, mũi cô ửng đỏ và mắt cũng đỏ. Anh cố gượng một nụ cười, nhưng chỉ nhận lại một nụ cười mệt mỏi từ phía cô.
‘Con thích món quà tặng này,’ Anthony nói.
‘Ôi trời. Quả là một món quà ra quà.’ Cô liếc nhìn bộ động cơ sáng bóng rồi nhìn vẻ mặt rạng ngời của thằng bé. ‘Mẹ hy vọng con đã nói cảm ơn bố vì món quà này rồi.’
Anthony lấy một miếng bánh vào đĩa và đưa cho vợ, rồi anh lấy một miếng cho mình. Họ ngồi đó giống như bản sao của một gia đình.
‘Cho phép anh gửi thư cho con,’ Anthony đề nghị.
‘Anthony, em đang cố gắng xây dựng một cuộc sống mới,’ cô thì thầm. ‘Cố gắng có một cuộc sống hoàn toàn mới,’ giọng cô gần như van xin.
‘Chỉ là những bức thư thôi mà.’
Họ chằm chằm nhìn nhau qua chiếc bàn. Bên cạnh họ, thằng bé vẫn đang mải mê với đoàn tàu lắp ghép mới được tặng.
‘Một bức thư. Một bức thư thì có thể phá vỡ gì cơ chứ?’
Jennifer giở tờ báo Laurence vừa để lại, trải rộng trên mặt bàn bếp, vuốt cho phẳng và cô lật một trang báo. Từ đây cô có thể thấy rõ chồng cô qua cánh cửa để mở, ông đang soi gương và chỉnh lại cà vạt tại sảnh chính.
‘Đừng quên chúng ta có bữa tiệc tối nay tại nhà Henley nhé. Các bà vợ cũng được mời, em có thể nghĩ về bộ cánh mình sẽ mặc tối nay đi là vừa.’
Thấy cô không trả lời, ông nói gay gắt hơn. ‘Jennifer? Tối nay đấy nhé. Tổ chức trong một rạp lớn.’
‘Chắc chắn một ngày là quá đủ để em soạn cho mình một chiếc đầm,’ cô trả lời.
Ông đã ra tới bậc cửa. Ông cau mày nhìn lại khi thấy cô đang lật tờ báo. ‘Em đang làm cái gì vậy?’
‘Em đọc báo.’
‘Đó đâu phải sở thích của em? Tờ tạp chí em vẫn hay đọc chưa tới à?’
‘Em chỉ… nghĩ rằng có lẽ em nên đọc qua một chút. Để biết điều gì đang diễn ra trên thế giới này.’
‘Anh chẳng thấy có gì hấp dẫn ở trong đó mà em cần phải quan tâm.’
Cô liếc nhìn bà Cordoza, có lẽ giả vờ không nghe thấy họ nói gì vì bà còn mải rửa một đống chén đĩa trong bồn.
‘Em đang đọc,’ cô nói, giọng chậm rãi quyết đoán, ‘về vụ Lady Chatterley. Em thấy cuốn sách đó thú vị đấy chứ.’
Cô nhận thấy, đúng hơn là cảm thấy, sự không đồng ý của chồng – mắt cô vẫn dán chặt vào tờ báo. ‘Em thật sự không hiểu vì sao tất cả mọi người đều lên án nó. Đó chỉ là một cuốn sách. Theo như những gì em hiểu, cuốn sách kể về một câu chuyện tình, giữa hai người.’
‘Em vẫn không hiểu ư? Đó là một cuốn sách bẩn thỉu. Moncrieff đã đọc rồi và nói nó rất băng hoại.’
Bà Cordoza đang ra sức cọ chảo. Cô bắt đầu thấy khó chịu. Ngoài cửa sổ gió thổi mạnh, đưa một vài cọng lá gừng bay qua cửa sổ vào bếp.
‘Chúng ta cần có nhận định của riêng mình. Tất cả đều đã trưởng thành rồi. Ai nghĩ rằng cuốn sách xúc phạm họ thì không cần đọc nữa.’
‘Thôi được. Tốt nhất em đừng đưa mấy cái nhận định ngốc nghếch đó ra trong bữa tiệc tối nay. Mấy người ở đó không phải cái đám đông thích nghe đàn bà nói nhảm về mấy thứ họ không biết gì.’
Jennifer hít một hơi dài trước khi trả lời. ‘Có lẽ em hỏi mượn Francis cuốn sách đó. Khi đó em có thể biết em đang bàn về cái gì. Anh nghĩ sao?’ Cô nghiến răng, xương hàm bạnh lên hai bên má.
Giọng của Laurence có vẻ khinh thường. Ông với tay lấy cái cặp da. ‘Gần đây buổi sáng có vẻ em hơi bị căng thẳng. Hy vọng em sẽ cư xử phải chăng hơn tối nay. Nếu lý do của những căng thẳng ấy là do đọc mấy tờ báo này thì anh sẽ cho người ta giao báo tới công ty.’
Cô không đứng dậy hôn tạm biệt vào má ông, như có thể trước đây cô đã từng làm. Cô cắn môi và tiếp tục chăm chú đọc báo cho tới khi tiếng đóng sập của cửa trước cho cô biết ông đã rời khỏi nhà.
Ba ngày rồi cô hầu như không ăn không ngủ. Gần như đêm nào cô cũng thức, đếm từng giờ và chờ đợi vận may rủi từ bóng đêm rơi trúng xuống đầu. Cô tức giận với Laurence trong im lặng; cô thấy hình ảnh của ông qua ánh mắt của Anthony, và dường như cô đồng tình với nhận định đáng ghét của anh. Rồi cô lại giận Anthony vì anh đã gieo vào cô những ý nghĩ khiến cô phải soi xét chồng mình theo cách đó và cô còn giận hơn vì cô không thể nói với anh là cô đồng tình. Khi đêm tới, cô nhớ đôi bàn tay của Anthony đã đặt trên người cô, nhớ đôi môi anh, mường tượng cảnh cô cũng làm vậy với anh và khi sáng dậy cô đỏ mặt vì xấy hổ. Có đêm, khi không thể chế ngự được cảm xúc, cô áp người vào chồng, cô lay chồng dậy, gác một chân vòng lên người ông, và hôn ông cho tới khi ông buộc phải dậy. Nhưng ông lại thấy điều ấy rất vớ vẩn, ông hỏi có chuyện gì đang xảy ra vậy, rồi đẩy cô sang một bên. Ông quay lưng lại phía cô, để cô khóc trong câm lặng và những giọt nước mặt tủi nhục rơi đầy trên gối.
Vào những đêm không ngủ đó, với ngọn lửa khao khát và tội lỗi, cô đưa ra vô số khả năng cho mình: cô có thể bỏ đi, bằng cách nào đó để vượt qua mặc cảm tội lỗi, sự thiếu thốn tiền bạc và sự quở trách của gia đình cô. Cô có thể tìm một công việc nào đó, với một mức sống mà cô và Anthony vẫn có thể tồn tại, tương xứng với một cuộc sống bình thường. Chẳng lẽ chỉ có Lady Chatterley mới làm được điều đó. Cô đang sống trong một xã hội đầy rẫy những việc trái khoáy. Nhưng cô có thể chịu đựng và trở thành một người vợ tốt. Nếu cuộc hôn nhân của cô không hạnh phúc, đấy là do cô không nỗ lực làm nó hạnh phúc. Mà cô hoàn toàn có thể làm điều đó: tất cả các tạp chí dành cho phụ nữ đều nói vậy. Cô có thể nhẹ nhàng hơn một chút, ân cần hơn một chút, và ăn vận làm cho mình hấp dẫn hơn một chút. Cô không nên, như mẹ cô nói, nhìn sang đám cỏ xanh nhà hàng xóm mà ghen tị.
Đã tới lượt của cô trong dãy xếp hàng. ‘Liệu bức thư này có kịp gửi đi trong chiều nay không? Chị làm ơn kiểm tra hộ tôi hòm thư cá nhân. Tên là Stirling, hòm thư số 13.’
Cô không tới đây kể từ buổi tối hôm ở quán rượu Alberto, tự thuyết phục rằng đó là cách tốt nhất mà cô nên làm. Mọi chuyện – cô không dám gọi tên nó là cuộc tình vụng trộm – đã đi quá xa. Họ cần dừng lại để có thời gian suy nghĩ thấu đáo hơn. Nhưng sau cuộc nói chuyện không dễ chịu gì với chồng cô sáng nay, quyết tâm của cô đã đổ sụp. Cô viết bức thư một cách vội vàng ở bàn viết trong phòng làm việc trong khi bà Cordoza hút bụi. Cô đã van xin anh hiểu cho cô. Cô không biết phải làm gì: cô không muốn làm anh tổn thương… nhưng cô không thể chịu nổi nếu thiếu anh:
Em làm người đã có chồng. Với một người đàn ông, việc rời bỏ gia đình của họ có vẻ là một việc dễ dàng, nhưng với một người phụ nữ thì sao? Hiện tại em không thể làm gì sai trái trong mắt anh. Anh thấy tất cả mọi việc em làm đều hoàn hảo. Em biết sẽ tới một ngày điều đó sẽ thay đổi. Em không muốn một lúc nào đó anh phát hiện ra ở em những điều mà anh đã từng không hài lòng ở người phụ nữ khác.
Bức thư khá lộn xộn, chữ viết tay của cô chệch choạc và xiêu vẹo. Nhân viên bưu điện nhận bức thư của cô và đưa cho cô một bức thư khác.
Tim cô đập rộn ràng khi nhìn thấy những dòng thư viết tay của anh. Những bức thư anh viết lúc nào cũng hay và súc tích đến mức cô có thể tự đọc lên cho riêng mình nghe, trong bóng tối, như đọc một bài thơ. Cô vội vàng mở thư, trong khi vẫn đứng ở trong quầy, chỉ dịch sang một chút để người kế tiếp có thể bước lên trên được. Tuy nhiên, lần này, lời lẽ trong bức thư của anh đã hơi khác một chút.
Nếu ai đó không nhận ra một người phụ nữ tóc vàng trong chiếc áo choàng xanh đứng bất động, tay phải vịn vào quầy thư để đứng cho vững khi đọc bức thư, chắc hẳn chỉ vì họ quá bận rộn với những gói quà và bức thư cần gửi đi. Gương mặt người phụ nữ thay đổi hoàn toàn. Cô đứng đó một lúc lâu, tay vẫn chưa hết run khi bỏ lại bức thư vào túi và bước chậm rãi, nghiêng ngả trong nắng chiều.
Cô lang thang trên đường phố trung tâm London cả buổi chiều, ngắm những cửa hàng bán đồ qua các ô cửa sổ một cách vô định. Cô chưa muốn về nhà ngay, cô muốn có thời gian để sắp xếp lại tất cả những suy nghĩ đang lộn xộn trong đầu trên những con đường đông đúc lúc này. Vài tiếng sau, cô bước qua cánh cửa vào nhà, bà Cordoza đứng ngay sảnh chính với hai chiếc đầm cầm trên tay.
‘Bà không nói với tôi bà định mặc chiếc đầm nào cho bữa tiệc tối nay, bà Stirling. Tôi thấy có hai chiếc này, có thể bà sẽ thích một trong hai chiếc.’ Ánh sáng tràn ngập lối vào với những tia nắng yếu ớt của buổi hciều muộn trải ngay dưới chân cô. Rồi một màu tối xám lại bao trùm khi cô đóng cửa lại.
‘Cám ơn,’ cô bước qua người bà giúp việc và đi về phía phòng bếp. Đồng hồ ở đó đã chỉ năm giờ. Giờ này anh đang đóng gói đồ đạc?
Jennifer nắm chặt hơn nữa bức thư trong túi. Cô đã đọc bức thư ba lần. Cô xem lại ngày: đúng là tối nay. Làm sao anh có thể quyết định một việc nhanh như thế. Làm sao anh có thể làm thế. Cô tự trách mình vì đã không tới lấy bức thư sớm hơn, không để cô có thời gian xin anh xem xét lại.
Anh không mạnh mẽ như em. Khi anh lần đầu gặp em, anh nghĩ em thật mong manh dễ vỡ, một người anh cần che chở bảo vệ. Giờ thì anh nhận ra anh thật sai lầm. Em là người mạnh mẽ, một người có thể chịu đựng một cuộc sống với một tình yêu như thế, và thực tế là chúng ta sẽ không bao giờ được phép làm thế.
Xin em đừng phán xét sự yếu đuối của anh. Cách duy nhất anh có thể làm là tới một nơi anh sẽ không bao giờ gặp lại em nữa, và cũng không bị ám ảnh bởi khả năng có thể nhìn thấy em cùng với anh ta. Anh cần tới một nơi nào đó mà anh không còn thời gian để nghĩ về em, hàng giờ, hàng phút. Ở thành phố này thì anh không thể làm thế.
Trong một giây, cô đã rất giận dữ khi anh đẩy cô vào tình thế này. Rồi một lúc sau, cô run lên với nỗi sợ khủng khiếp là anh sẽ ra đi. Cái cảm giác khi biết cô sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa là như vậy sao? Làm sao cô có thể tồn tại trong cuộc sống này, khi cô từ chối lựa chọn anh dành cho cô?
Anh sẽ nhận công việc này. Anh sẽ ở Sân ga số 4, Paddington, 7h15 tối Thứ Sáu, và không có gì trên đời này làm anh hạnh phúc hơn nếu em đủ can đảm đi cùng anh.
Nếu em không tới, anh biết những tình cảm chúng ta dành cho nhau chắc hẳn chưa đủ mạnh. Anh sẽ không trách móc em, em yêu. Anh biết em đã phải trải qua những giây phút khổ sở như thế nào trong những tuần vừa rồi và bản thân anh cũng thấy rất nặng nề vì việc đó. Anh không thể chịu nổi cái ý nghĩ vì anh mà em buồn.
Cô đã quá thật thà với anh. Lẽ ra cô không nên thú nhận với anh về những đêm ám ảnh cô nằm cạnh chồng. Nếu anh nghĩ cô không buồn như thế, chắc hẳn anh đã không hành động kiên quyết như thế này.
Em có biết em nắm giữ trái tim anh, niềm hi vọng của anh, trong tay em.
Và cả điều này nữa, sự dịu dàng vô cùng. Anthony, người không thể chịu nổi cái ý nghĩ anh làm cô yếu đuối hơn, người luôn muốn cô tránh khỏi những cảm giác tồi tệ nhất, đã cho cô hai lựa chọn dễ dàng nhất: đi với anh, hoặc là ở lại nơi cô được tôn thờ và yêu quý. Liệu anh có thể làm gì hơn cho cô nữa?
Làm sao cô có thể đưa ra một quyết định quan trọng như thế trong một khoảng thời gian ít như thế? Cô đã nghĩ hay là đi thẳng tới nhà anh, nhưng cô lại không chắc anh có ở nhà. Rồi cô định đi tới tòa soạn nơi anh làm việc, nhưng cô sợ những người chuyên viết mấy chuyện đời tư của người nổi tiếng nhìn thấy cô và cô có thể trở thành đề tài đàm tiếu cho họ, mà tệ hại hơn điều ấy có thể gây rắc rối cho anh. Mà thực ra, cô có thể nói gì để thay đổi suy nghĩ của anh? Anh đã nói rất đúng. Không còn lối thoát nào khác. Không còn con đường nào đúng đắn hơn.
‘À, ông Stirling gọi điện để nhắn bà là ông sẽ về đón bà lúc bảy giờ kém mười lăm. Ông vướng một chút công việc ở công ty. Ông cho tài xế về lấy bộ vét dự tiệc cho ông.’
‘Tôi hiểu,’ cô trả lời, một cách lơ đãng. Bỗng nhiên cô cảm thấy bồn chồn, vội đưa tay nắm lấy chấn song cầu thang.
‘Bà Stirling, bà vẫn ổn chứ ạ?’
‘Tôi không sao.’
‘Bà trông không được khỏe lắm.’ Bà Cordoza cẩn thận đặt hai chiếc đầm lên trên thành ghế và đỡ chiếc áo khoác từ tay Jennifer. ‘Bà có cần tôi lấy nước vào bồn tắm không? Tôi có thể làm cho bà một ly trà nóng trong khi đợi nước đầy nếu bà muốn.’
Cô quay lại nhìn người quản gia. ‘Cũng được. Bảy giờ kém mười lăm, có phải bà vừa nói thế không?’ Vừa hỏi, cô vừa bước lên cầu thang.
‘Bà Stirling? Thế còn mấy chiếc đầm? Bà chọn chiếc nào?’
‘Ôi, tôi không biết. Bà chọn đi.’
Cô ngâm mình trong bồn tắm, gần như quên hẳn là nước đang nóng, và lạnh cứng khi nghĩ về những gì sắp xảy ra. Mình là một người vợ tốt, cô tự nhủ. Mình sẽ tới dự tiệc tối nay, sẽ làm mọi người vui vẻ và sẽ không nói nửa lời về những điều mình không biết. Anthony đã từng viết cho cô thế nào nhỉ. Rằng thật diễm phúc khi làm một người tử tế. Ngay cả khi em không cảm thấy điều ấy bây giờ.
Cô bước ra khỏi buồng tắm. Cô không thể thư giãn lúc này. Cô cần phải làm gì đó để không đắm chìm vào mấy suy nghĩ viển vông. Bỗng nhiên cô ước gì có một viên thuốc ngủ ở đây để cô uống và ngủ say trong vòng hai tiếng tới. Thậm chí trong vòng hai tháng tới luôn, cô nghĩ một cách buồn bã và với lấy khăn tắm.
Cô mở cửa phòng tắm và thấy ngay trước mắt, trên giường, là hai chiếc đầm dạ tiệc bà Cordoza để sẵn, bên trái là chiếc màu xanh cô đã diện hôm sinh nhật Laurence. Đó là một buổi tối rất vui tại khu sòng bài. Bill đã thắng lớn khi chơi bài ruler và nhất định mua sâm panh đãi mọi người. Cô đã say bí tỉ, lảo đảo và không ăn được gì. Giờ đây, trong căn phòng trống vắng này, cô lại nhớ lại những chuyện xảy ra tại buổi tiệc đó. Cô nhớ Laurence đã chỉ trích cô vì đã tiêu quá nhiều tiền vào mấy trò đỏ đen. Cô nhớ ông đã lẩm bẩm rằng cô làm ông mất mặt – cho tới khi Yvonne phải lựa lời nhắc ông không nên khó tính như vậy. Ông ta luôn ép buộc em, vùi dập những thứ mà em thích thú. Cô nhớ tới hình ảnh ông đứng ở cửa bếp sáng nay. Em phải quan tâm tới chuyện đó làm gì? Anh hy vọng em sẽ cư xử phải phép trong tối nay.
Cô nhìn sang chiếc đầm thứ hai: chiếc đầm thêu kim tuyến vàng nhạt, cổ kiểu Trung hoa và không tay. Chiếc đầm cô mặc vào cái tối Anthony O'Hare từ chối không làm tình với cô.
Dường như đám mây đen đã bị xua tan. Cô vứt chiếc khăn tắm lại và lục tìm một vài bộ quần áo. Cô bắt đầu vứt vội mọi thứ lên giường. Đồ lót. Giày. Tất. Còn phải mang theo gì nữa khi chuẩn bị rời xa?
Tay cô run bần bật. Gần như không hiểu mình đang làm gì, cô lôi chiếc va li trên ngăn trên của tủ quần áo và mở ra. Cô vứt bất kỳ cái gì có thể mang vào trong đó một cách vội vã, như thể sợ rằng nếu cô ngừng lại cô sẽ không tiếp tục làm nữa.
‘Bà định đi đâu ư, thưa bà? Bà có muốn tôi phụ xếp đồ không?’ Bà Cordoza đứng ngay cửa ra vào sau lưng cô, tay cầm tách trà.
Jennifer giật mình đưa tay chắn ngang cổ. cô quay lại, cố che chiếc va li đằng sau. ‘Không – không. Tôi chỉ định soạn một ít quần áo mang cho bà Moncrieff. Cho cô cháu bà ấy. Những đồ tôi chán không muốn mặc nữa.’
‘Có vài bộ trong phòng giặt ủi bà nói không vừa với bà nữa. Bà có muốn tôi mang luôn lên không?’
‘Thôi, tôi có thể tự làm được.’
Bà Cordoza ngó về phía sau cô. ‘Nhưng đó là chiếc váy kim tuyến cô rất thích mà.’
‘Bà Cordoza, bà làm ơn để tôi tự soạn đồ một mình được không?’ Cô ngắt lời.
Bà giúp việc lưỡng lự. ‘Tôi rất xin lỗi, bà Stirling,’ bà nói và bỏ đi với đôi chút tự ái.
Jennifer bật khóc, những tiếng khóc nức nở cứ thế tuôn ra không dừng lại được. Cô bò trên tấm ga trải giường, tay ôm đầu và gào khóc, không biết phải làm gì, chỉ biết rằng mỗi giây do dự, cuộc sống của cô bấp bênh chưa có điểm dừng. Cô nghe tiếng mẹ cô vọng lại, mặt bà biến sắc khi biết tin cô làm ô nhục cả gia đình, những tiếng thì thầm cầu kinh trong nhà thờ trước cú sốc này. Cô mường tượng cuộc sống mà cô đã vẽ ra trước đây, những đứa con chắc chắn sẽ làm mềm mại trái tim băng giá và vẻ ngoài lạnh lùng của Laurence. Rồi cô mường tượng dãy phòng trọ chật hẹp, Anthony đi làm cả ngày, một mình cô ở cái xứ sở xa lạ không có anh bên cạnh. Cô với những trang phục cũ kỹ làm anh chán ngắt, và anh nhìn sang những người phụ nữ có chồng khác với ánh mắt hào hứng hơn.
Anh sẽ không bao giờ hết yêu em. Anh chưa từng yêu ai trước khi có em và cũng sẽ không bao giờ yêu ai sau khi có em.
Khi cô có thể bình tĩnh ngồi dậy, bà Cordoza đã đứng ngay phía cuối giường.
Cô lau mắt, hỉ mũi và định xin lỗi vài lúc nãy đã tỏ ra không lịch sự với bà thì thấy bà đang cúi xuống soạn sửa đồ cho cô.
‘Tôi để cho bà đôi giày bệt và chiếc quần nâu trong này. Chúng không cần phải chăm chút kỹ.’
Jennifer nhìn bà chằm chằm, vẫn chưa hết nấc cụt do khóc.
‘Có cả quần áo lót và váy ngủ trong này.’
‘Tôi – tôi không –’
Bà Cordoza tiếp tục gói ghém. Bà lôi toàn bộ quần áo từ trong vali ra ngoài, gấp lại cẩn thận và xếp lại vào va li với sự chăm chút kỹ lưỡng như cho một đứa trẻ mới sinh. Jennifer nhìn như thôi miên vào đôi bàn tay đang cẩn thận vuốt phẳng đồ của bà.
‘Bà Stirling,’ bà Cordoza nói, không nhìn lên, ‘tôi chưa bao giờ kể bà nghe điều này. Nơi tôi sống ở Nam Phi có tục lệ là khi người đàn ông trong nhà mất, người đàn bà sẽ phải che kín cửa sổ. Khi chồng tôi mất, tôi vẫn để cửa sổ mở. Thực tế, tôi còn chăm lau chùi để cửa sổ lúc nào cũng sáng bóng.’
Khi biết chắc chắn Jennifer đang chăm chú lắng nghe, bà tiếp tục sắp đồ. Đầu tiên là những đôi giày, để từng đôi vào một túi vải mỏng, lèn chặt vào đáy va li, cùng một đôi giày tập tennis trắng và lược chải đầu.
‘Tôi đã rất yêu chồng khi chúng tôi còn trẻ, nhưng đó không phải là một người đàn ông tử tế. Càng ở với nhau lâu, ông càng lơ là không quan tâm gì tới tôi. Khi ông đột ngột mất, mong Chúa thứ lỗi, tôi cảm thấy thực sự nhẹ nhõm.’ Bà dừng lại một chút, nhìn chiếc va li đang xếp dang dở. ‘Nếu nhiều năm trước đây, có ai cho tôi một cơ hội, tôi nghĩ tôi sẽ ra đi. Tôi có cơ hội sống một cuộc sống khác.’
Bà để những bộ quần áo cuối cùng lên trên và đóng nắp va li lại, gài khóa ở hai bên.
‘Đã sáu giờ rưỡi rồi. Ông Stirling nói ông sẽ về nhà khoảng bảy giờ kém mười lăm.’ Không nói thêm gì nữa, bà đứng dậy và rời khỏi phòng.
Jennifer nhìn đồng hồ rồi nhìn đống quần áo vừa được xếp vào hành lý. Cô chạy ngang qua phòng, xỏ chân vào đôi giày để gần nhất. Cô đến bàn trang điểm và lần mò phía sau hộc tủ tìm nơi cô vẫn hay cất tiền phòng trường hợp cần đi mua sắm gấp. Ở đó cô vẫn hay cất những tờ tiền trong đôi tất chân dài. Cô vứt những tờ tiền vào túi cùng một nắm các loại nhẫn và dây chuyền cô mới lôi ra từ hộp trang điểm. Rồi cô đóng chặt va li và phi nhanh xuống cầu thang.
Bà Cordoza cầm trong tay chiếc áo mưa cho cô. ‘Chỗ bắt taxi nhanh nhất là đường New Cavendish. Đường Portland Place cũng rất dễ bắt taxi nhưng tôi sợ tài xế của ông Stirling hay về nhà qua đường đó.’
‘Đường New Cavendish.’
Cả hai người phụ nữ im lặng nhìn nhau, có lẽ vẫn còn sốc bởi những gì họ vừa làm. Rồi Jennifer bước về phía trước và ôm chặt bà Cordoza. ‘Cám ơn bà. Tôi-’
‘Tôi sẽ nói với ông Stirling là bà vẫn đang đi mua sắm chưa về.’
‘Vâng. Ồ, vâng. Cám ơn bà.’
Cô bước ra đường trong hơi lạnh của buổi tối và bỗng cảm thấy nặng nề với nỗi lo sợ vô hình. Cô thận trọng bước xuống bậc tam cấp và nhìn quanh tìm màu vàng quen thuộc của một chiếc taxi. Khi cô ra tới lề đường, cô thấy mình sẵn sàng với một cuộc chạy đua trong thành phố lúc chạng vạng này.
Cô cảm nhận rõ sự nhẹ nhõm đang dâng trào trong cô lúc này – cô không còn là bà Stirling nữa, cô không còn phải ăn vận, cư xử và yêu theo cách người ta bảo cô phải thế. Rồi cô nhận ra, với hơi một chút choáng váng, rằng cô hầu như không biết mình sẽ đi đâu và ở đâu, và cô gần như bật cười trước ý nghĩ đó.
Đường phố tấp nập với khách bộ hành đi lại, những chiếc đèn đường bắt đầu tỏa sáng trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi hoàng hôn. Jennifer vừa chạy vừa nghe rõ tiếng va li đập lách cách vào hai bên chân và tim đập mạnh. Đã gần bảy giờ kém mười lăm. Cô mường tượng cảnh Laurence về tới nhà, gọi tên cô một cách giận dữ, bà Cordoza choàng chặt hơn nữa chiếc khăn trên đầu và giả vờ như bà cứ nghĩ cô vẫn đang đi mua sắm chưa về. Chắc hẳn nửa tiếng sau chồng cô sẽ không còn kiên nhẫn nữa, sẽ hiểu ra sự việc và lúc đó thì cô đã ở trên sân ga rồi.
Em đang đến với anh đây, Anthony. Cô thầm gọi tên anh, tim cô đập mạnh có thể do cô quá hồi hộp hoặc quá lo sợ, mà cũng có thể là do cả hai.
Dòng người không ngừng di chuyển tấp nập trên sân ga hầu như che hết tầm nhìn của anh. Họ bơi trước mắt anh, len lỏi qua nhau và sau một lúc chính anh không biết mình đang tìm gì nữa. Anthony đứng cạnh một chiếc ghế bằng sắt, hành lý để dưới chân và nhìn đồng hồ không biết lần thứ bao nhiêu. Đã gần tới bảy giờ. Nếu cô quyết định đi cùng anh, chắc chắn giờ này cô phải có mặt ở đây rồi chứ.
Anh liếc nhìn chiếc đồng hồ thông báo trên sân ga rồi lại nhìn chiếc tàu sẽ đưa anh tới Hearthrow. Bình tĩnh nào, anh tự nhủ. Cô sẽ đến.
‘Ngài đi chuyến tàu bảy giờ mười lăm phút phải không ạ?’
Người gác tàu đứng ngay cạnh anh. ‘Tàu sẽ khởi hành trong vài phút nữa, thưa ngài. Nếu ngày đi chuyền tàu này thì tôi nghĩ ngài nên lên tàu ngay đi ạ.’
‘Tôi còn đang đợi một người.’
Anh chăm chú nhìn dọc theo hành lang nhà ga về phía quầy soát vé. Một người phụ nữ đứng tuổi đang luống cuống tìm vé trong chiếc túi đeo vai. Bà lắc đầu theo kiểu rõ ràng đây không phải là lần đầu tiên chiếc túi xách của bà nuốt chửng những giấy tờ quan trọng. Hai thanh niên khuân vác đang đứng tán gẫu. Ngoài ra không còn ai khác.
‘Tàu sẽ không đợi thêm đâu, thưa ngài. Chuyến tàu tiếp theo là chín giờ bốn lăm phút nếu ngài muốn biết.’
Anh bắt đầu đi lại giữa hai dãy ghế, cố không nhìn đồng hồ. Anh nhớ lại gương mặt cô lúc ở quán Alberto khi cô nói cô yêu anh. Không hề có sự giả tạo trong đó. Cô không phải là người có thể nói dối. Anh không dám nghĩ tới viễn cảnh mỗi sáng thức dậy có cô bên cạnh, nỗi phấn khích tột cùng khi được cô yêu và được yêu cô mà không bị thế lực nào ngăn cản.
Nó giống như một canh bạc vậy, lá thư anh gửi cô là một tối hậu thư, nhưng anh cũng đồng thời hiểu ra rằng cô đã đúng: họ không thể tiếp tục như thế này được. Cảm giác nồng say họ dành cho nhau sẽ biến thành một thứ thuốc độc. Họ sẽ làm nhau bực tức vì không có khả năng thực hiện những điều họ thực sự muốn. Trong trường hợp xấu nhất, anh tự nhủ nhiều lần, ít nhất anh đã cư xử một cách đàng hoàng. Nhưng cách nào đó anh không tin điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra. Cô sẽ tới. Tất cả những gì toát ra từ cô cho anh niềm tin như vậy.
Anh nhìn đồng hồ lần nữa, tay không ngừng vuốt tóc, mắt anh dán chặt về phía quầy soát vé.
‘Đây sẽ là một bước ngoặt tốt cho anh,’ Don đã nói với anh thế. ‘Đừng có gây rắc rối nữa.’ Anh tự hỏi có phải sếp anh đã rất nhẹ nhõm khi có thể tống anh đến một nơi khác.
Cũng có thể, anh tự trả lời. Anh bước dịch sang một bên nhường cho đám đông đi qua để lên tàu. Mình còn mười lăm phút để xem điều ấy có thực sự xảy ra không.
Không thể tin được là trời bắt đầu đổ mưa ngay khi cô ra tới đường New Cavendish. Bầu trời dần chuyển sang màu da cam đục ngầu rồi mây đen kéo về đen kịt. Rồi giống như có một hiệu lệnh ngầm, mọi chiếc taxi đều ngay lập tức đầy khác. Những bóng người vội vàng đi về phía họ cần tới. Cô vẫn kiên nhẫn vẫy xe. ‘Chẳng lẽ anh không hiểu là tôi cần xe gấp thế nào sao?’ Cô muốn hét vào mặt họ. ‘Định mệnh của tôi phụ thuộc vào cuộc hành trình này.’
Mưa tiếp tục đổ xuống xối xả như thể có bão nhiệt đới. Những chiếc ô che mưa đi lướt qua cô, thỉnh thoảng đụng phần sắt nhọn ào người cô trong khi cô bắt đầu phải đổi chân liên tục khi đứng đợi trên vỉa hè. Cô bắt đầu bị nước hắt vào người rồi cả người cô ướt đẫm.
Khi kim phút trên chiếc đồng hồ đeo tay của cô nhích dần đến đúng bảy giờ, sự phấn khích tột cùng trong cô dần chuyển sang nỗi sợ hãi. Cô khó có thể đến kịp. Mỗi một phút trôi qua là khả năng Laurence tìm thấy cô càng lớn. Cô không thể chạy bộ tới đó được dù cô có quẳng cái va li lại.
Nỗi lo sợ bao trùm lên cô như một cơn thủy triều, những dòng xe cộ liên tục lướt qua trước mặt cô làm bắn tung tóe nước lên vỉa hè.
Cô bất chợt nảy ra một ý tưởng khi nhác thấy bóng một người đàn ông trong chiếc sơ mi đỏ. Cô bắt đầu chạy, xô đẩy bất kỳ người nào ngáng đường cô, lần dầu tiên cô không quan tâm tới người khác nghĩ gì về hành vi của mình. Cô chạy dọc theo những con phố quen thuộc cho tới khi tới đúng nơi cô đang tìm kiếm. Cô để hành lý lại trên bậc thang, chạy xuống quầy rượu tối om với mái tóc xõa rối bù. Felipe đang đứng ngay quầy pha chế rượu và lau những chiếc ly. Không còn ai khác ở đó ngoài Sherrie, cô gái quản lý tủ gửi đồ. Quán rượu tràn ngập không khí nặng nề tĩnh lặng trong tiếng nhạc khe khẽ.
‘Anh ta không có ở đây.’ Felipe thậm chí không thèm ngẩng đầu lên.
‘Tôi biết.’ Cô thở không ra hơi đến mức khó có thể thốt ra từ nào. ‘Nhưng việc này rất quan trọng. Anh có ô tô không?’
Cái cách anh ta nhìn cô chẳng lấy gì làm thân thiện. ‘Có thể có.’
‘Anh có thể làm ơn cho tôi đi nhờ tới nhà ga không? Ga Paddington.’
‘Cô muốn nhờ tôi chở cô tới đó?’ Anh liếc nhìn bộ quần áo ướt đẫm của cô, tóc cô dính bết trên đầu.
‘Đúng. Đúng thế! Tôi chỉ còn mười lăm phút nữa thôi. Làm ơn giúp tôi.’
Anh tiếp tục soi xét cô. Cô nhận thấy ly rượu Scotch to còn một nửa đặt trước mặt anh.
‘Xin anh làm ơn! Tôi sẽ chẳng yêu cầu anh nếu không phải vì việc này rất quan trọng.’ Cô nghiêng người về phía trước. ‘Tôi cần gặp Tony. Nhìn này, tôi có tiền -’ Cô thọc tay và túi tìm tiền. Chúng đã ướt nhem.
Felipe thò tay ra phía hộc tủ phía sau và lôi ra một chùm chìa khóa. ‘Tôi không cần tiền của cô.’
‘Cám ơn anh, cám ơn,’ cô nói không ra hơi. ‘Nhanh lên. Chúng ta còn chưa đầy mười lăm phút.’
Chiếc xe chỉ để cách chỗ họ một quãng đi bộ ngắn, nhưng khi ra được tới đó Felipe cũng ướt sũng như cô. Anh ta chẳng buồn mở cửa xe cho cô, để cô tự xoay xở với chiếc va li và ổn định chỗ ngồi ở băng ghế sau. ‘Đi nào!’ Cô nói, lấy tay quyệt mấy sợi tóc ướt trước trán, còn người lái xe dường như vô cảm và suy nghĩ điều gì đó. Ồ, Lạy Chúa, hy vọng anh ta không say xỉn, cô tử nhủ. Làm ơn đừng nói với tôi rằng anh không thể lái xe lúc này, rằng xe của anh hết xăng hay anh đã thay đổi quyết định. ‘Làm ơn cho xe chạy. Chúng ta còn rất ít thời gian.’ Cô cố gắng không để lộ sự đau khổ tột cùng trong giọng nói.
‘Bà Stirling? Tôi có thể nói điều này trước khi cho xe chạy?’
‘Tôi cần biết… Tony, anh ấy là một người tốt, nhưng…’
‘Tôi biết anh ấy đã từng có vợ. Tôi biết anh ấy có một đứa con trai. Tôi biết tất cả,’ cô nói không còn đủ kiên nhẫn.
‘Anh ấy dễ bị tổn thương hơn là cô nghĩ.’
‘Có chuyện gì vậy?’
‘Đừng làm tan nát trái tim anh ấy. Tôi chưa từng thấy anh ấy như thế này với một người phụ nữ nào. Nếu cô không chắc chắn với quyết định của mình, nếu cô nghĩ vẫn còn cơ hội để quay trở lại với chồng cô, xin cô hãy suy nghĩ kỹ.’
Mưa tiếp tục rơi nặng hạt trên nóc chiếc ô tô nhỏ. Cô đưa tay chạm vào tay Felipe. ‘Tôi không… tôi không phải người như anh nghĩ. Thật đấy.’
Anh nhìn sang bên cạnh về phía cô.
‘Tôi – chỉ muốn được sống cùng anh ấy. Tôi từ bỏ mọi thứ cũng vì anh ấy. Chỉ vì anh ấy thôi. Vì Anthony,’ cô nói, những từ ngữ khiến cô muốn nổ tung bởi nõi lo sợ và hoang mang vẫn bao trùm trong cô. ‘Giờ thì làm ơn, cho xe chạy đi!’
‘Tốt rồi,’ Felipe vừa nói vừa giật mạnh vô lăng khiến bánh xe chà mạnh trên mặt đường. ‘Đi đâu đây?’ Anh lái chiếc xe hướng về phía đường Euston, bấm nút để cần gạt nước hoạt động. Cô bất chợt nghĩ tới những ô cửa sổ nhà bà Cordoza, về việc bà lau cho chúng sáng bóng. Rồi cô lấy bức thư của anh ra và đọc lại.
Tình yêu lớn nhất và duy nhất của anh. Anh chỉ nói những gì mà anh nghĩ. Anh đã đi đến kết luận cuối cùng là con đường giải thoát duy nhất cho cả hai ta là chúng ta cần kiên quyết.
Anh quyết định sẽ nhận công việc mới. Anh sẽ có mặt ở Sân ga số 4, ga Paddington, lúc 7.15 tối thứ Sáu.
‘Sân ga số bốn,’ cô nói to. ‘Chúng ta chỉ còn mười một phút. Anh có nghĩ chúng ta sẽ-’
Phần 2
KHÔNG MUỐN THÌ ĐỪNG TỚI
Thư người đàn ông gửi người đàn bà,
một cô dâu thời chiến, qua điện tín.