Ở trước mặt lão phu vẫn có
thể trấn định tự nhiên như thế, Tử Huyên không nhìn lầm người! Trương Cư Chính nghĩ trong lòng như vậy, vẻ mặt nghiêm túc cũng trở nên nhu hòa
hơn trước.
Tần Lâm chợt cảm thấy áp lực nhẹ đi không ít, bèn cung kính thi lễ:
- Không biết Thái Sư cho gọi, có gì chỉ giáo?
Lúc này ngươi còn muốn chơi bịt mắt bắt dê với lão phu sao? Trương Cư
Chính như cười như không nhìn Tần Lâm, cũng không vạch trần ngay tức
khắc, mà là trầm giọng nói:
- Tần hiền điệt, từ trước tới nay lão phu nghe thấy tên của ngươi vô số
lần, trí phá vụ án tranh đoạt Kinh Vương phủ, phá án thây trôi đưa tới
đo đạc ruộng đất gian dối ở Hưng Quốc châu, chiêu an Ngũ Phong hải
thương.
- Sau khi tới kinh sư ngươi lại nhiều lần lập được kỳ công, tay không
ngăn voi cứu giá, thanh tra Kế Liêu Tổng Đốc Dương Triệu tham ô, ra sức
giúp Phan Quý Tuần trị thủy Hoàng Hà. Còn có tương trợ Thích Soái luyện
binh tăng cường vũ bị, mới đây lại thu phục trăm vạn bộ chúng Thổ Mặc
Đặc bộ, lập nên kỳ công khoáng thế…
- Thái Sư khen quá lời rồi…
Tần Lâm vội vàng cười khiêm tốn, biết lão Thái Sơn nói như vậy tuyệt đối không phải là muốn khen mình, mới đầu khen càng lợi hại, e rằng thử
thách sau đó cũng càng khó khăn.
Trương Cư Chính chợt khoát khoát tay, quả thật đổi giọng:
- Bất quá ngươi từng nói triều chính mới của lão phu đã sai lầm bắt đầu
từ phương hướng. Hôm nay lão phu muốn nghe ngươi nói thử, rốt cục làm
thế nào mới là chính xác?
Thì ra lão tiên sinh nhớ mãi không quên chính là chuyện này, triều chính mới cường quốc phú dân bảo vệ xã tắc từng bị Tần Lâm nói là sai lầm từ
căn bản, bất kể thế nào cũng không chịu phục. Trước đó lão chỉ cho là
Tần Lâm trẻ tuổi kiến thức nông cạn cố ý nói mạnh miệng, gần đây càng
phát giác tuy người này còn trẻ tuổi, nhưng kiến thức thủ đoạn đều không phải là tầm thường, cho nên Trương Thái Sư mới có câu hỏi này.
Tần Lâm cười, Trương Cư Chính hỏi thi từ ca phú, hỏi đảng tranh triều
đình, hỏi điển tích các triều, hỏi chính trị địa phương, e rằng hắn sẽ
lập tức á khẩu nghẹn lời. Thế nhưng lão hỏi chuyện này, chính là vấn đề
mà hắn đã thương nghị rất nhiều lần với Từ Văn Trường sau khi chứng kiến các vụ án ở Hưng Quốc châu, Tào Bang, Dương Triệu… chính mắt thấy tệ
nạn trong chuyện đo đạc ruộng đất, quan thân ác bá uy hiếp lợi dụ dân
chúng đầu hiến thổ địa, cùng với kinh tế thương mãi phát đạt ở địa khu
Giang Nam.
Từ từ sắp xếp ý nghĩ lại một chút, Tần Lâm không nhanh không chậm nói:
- Triều chính mới của Thái Sư có rất nhiều phương diện, có lợi có hại, có được có mất, hãy để cho tiểu tử nhất nhất nói ra.
Trương Cư Chính bày ra dáng vẻ rửa tai lắng nghe, lão đã nghe đầy tai
những lời ca tụng Thái Nhạc tướng công, ngược lại thành tâm thành ý muốn nghe được điểm bất đồng từ trong miệng lớp người trẻ tuổi như Tần Lâm.
Thậm chí hắn đã báo trước: Có lỗi thì phải sửa, không có lỗi cũng cần cố gắng thêm, cho dù là Tần Lâm nói không đúng, lão cũng không so đo với
hậu sinh vãn bối. Nếu Tần Lâm nói có một hai điểm chấp nhận được, như
vậy lần nói chuyện này coi như đạt tới mục đích.
Tần Lâm không hàm hồ chút nào, đầu tiên nói:
- Quan trường Đại Minh ba chìm bảy nổi, thịnh hành phong trào trì hoãn
thoái thác, hôn quan, dong quan, lại quan, tham quan, nhũng quan… đâu
đâu cũng thấy, chính lệnh khó có thể thông đạt. Quan muốn giỏi, phải
hiểu rõ tài năng của kẻ dưới mình, Thái Sư muốn đẩy mạnh triều chính
mới, thực hành Khảo Thành pháp trước, định ra tiêu chuẩn tiến hành thăng giảm giáng truất, loại bỏ những quan viên này không chút lưu tình, làm
chính lệnh trở nên thông suốt, tiểu tử hết sức bội phục.
Trương Cư Chính vuốt râu cười, thầm nhủ trong lòng: tên tiểu tử ngươi
cũng hiểu được ích lợi của Khảo Thành pháp. Nếu không phải như vậy, làm
sao có thể đẩy mạnh triều chính mới được dễ dàng, quan viên trong thiên
hạ phần lớn lười biếng quan liêu, không cầm roi đánh, bọn họ sẽ lười
mãi.
Tần Lâm lại nói:
- An nguy của quốc gia liên quan tới quân lữ, chiến loạn xảy ra ngoại
trừ bá tánh lầm than, thế nước chắc chắn cũng suy yếu. Thái Sư sử dụng
danh tướng bình loạn Oa, cho Tằng Tỉnh Ngô, Lưu Hiển dẹp loạn người Bặc, thực hiện phong cống Yêm Đáp Hãn, lại điều Thích Soái biên luyện lính
mới ở Kế Trấn trấn thủ Bắc phương, nhờ vậy dẹp yên thiên hạ, có được cơ
sở đẩy mạnh triều chính mới.
Trương Cư Chính vẫn giữ nụ cười ngoài mặt, bất quá trong lòng có hơi nghi hoặc, không hiểu vì sao Tần Lâm lại nói những lời này…
Tần Lâm nhìn ra Trương Thái Sư có mấy phần không kiên nhẫn, cố ý từ từ nói tiếp:
- Hiện tại hào cường địa phương thao túng quan phủ, thường thường che
giấu ruộng đất không báo, hoặc là ỷ vào quyền thế bức bách tiểu dân đầu
hiến ruộng đất, chuyển phần thuế mà bọn họ phải nộp sang cho dân chúng
bình thường. Thái Sư cho đo đạc lại ruộng đất trên cả nước, ‘đo cả ruộng núi và ruộng nước, chỉ chừa biển cả với trời xanh’, khiến cho hào cường sợ hãi, dân chúng hoan hô vui mừng, quan phủ thu được thuế má đầy đủ
hơn trước.
Trương Cư Chính cau mày bưng chén trà lên uống một hớp nước, đôi môi
giật giật, thấy Tần Lâm còn nói tiếp, cố gắng nhẫn nại không cắt lời
hắn.
Tần Lâm đã quan sát thấy hết phản ứng của lão Thái Sơn, nói một hơi dõng dạc cũng cảm thấy tự tin hơn, lúc này bèn đổi giọng:
- Bất quá những chuyện này cũng chỉ là tiểu tiết, phải nắm lấy điểm mấu
chốt mới giải quyết được vấn đề, triều chính mới của Thái Sư cuối cùng
vẫn phải dựa vào Nhất Điều Tiên Pháp.
Đúng rồi! Trương Cư Chính sáng mắt lên, lão chỉ chờ Tần Lâm nói tới điểm này.
Lão từng tổng kết triều Đại Minh gặp phải năm vấn đề lớn: tông thất
hoành hành ngang ngược, quan lại thiếu trách nhiệm, bộ máy quan liêu bảo thủ, biên giới lỏng lẻo, tài vật thiếu thốn. Lão sửa trị tông thất
hoành hành ngang ngược, không coi pháp kỷ ra gì là nhằm vào điều thứ
nhất, thực hành Khảo Thành pháp là nhằm vào điều thứ hai ba. Chỉnh tu võ bị biên luyện lính mới là nhằm vào điều thứ tư, thực hành Nhất Điều
Tiên Pháp lại là nhằm vào điều thứ năm. Thậm chí đo đạc lại ruộng đất,
truy thu thuế má cũng là vì mở đường đẩy mạnh Nhất Điều Tiên Pháp.
Thân là đệ nhất danh tướng triều Đại Minh, Trương Cư Chính biết rất rõ
ràng về năm vấn đề này. Bốn vấn đề đầu tiên chỉ là tiểu tiết, vấn đề thứ năm tài chính của đế quốc mới là vấn đề nghiêm trọng nhất. Cố gắng dùng Nhất Điều Tiên Pháp để giải quyết vấn đề này là nòng cốt của cả triều
chính mới.
Lịch sử phát triển đúng như Trương Cư Chính phán đoán, triều Đại Minh
diệt vong cũng không phải là vì quân đội không bằng người, cũng không
phải là mục nát trong chính trị, cũng không phải quân thần ngu ngốc vô
năng, mà là hệ thống tài chính của đế quốc sụp đổ.
Đời sau năm Vạn Lịch hai mươi mấy, quân Minh vẫn còn rèn luyện chiến
tranh ở Triều Tiên vừa mới trải qua thời kỳ Chiến Quốc, sau đó vô cùng
thiện chiến đánh cho quân Nhật Bản xâm lược răng rơi đầy đất.
Nhưng từ sau năm Vạn Lịch bốn mươi trở đi, đánh với Hậu Kim càng đánh
càng bại, chỉ vì tất cả của cải Trương Cư Chính tích góp được nhờ chính
sách triều chính mới đã xài hết, không thể phát ra đủ lương hướng cho
quân đội.
Tướng quân chỉ có thể nuôi
dưỡng một ít gia đinh giữ vững sức chiến đấu, phần lớn binh lính không
trải qua huấn luyện. Hỏa khí của quân Minh cũng vì triều đình không trả
bạc đầy đủ, khiến cho chế tạo qua quít thô sơ, sử dụng trên chiến trường không chịu nổi.
Thậm chí Sấm Vương Lý Tự Thành trực tiếp tiêu diệt triều Minh, vốn là
một người đưa thư cấp thấp trong hệ thống bưu chính của triều đình. Bởi
vì tài chính thiếu thốn, triều đình không cấp tiền cho hệ thống bưu
chính nữa, công chức Lý Tự Thành mới dựng cờ khởi nghĩa.
Cứ như vậy, khi Sùng Trinh Hoàng đế ngay cả năm vạn lượng bạc ủy lạo
quân cũng không thể lấy ra, chuyện triều Minh diệt vong đã khó có thể
nghịch chuyển.
Tuy rằng Trương Cư Chính không phải là nhà tiên tri, biết trước đời sau
sẽ xảy ra những chuyện này, nhưng lão có ánh mắt nhạy cảm thấy được tệ
nạn của hệ thống tài chính, vì vậy lợi dụng Nhất Điều Tiên Pháp tiến
hành cải cách.
Chế độ lao dịch phu phen đời Minh có lý giáp chính dịch, quân dao và tạp phiếm sai dịch. Trong đó lấy lý giáp làm lực lượng chủ yếu, lấy hộ làm
đơn vị căn bản, hộ lại theo như đinh lương nhiều ít chia làm ba đẳng
chín bậc, làm căn cứ chinh thu quân biên giới. Đinh chỉ nam nhân nằm
trong độ tuổi từ mười sáu tới sáu mươi, lương chỉ thuế ruộng. Lương
nhiều hay ít được quyết định bởi ruộng đất, cho nên trong lao dịch cũng
có bao gồm một phần thuế ruộng đất.
Thực hành chế độ lao dịch phu phen này, dưới điều kiện quyền sở hữu
ruộng đất thuộc về các hộ canh nông nhỏ tương đối ổn định, trong thời
Hồng Vũ, Vĩnh Lạc, Trung Quốc mới vừa thoát khỏi sự thống trị của Mông
Nguyên, nông nghiệp hóa xã hội phát triển tương đối chậm chạp. Chế độ
này đã sáng lập thời Vĩnh Lạc hưng thịnh, Bắc đánh Mông Nguyên tới Bộ
Ngư Nhi Hải, Nam có Trịnh Hòa bảy lần hạ Tây Dương hết sức huy hoàng.
Nhưng đến giữa đời Minh vào những năm Gia Tĩnh, Chính Đức, xã hội đã trở nên hoàn toàn bất đồng, gồm thâu ruộng đất diễn ra kịch liệt, quyền sở
hữu ruộng đất tập trung cao độ, lại thêm quan thân vơ vét, thuế lao dịch càng ngày càng nặng, nông dân bỏ nhà đi, lý giáp hộ đinh và số lượng
ruộng đất đã không còn đúng với sự thật, thu nhập tài chính chính phủ đã giảm bớt.
Cùng lúc đó thương nghiệp nhanh chóng phát triển, thương phẩm kinh tế
địa khu Đông Nam phát triển mạnh mẽ, cho đến mức lấy lực lượng quan
phương thực hành hải cấm cũng không thể ngăn chặn. Bạc trắng chảy ra hải ngoại thật nhiều, khiến cho những năm qua đế quốc thiếu thốn ngân
lượng, không thể không dùng tiền đồng và tiền giấy.
Trương Cư Chính khéo léo dẫn dắt, thực hành Nhất Điều Tiên Pháp, quan trọng nhất có hai phương diện.
Đầu tiên là thống nhất thuế má lao dịch, hạn chế sách nhiễu, khiến cho
thuế má dần dần đi vào ổn định. Trước khi thực hành Nhất Điều Tiên Pháp
là tách thuế má lao dịch ra, nông dân trừ nộp thuế má còn phải phục vụ
lao dịch, ngoài thuế má lao dịch còn có đặc sản phong phú, thổ cống các
loại, quan lại hương thân nhân cơ hội vơ vét. Sau khi thực hành Nhất
Điều Tiên Pháp, tất cả được gộp lại thành một thể, các cấp quan lại khó
có thể dùng xảo kế cắt xén tư túi, vì vậy tệ nạn giảm dần, khiến cho xu
hướng thuế má ổn định, nông dân được nghỉ ngơi lấy sức.
Sau đó đo đạc ruộng đất thu bạc, khiến cho biện pháp chinh thu càng thêm hoàn bị. Các triều trước chinh thu thuế má đều lấy vật thật làm chủ,
khu lương thực thì thu lương thực, khu trồng bông thu vải vóc, duy chỉ
có Nhất Điều Tiên Pháp nhất luật đổi thu bạc.
Cùng lúc đó, thuế má lao dịch cũng không còn để cho Lý Trưởng, Lương
Trưởng làm, đổi lại để cho quan lại địa phương trực tiếp chinh thu, nhập vào trong kho. Từ đó trở đi không chinh thu theo vật thật, tiết kiệm
được chi phí vận chuyển chứa đựng. Không còn nhân viên bảo giáp chi thu, tránh được một khoản thất thoát, khiến cho phương pháp chinh thu càng
hoàn thiện hơn.
Theo hai điều trên, nói khái quát chính là gộp hết tất cả các loại thuế
má lao dịch phức tạp lại làm một, đồng thời cũng gộp những nội dung linh tinh chinh thu tiền bạc tơ lụa vải vóc lương thực lại làm một, chính là bạc, cho nên được đặt tên là Nhất Điều Tiên Pháp.
Nó là nòng cốt cải cách cả triều chính mới, cũng là kiệt tác mà Trương
Cư Chính đắc ý nhất. Khi Tần Lâm nhắc tới nó, Thủ Phụ Thái Sư lập tức
trở nên phấn chấn tinh thần, ánh mắt lấp lánh mong đợi Tần Lâm tiếp tục
bình phẩm.
- Sai lầm rồi, sai lầm lớn!
Tần Lâm nói thẳng không kiêng kỵ:
- Thu thuế lao dịch và nội dung chinh thu chỉ đúng ở tiểu tiết, về đại thể lại hết sức sai lầm.
Cái gì? Sắc mặt Trương Cư Chính trầm xuống, cho dù là Thái Sư lão thành
mưu quốc, lúc này ngay cả hô hấp cũng trở nên nặng nề, trầm giọng nói:
- Tại sao tiểu tiết đúng, đại thể sai, ngươi hãy nói ta nghe.
Tần Lâm nói như liên châu pháo:
- Trên thực tế thống nhất thuế má lao dịch có lợi cho nông hộ cỡ trung
nhỏ và nông dân không có đất, nhưng sau khi gộp lại vẫn là nhắm vào
ruộng đất. Nhưng vùng duyên hải Đông Nam rất nhiều thương nhân giàu có
một phương, lại không có bao nhiêu ruộng đất. Các nơi như Thiểm Tây, Hà
Nam ruộng đất nghèo nàn, lại vẫn muốn chinh thu một khoản thuế má lớn,
như vậy có công bằng không? Thử hỏi Trương Thái Sư, là thu thuế ruộng
đất hợp lý hay thu thuế thương nghiệp hợp lý hơn?
- Triều đình vẫn chú ý trọng nông ức thương, trọng nông rốt cục là coi
trọng nông nghiệp, hay là thu thuế nông nghiệp thật trọng (nặng)? Ức
thương, thu thương thuế rất nhẹ, lại dùng hải cấm và các biện pháp khác
hạn chế mua bán dân gian, để cho quyền quý nắm trong tay thương nghiệp
mậu dịch, cái này kêu là ức thương sao?
- Ngươi, ngươi muốn nói là gia tăng thương thuế, giảm thấp nông thuế ư? Thật là nghé mới sinh không biết sợ cọp!
Ngay cả Trương Cư Chính là người quyết đoán như vậy, tay bưng chén trà cũng phải run lên, làm bắn ra vài giọt trà.
Đúng như như lời Tần Lâm, thống nhất thuế má lao dịch vẫn nhắm vào ruộng đất, vẫn là nông nghiệp, mà hoàn toàn không liên quan tới thương
nghiệp.
Tinh minh khôn khéo như Trương Cư Chính chẳng lẽ không thấy được thương
nghiệp có thể cung cấp một khoản thuế khổng lồ sao? Dĩ nhiên không phải, chiêu an Ngũ Phong hải thương, mới mở hải cấm, hàng năm thu thuế thương nghiệp Hàng Châu cảng thêm được mấy chục vạn lượng, lão đích thân tổ
chức, không thể nào không biết.
Mấu chốt là ở trở lực, cho dù là Trương Cư Chính độc chưởng triều cương, muốn tăng thương thuế cũng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì lúc này phần lớn địa khu giao dịch thương phẩm số lượng lớn đều đã bị tập đoàn
quyền quý cầm giữ, mà trong số những quyền quý này có không ít người đều là đồng minh chính trị của Trương Cư Chính. Lão đẩy mạnh triều chính
mới đã đắc tội với rất nhiều thế lực, nếu như lại gia tăng thương thuế,
đưa tới cắn trả, ngay cả Thủ Phụ Thái Sư cũng sợ không thể ứng phó nổi.
Tỷ như vì sao Phương Phùng Thời, Vương Sùng Cổ lại tích cực thúc đẩy
phong cống Yêm Đáp Hãn? Chỉ vì hai người bọn họ có quan hệ không cạn với thương nhân tỉnh Sơn Tây. Chỉ cần thực hiện phong cống, mở ra biên mậu
dọc theo tuyến trường thành, thương nhân Sơn Tây sẽ đạt được ích lợi cực lớn. Phương, Vương dốc hết toàn lực thi hành chính sách phong cống, cố
nhiên là vì lợi nước lợi dân, nhưng cũng không thể nói không có liên
quan với điểm này.