Ca Tẫn Đào Hoa

Chương 17: Chương 17: Ba phần quá khứ, bảy phần tương lai




Tạ Chiêu Anh bỏ chân vịt xuống, lau miệng: “Muội biết từ bao giờ?”

Tôi cười nói: “Hoàng thượng cẩn thận như vậy, hổ phù lại là tín vật quan trọng, nếu không phải Yến vương tự mình tới lấy, hoàng thượng sẽ giao ra hay sao?” Thật ra ngay từ lần đầu tiên gặp hoàng hậu, tôi đã hoài nghi, nhưng không nói gì, bởi vì còn chưa tới lúc nên nói.

Tạ Chiêu Anh không nói gì. Tôi còn chưa quen với vẻ mặt nghiêm túc của anh ta, giống như nhìn thấy một diễn viên hài kịch nghiêm túc đóng phim tình cảm vậy. Thành thật mà nói, Tạ Chiêu Anh vô cùng anh tuấn, khi nghiêm túc có một loại khí chất quân nhân trầm tĩnh. Chỉ là, tôi luôn cảm thấy khí thế này có một sự sắc bén nào đó, chỉ cần không để ý sẽ bị đâm bị thương.

Tôi hỏi: “Cha có biết không?”

Tạ Chiêu Anh nói: “Cha biết, nhưng mẹ và những người khác đều không biết.”

Tôi nói: “Không biết là tốt.” Có một số việc, biết càng ít càng tốt.

Lại hỏi: “Muội trước đây có biết không?”

Tạ Chiêu Anh cong khóe môi: “Muội chỉ biết ta thường leo tường vào lúc nửa đêm, đôi khi gặp một số người lạ.”

“Vì vậy ca giao hẹn với muội, muốn muội không nói ra ngoài.”

Tạ Chiêu Anh gật đầu mỉm cười: “Thật thông minh.”

Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, đắn đo thật lâu, cuối cùng vẫn hỏi ra miệng: “Nhị ca… Vậy, nhị ca thật sự của muội đâu?”

Tạ Chiêu Anh không nhìn tôi, trên mặt bao phủ một tầng cảm xúc phức tạp, giống như núi xa chìm trong mây mù. Chỉ là, trong ánh mắt anh ta lại viết rõ ràng một loại đau đớn, giống như điều tôi nói khơi dậy một hồi ức đau khổ nào đó.

Tôi bứt rứt ngồi bên cạnh anh ta, ánh nến bỗng bắn ra một bông hoa lửa nho nhỏ, tôi nghe Tạ Chiêu Anh sâu kín kể lại.

“Ta đứng hàng thứ sáu, phía trên có ba tỷ tỷ, năm huynh trưởng. Mẫu thân ta là thứ muội của Tạ phu nhân (thứ muội: em gái cùng cha khác mẹ, mẹ là thiếp), bà còn nhỏ hơn đại ca của ta vài tuổi, tính tình hoạt bát, thông minh lanh lợi, luôn được tiên đế sủng ái. Năm ta bốn buổi, mẫu thân khó sinh qua đời. Hai năm sau, tiên đế cũng từ thế. Đại ca thừa kế ngai vị.” Anh ta hơi dừng lại, rồi tiếp tục nói: “Đại ca luôn có sự kiềm chế nhất định đối với những huynh đệ khác của ta, nhưng đối với ta, đại khái vì tuổi ta còn nhỏ, nên vô cùng thương yêu.”

“Nguyên phối của hoàng thượng là Lưu hoàng hậu, đối nhân xử thế hiền hòa, chỉ có điều không có con. Mà Triệu thị lại sinh hoàng trưởng tử. Khi đó, trước mặt người khác, Triệu thị luôn nhu thuận, thông minh, kết thân trên dưới, vị trí dần dần lên cao. Một nhà Triệu thị bắt đầu đi lên từ khi đó. Lưu hoàng hậu bị bệnh qua đời, Triệu thị đương nhiên ngồi lên ngôi vị hoàng hậu, hoàng trưởng tử cũng được sắc phong thái tử. Ta và thái tử cùng tuổi, thân phận lại cao hơn hắn một bậc, từ nhỏ đã lớn lên bên nhau. Thái tử không trầm ổn trí tuệ như hoàng thượng, cũng không gian xảo nhạy bén như Triệu thị, là một người rất thành thật, ôn tồn. Mùa thu Vĩnh Bình năm thứ năm, trong cuộc săn bắn ở Lâm Uyển, thái tử không đành lòng bắn chết thỏ hoang, bị hoàng thượng trách mắng một trận. Đối lập rõ ràng là ta vừa đặt bẫy bắt sống một con báo. Hoàng thượng khen ngợi ta ngay trước mặt mọi người, ta nhìn thấy sắc mặt Triệu thị thay đổi nhanh chóng.”

Tôi nghe ra đầu mối: “Bà ta sợ ca uy hiếp đến vị trí thái tử?”

Tạ Chiêu Anh gật đầu.

“Triệu gia là sĩ tộc sa sút, Triệu thị trước kia chỉ là một thị thiếp, sau rồi mẫu bằng tử quý. Triệu gia từ bình dân thăng tới mức quyền khuynh thiên hạ, càng đạt được nhiều sẽ càng sợ mất đi. Bà ta sao có thể chấp nhận một vật cản như ta?”

“Bà ta muốn giết ca?”

Tạ Chiêu Anh cười nhạt.

“Khi đó ta còn trẻ, bà ta chỉ dự định cho ra một bài học, khiến ta thức thời hơn một chút. Hoàng thượng rất nhanh đã phát hiện ra, chỉ là khi đó, thân thể hoàng thượng đã không được tốt, quốc sự ngập đầu, Triệu đảng bắt đầu rục rịch, hoàng thượng không có cách nào bảo vệ ta chu toàn. Ta phải chịu một chút khổ cực.”

Anh ta nói qua loa. Nhưng tôi bỗng nhớ tới những vết thương trên người anh ta, không có vết nào giống như được tạo thành từ một chút cực khổ. Đàn ông luôn coi nhẹ những gian nan, khổ cực, bởi vì họ đã trải qua rất nhiều đau thương, mất mát.

“Ta vốn không muốn ngồi lên ngôi vị hoàng đế kia, chỉ chờ sau khi thành niên sẽ rời kinh tới đất phong. Nhưng tại năm ta mười bốn tuổi, sông Bích Lạc thay đổi hướng chảy, vạn mẫu ruộng tốt bị ngập úng, hơn mười vạn bách tính không nhà để về. Hoàng thượng có ý định để thái tử rèn luyện một chút, phái hắn đi cứu trợ thiên tai; lại muốn ta rời khỏi sự hãm hại của Triệu thị, cũng đẩy cả ta đi. Tới khu thiên tai, ta tra ra thân thích Triệu thị và quan viên địa phương tham ô bạc cứu trợ thiên tai, còn dùng tư hình đánh chết người vạch trần chuyện đó và định báo lên cấp trên. Thái tử nhu nhược, ta lại tuổi trẻ nông nổi, không suy nghĩ thấu đáo, chỉ cho rằng đã tìm được biện pháp tốt để lật đổ Triệu thị…”

Anh ta ngừng lại một chút rồi nói: “Khi đó ta có một nhóm người kề cận, Hàn Diên Vũ, Úc Chính Huân, và Tạ Chiêu Anh, tất cả đều là những thanh niên hợp tính nhau khi còn đi học ở Thái Học viện, Tạ nhị và ta là thân thiết nhất, cùng nhau đọc sách, tập võ. Chúng ta là anh em bà con, bề ngoài lại giống nhau, khi còn bé, ta gặp rắc rối, luôn là hắn giả thành ta đi chịu phạt.” Anh ta nói rồi cười cười: “Chỉ có lần đó là hắn kiên quyết phản đối ta buộc tội Triệu gia. Thế nhưng, ta chỉ cảm thấy mình đã nhịn đủ bà già họ Triệu kia rồi, đâu có nghe nhiều lời như vậy. Cuối cùng, kết quả đúng như hắn dự đoán, Triệu gia đại thụ rễ sâu, sao có thể dễ dàng bị lật đổ như vậy? Đại thần vốn giúp ta vạch tội cũng chỉ muốn mượn cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình, thấy gió chuyển hướng lập tức xoay người, vứt bỏ ta.”

“Đó là lần thất bại thảm hại đầu tiên trong cuộc đời ta, lần đầu tiên ý thức được sự ngây thơ, nông cạn của mình, cũng là lần đầu tiên hiểu rõ uy lực của con dao quyền lợi hai lưỡi này. Hoàng thượng nóng ruột, bệnh cũ tái phát, vội vàng ban một chiếu thư phong ta là Yến vương, phái ta tới thành Tây Dao trời cao đất xa, muốn ta hoàn toàn rời xa quyền lợi. Thế nhưng, hoàng thượng đã đánh giá thấp cự nham hiểm, độc ác của Triệu thị, người cho rằng chỉ cần đưa ta đi, Triệu thị sẽ dừng tay, ta sẽ an toàn…”

Ánh nến khẽ lay động, tôi bỗng cảm thấy hơi lạnh, khép chặt áo choàng. Tạ Chiêu Anh – Tiêu Huyên, sườn mặt kiên nghị của anh ta phủ một tầng ánh sáng vàng óng, dường như tôi có thể nhìn thấy trong ánh mắt sâu lắng, trong vắt của anh ta ánh đao, vệt máu.

“Hộ tống ta tới đất phong, tổng cộng có một trăm linh bảy người, đều là những cao thủ đại nội mà hoàng thượng tự mình chọn lựa. Ngoài ra còn có Úc Chính Huân và Tạ Chiêu Anh chủ động kiên quyết tiễn ta xuất quan. Chúng ta một đường hướng về phương Bắc, khi tới Định Sơn quan, chỉ còn lại mười bảy người. Chính Huân bị trọng thương, bị ép ở lại quan nội chữa trị. Nguy hiểm thật sự còn ở quan ngoại, đội quân tuyệt sát của Triệu thị còn nằm mai phục ngoài biên quan, chờ thời điểm đưa ta vào chỗ chết. Nếu ta chết ở quan nội, bọn chúng sẽ không thoát được liên quan, nếu ta chết ở quan ngoại, bọn chúng có thể đổ tội lên đầu nước Liêu, không có liên quan tới bọn chúng.”

(Đất phong giống một khu tự trị, được phân chia cho anh em của hoàng đế và một số chư hầu. Trong chế độ phong kiến, khi hoàng tử trưởng thành sẽ được phong vương và đất phong để tránh tranh chấp ngôi vị. Tuy nhiên, hàng năm đất phong vẫn phải đưa cống phẩm vào cung. Quan ngoại và quan nội giống như trong nước và ngoài nước ấy.)

Anh ta hít sâu một hơi, buồn bã nói: “Ngày ấy mới là cuối thu, nhưng quan ngoại đã là mùa đông. Tuyết rơi rất dày, trời đen kịt, buốt giá, kẻ địch tới dồn dập, giết không xuể, mà những người bên cạnh cứ từng người từng người ngã xuống. Kiếm của ta nhuộm đầy máu, bị gió lạnh thổi qua rất nhanh đã đóng thành băng, rồi lại tan vỡ thành từng mảnh khi binh khí chạm vào nhau. Ta không phải người dễ dàng nhận thua, nhưng cũng không nhịn được mà nghĩ đến cái chết. Cuối cùng, bên cạnh ta chỉ còn lại một mình Tạ Chiêu Anh. A, lão nhị, sư phụ bất công, truyền thụ cho hắn một bộ kiếm pháp mà không truyền cho ta, hắn liền mượn cớ đó muốn ta đi trước. Ta sao có thể chịu để lại huynh đệ chết vì ta? Nhưng cố tình như vậy, ngay thời khắc mấu chốt, kiếm trong tay ta bị chặt gãy, lão nhị phi thân tới đỡ cho ta một đao.”

Hô hấp của tôi ngừng lại trong thoáng chốc.

Tiêu Huyên nở một nụ cười thê lương với tôi: “Thanh long đại đao, chém sắt như chém bùn, Tạ lão nhị cho dù kiếm pháp tinh thông, nhưng dáng người còn vị thành niên, sao có thể chịu được vết thương như vậy? Từ vai trái tới ngực, da tróc thịt tan, máu chảy như suối. Hắn vẫn dùng khẩu hình để nói với ta: đi. Đến chết cũng chưa nhắm mắt.”

Tôi không khống chế được mà bắt đầu run rẩy, trong lòng nghẹn lại, hít thở không thông: “Vết thương của ca… Vết thương phía sau lưng…”

Tiêu Huyên cười, đặt tay lên vai: “Không sai, đây chính là vết thương lần đó. Đại đao xuyên qua thân thể hắn, đâm vào lưng ta. Trên người ta đầy máu của hắn, trên lưng ta có tính mạng của hắn, dùng một chút sức lực cuối cùng cố gắng chạy thoát. Ta nghĩ, cho dù chỉ có một mình ta chạy thoát cũng sẽ không làm những người đã liều mình bảo vệ ta thất vọng. Đời này, ta sẽ luôn ghi nhớ, ta đã giẫm lên lớp tuyết đọng cao đến mắt cá chân, lảo đảo bước từng bước về phía trước như thế nào. Sau đó, cho dù có té ngã, ta cũng phải dùng cả tay cả chân bò về phía trước. Người phía sau chậm rãi giơ đại đao lên, đang định hạ xuống thì một mũi tên bắn thẳng vào tim hắn…”

“Là ai?” Giọng nói của tôi chói tai đến mức ngay cả chính tôi cũng không nhận ra: “Là ai cứu ca?”

Tiêu Huyên cúi đầu: “Là Lý Văn Trung, Lý tướng quân. Trước khi ta đến, hắn phụng mệnh đóng quân tại thành Tây Dao. Hắn đến đón ta, vừa khéo vì lo lắng thời tiết thay đổi nên tới sớm một ngày, mới gặp một màn tàn sát như vậy. Một cung một tên, cứu được ta.”

Tôi chậm rãi đứng lên, cảm thấy đầu choáng mắt hoa, đêm khuya thanh vắng, tôi lại nghe được tiếng giết chóc không ngừng vang lên bên tai. Nụ cười của Tạ Chiêu Anh, không, nụ cười của Tiêu Huyên, ngập đầy đau xót, tràn ra, chảy vào trong tim tôi. Đôi mắt tôi cay xè.

Anh ta nói: “Năm ấy ta mười bốn tuổi, chưa kịp làm lễ trưởng thành đã chết một lần. Sau khi tỉnh lại, hoàn toàn trở thành Yến vương, lục hoàng tử ngây thơ, lỗ mãng trong thâm cung đã vĩnh viễn mai táng cùng Tạ Chiêu Anh trong cánh đồng tuyết. Trên lưng ta là một trăm linh tám mạng người, đó mới chỉ là bắt đầu. Mười năm qua, bao nhiêu lần ám sát, bao nhiêu người lại hy sinh? Ta vốn không phải kẻ lạnh lùng khát máu, ta cũng không muốn làm kẻ lạnh lẽo, bạc tình. Ta giẫm lên hài cốt của người khác để tiếp tục sống, ta phải sống thật tốt, tuyệt đối không thể phụ tấm lòng của bọn họ. Ta nhớ kỹ từng người trong bọn họ, thề một ngày nào đó phải đòi lại từng món nợ.”

“Còn Tạ Chiêu Anh.” Giọng nói của anh ta mềm lại: “Khi hắn tiễn ta xuất quan chỉ nói với mọi người là đi du học. Hắn không trở về, Tạ thái phó trong một đêm già đi mười tuổi, còn phải dạy con trai cho lão yêu bà kia. Hàng năm ta quay về kinh, dùng tên của Tạ Chiêu Anh. Có Hàn tiểu vương gia hỗ trợ che giấu, Tạ nhị công tử trêu hoa ghẹo nguyệt, hành tung bất định, mãi rồi cũng không còn ai nghi ngờ nữa. Chỉ là, đôi lúc ta nghĩ, nếu hắn trên trời có linh, thấy mấy người chúng ta phá hỏng thanh danh vốn đã không được tốt của hắn, không biết sẽ tức giận thế nào…”

Giọng nói của anh ta có chút thay đổi, anh ta lập tức dừng lại, quay đầu đi. Bờ vai anh ta thật to lớn, giống như phi chống đỡ một sức nặng vô hình.

Tôi không nhịn được mà đi tới, vươn tay, từ phía sau nhẹ nhàng ôm lấy anh ta, tựa đầu lên vai anh ta.

Anh ta khẽ run rẩy một cái.

Tôi nói: “Nhị ca, kẻ sĩ chết vì tri kỷ, cả hai người đều hiểu.”

Đêm đó chúng tôi không ngủ.

Tôi ngồi bên Tiêu Huyên, nghe anh ta kể một ít chuyện cũ. Tiêu Huyên không phải người dài dòng, tất cả những chuyện anh ấy nói đều đi thẳng vào một số điều trong cuộc sống quân ngũ, thuận tiện khoe khoang mình đã khổ luyện thế nào, chiếm được sự tín nhiệm và kính yêu của quân sĩ ra sao, vân vân. Sau đó, cũng nói rất nhiều chuyện về Tạ Chiêu Anh. Tạ Chiêu Anh phóng khoáng, ngang ngạnh, không thích học hành sách vở, chỉ thích đao kiếm. Tạ thái phó coi thường kẻ vũ phu, Tạ Chiêu Anh đành vụng trộm học nghệ. Năm đó, bốn người bọn họ, Tiêu Huyên, Tạ Chiêu Anh, Úc Chính Huân và Hàn Diên Vũ, đều là bạn học, phong lưu bừa bãi, gây ra không ít chuyện thị phi, ầm ĩ cả trong cung và trường học. Sau này, Tạ Chiêu Anh qua đời, hàng năm Tiêu Huyên đều mạo hiểm từ thành Tây Dao về đây để thăm người nhà họ Tạ, thay Tạ Chiêu Anh thể hiện tấm lòng hiếu thuận.

“Tạ phu nhân không hề nhận ra?”

“Tạ phu nhân chỉ nghĩ lão nhị đi du học không về. Hắn là con thứ, không cần gánh vác đại nghiệp của gia tộc, yêu cầu không cao.”

Tôi bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện: “Nhị ca có nhắc tới muội không?”

Tiêu Huyên liếc mắt nhìn tôi: “Khi đó muội mới mấy tuổi, còn là một nha đầu ngốc, nhắc tới muội làm gì?”

“Cũng đúng.” Tôi cười: “Chỉ là, nghĩ đến chuyện ca ấy là ca ca của muội, nhưng muội chỉ có thể nghe kể về chuyện của ca ấy. Nhị ca giống như một nhân vật trong truyện vậy.”

Tiêu Huyên nói: “Cuộc đời lão nhị tuy ngắn ngủi, nhưng thật sự là một câu chuyện cảm động.”

Tôi hỏi: “Ca ấy được an táng ở đâu?”

“Tại thành Tây Dao. Ta lập từ đường cho hắn, nhưng không thể đề tên hắn, đành phải mượn danh chiến sĩ chết trận biên cương. Ta từng thề, một ngày trong tương lai, ta quang minh chính đại trở về, nhất định phải hậu táng cho hắn.”

Tiêu Huyên thở dài một tiếng: “Thật nhanh, vậy mà đã mười năm rồi.”

Mười năm trời. Một thiếu niên lỗ mãng năm đó đã trưởng thành thành một người đàn ông thâm trầm, cơ trí, biết bao ân ân oán oán trong đó còn chưa chấm dứt.

Tôi thay đổi chủ đề: “Ca đã thành thân?”

Tiêu Huyên cười cười: “Di Tâm? Nàng là con gái của Trịnh quận thủ Thai châu (Châu: đơn vị hành chính thời xưa, một khu tự trị). Hoàng thượng chỉ hôn cho ta, nhìn trúng Thai châu ở phía nam thành Tây Dao. Nếu tương lai… triều đình có động tĩnh gì thì có thể nhờ vào Thai châu để hòa hoãn một chút.”

Tôi hiếu kỳ: “Nàng thế nào?”

Ánh mắt Tiêu Huyên buồn bã, nói: “Nàng đã qua đời gần ba năm rồi.”

Sao? Cũng đã chết?

“Thân thể nàng không được tốt. Đại phu khuyên nàng không nên có con, nàng không nghe. Khi mang thai được năm tháng, nàng sinh non. Ta mời rất nhiều đại phu nhưng người nào cũng bó tay, cuối cùng không cứu được nàng… Nàng là một nữ nhân tốt.”

Tôi nghĩ, năm tháng, vậy đứa trẻ chắc chắn cũng không còn. Mất vợ mất con, những người bên cạnh Yến vương điện hạ dường như đều không sống lâu, nếu xem mệnh cho anh ta, có lẽ chính là Thiên Sát Cô Tinh (mệnh khắc những người khác, suốt đời cô độc).

Tôi muốn an ủi vài câu, nhưng vốn từ cằn cỗi, kinh nghiệm nông cạn, lại ma xui quỷ khiến thế nào mà nói: “Vậy Phỉ Hoa tỷ thì sao?”

Tiêu Huyên quay đầu lại, nhìn tôi cười. Tôi đỏ mặt, khẽ cúi đầu. Tiêu Huyên thở dài, lắc đầu, tôi cho rằng anh ta lại định dạy dỗ tôi, thế nhưng anh ta nói: “Ta và Phỉ Hoa là thanh mai trúc mã, cũng đã từng muốn lấy nàng.”

Anh ta chỉ nói qua loa nhưng tôi lại nghe được một sự bất đắc dĩ nồng đậm.

“Hiện giờ không muốn nữa sao?”

“Hiện giờ ta hoàn toàn không nghĩ tới việc này. Hiện giờ, nữ nhân nào theo ta đều phải chịu khổ chịu tội, nếu ta thất bại cũng sẽ liên lụy đến nàng, hà tất phải như vậy? Ta và Tần đại nhân ắt phải đứng hai bên bờ chiến tuyến, nàng đứng ở giữa cũng khó xử. Ta biết nàng sống tốt là được.”

Tôi muốn nói, anh đang sợ người bên cạnh anh phải chết. Nhưng lời này không được hay ho lắm, vì vậy tôi không nói ra miệng.

Một lần nữa nhắc tới đề tài cũ: “Chừng nào anh về thành Tây Dao?”

Tiêu Huyên nói: “Hừng đông.”

“Cái gì?” Tôi giật mình: “Gấp thế sao?”

“Ta đã ở lại kinh thành đủ lâu rồi.”

“Nhưng một đống hỗn loạn thế này phải làm sao bây giờ?”

Tiêu Huyên cười giảo hoạt: “Muội nghĩ vì sao ta phải chạy trốn?”

Tôi hiểu ra: “Vô sỉ!”

Anh ta đáp lễ: “Vô lại.”

Tôi tức giận: “Muội vô lại chỗ nào?”

“Muội trong sáng ngời ngời? Vậy ở lại làm nhị hoàng phi đi. Giá của Tiêu Lịch trên thị trường cũng tốt lắm, muội rất nhanh sẽ được làm thái tử phi, sau đó có thể làm mẫu nghi thiên hạ rồi.”

Tôi nghe ra đầu mối: “Sao? Sao? Ca sẽ dẫn muội đi à?”

Tiêu Huyên nhẹ giọng mắng: “Ngốc như heo.” Ngữ khí lại thật mềm.

Cuối cùng anh ta cũng bắt đầu mắng chửi người, chứng tỏ thần kinh vững chắc của anh ta đã trở lại, Yến vương đầy tự trách, u ám, xúc động kia lại tạm thời ẩn giấu bên trong.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, vẻ mặt vô sỉ nịnh nọt bám lên người anh ta: “Nhị ca nghĩa khí đầy mình, đương nhiên sẽ không bỏ muội ở lại một mình rồi.”

Tiêu Huyên cười hỏi: “Muội gọi ta là gì?”

Tôi ngọt ngào nói: “Nhị ca.”

Tiêu Huyên vươn tay lại đây, tôi cho rằng anh ta muốn vuốt ve gương mặt tôi, ai ngờ anh ta lại nhẹ nhàng ôm lấy tôi. Tôi nghe được tiếng tim đập trầm ổn có lực của anh ta, cảm giác ấm áp trong lồng ngực truyền sang tôi.

Anh ta nói: “Ta vốn sống thay lão nhị, đương nhiên cũng sẽ thay hắn chăm sóc muội.”

Trong lòng tôi cảm thấy thật ấm áp, vòng tay ôm lấy thắt lưng anh ta.

Tiêu Huyên rời đi. Anh ta nói với tôi: “Ta có việc, Tử Kính sẽ đưa muội đi. Bọn muội sẽ đi thẳng về hướng Bắc, qua sông Xuyên chính là Hồ châu. Chúng ta sẽ gặp nhau ở huyện Nhân Thiện.” Nói xong, lại ra vẻ ông cụ non dặn dò tôi: “Muội phải ngoan, trên đường phải nghe lời Tử Kính, đừng gây chuyện, ăn ít đồ vặt thôi.”

Tôi trợn mắt: “Muội sẽ ngoan ngoãn, nghe lời.”

Tiêu Huyên cười xấu xa: “Ca ca sẽ tìm nhà chồng tốt cho muội.”

Tôi đá anh ta ra khỏi cửa.

Tiêu Huyên đi rồi, trời đã sáng, tôi không ngồi yên được nữa, mang theo vành mắt như bị đấm đi tìm Tống Tử Kính.

Hiện giờ mới là lúc gà gáy, Tạ phủ rất im ắng, tôi rón rén bước vào thư viện như kẻ trộm. Kết quả vừa nhìn lại đã thấy cửa phòng đang mở, mà đứng kia, chẳng phải chính là Tống Tử Kính, Tống tiên sinh đấy sao?”

Anh ta mặc một bộ trang phục đơn giản, nhanh nhẹn. Không có bộ trường bào, tay áo rộng như mọi ngày, lúc này tôi mới thấy mặc dù dáng người anh ta gầy nhưng không yếu, thon dài cân xứng, vai rộng eo thon, vô cùng khoan khoái. Nếu anh ta thật sự là một hiệp sĩ, cũng tuyệt đối là một đại hiệp trong số phần tử trí thức cao. Người ta nói bầu không khí đặc biệt của Đông Tề sinh ra nho tướng, tôi thấy còn sinh ra nho hiệp nữa.

Anh ta hỏi tôi: “Khi nào đi?”

Lời này nên là tôi hỏi anh ta mới đúng.

Tôi hỏi: “Anh thu thập xong cả rồi à?”

Tống Tử Kính sang sảng cười: “Có gì mà thu thập?”

Bội phục! Tất cả chỉ là vật ngoài thân.

Tôi xoa tay: “Được, được! Chờ tôi gọi Vân Hương là lập tức lên đường!”

“Hiện giờ? Trời còn chưa sáng?”

Tôi cười khoe hàm răng trắng, mắt lóe sáng: “Bỏ trốn đương nhiên phải thực hiện trong cảnh tối lửa tắt đèn rồi.”

“Bỏ trốn?” Tống Tử Kính sửng sốt.

Tôi cười to: “Bỏ trốn! Bỏ trốn ! Tứ cô nương nhà họ Tạ xuân tâm nhộn nhạo, cùng tình lang bỏ trốn đến biên cương. Còn chuyện gì hợp lý hơn chuyện này nữa?”

Tống Tử Kính hiểu ra, cười lớn: “Vẫn là cô thông minh.”

Tôi cười vô cùng sung sướng: “Tiên sinh, sau này tôi phải gọi tiên sinh một tiếng ca ca”

Tống Tử Kính cúi đầu cười: “Ca ca của cô cũng thật nhiều.”

Gương mặt tôi có chút ửng hồng: “Càng nhiều càng tốt chứ sao.”

Tống Tử Kính dở khóc dở cười. Anh ta nhẹ giọng nói: “Chúng ta đi thôi.”

Anh ta cầm lấy tay tôi, kéo tôi lại, vòng tay qua người tôi. Tôi giật mình, còn chưa kịp phản ứng lại anh ta đã buông ra. Tôi phát hiện trên thắt lưng có thêm một thứ đồ trang sức kết bằng những hạt châu bình thường.

“Đây là cái gì?”

“Trên hạt châu có hương thơm, người thường không ngửi thấy được, chỉ có chim nhận ra, đến lúc đó sẽ hỗ trợ đưa tin tức.”

Tôi khen ngợi: “Thật thông minh.”

Tống Tử Kính mang theo tôi và Vân Hương rời khỏi Tạ phủ. Khi đó đã có thể nhìn thấy những dải ánh sáng màu bạc phía chân trời, trên cây, chim chóc bắt đầu hát bài hát chào buổi sáng, chó nhà Vương tri phủ ở cách vách cũng đã thức dậy, đang ngửa cổ hợp ca. Tôi hít một hơi không khí mát lạnh, quay đầu nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà tôi đã ở nửa năm.

Nơi này không trói buộc được tôi, vì vậy, tôi cũng không vui sướng như chim sổ lồng, chỉ có một loại cảm giác lữ hành mới mẻ.

Tôi nhìn bầu trời phương Bắc, nhìn màu xanh lam mông lung như nước kia, trong lòng vẽ ra khung cảnh thảo nguyên mênh mông không có điểm dừng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.