- Lần này tiểu đệ tấu thỉnh triều đình phục chức cho Thích lão ca, đang
muốn nhờ vả một chút. Dưới hổ uy Thích soái, Bình Tú Cát, Tiểu Tây Hành
Trường, Gia Đằng Thanh Chính bất quá chỉ là gà ngói chó đất, không đáng
kể gì!
Đốc sư và danh soái đồng thời cười to.
Danh tướng Liêu Đông Lý Như Tùng dẫn theo ba trăm thiết kỵ đứng ở cách
đó không xa, Thích Kế Quang từ Kế Trấn tới đây phải đi qua Liêu Đông, tự nhiên không gạt được phụ tử Lý gia. Lý Thành Lương lập tức điểm binh
muốn tranh đến Liêu Dương trước Thích soái, tuy thiết kỵ Liêu Đông hùng
mạnh cũng có gia khẩu điền sản, nhưng muốn đại quân xuất kích trong lúc
vội vàng, sao có thể làm được. Lý Như Tùng không thể làm gì khác hơn là
để cho đệ đệ Lý Như Mai dẫn hậu đội tới sau, còn mình mang theo ba trăm
thân vệ đồng hành cùng Thích Kế Quang.
Cánh quân nhỏ và đại quân hành động là hai khái niệm hoàn toàn khác
nhau, đại quân Thích Kế Quang ngày đi trăm dặm đã cực nhanh, Lý Như Tùng chỉ dẫn theo ba trăm thân vệ, một người hai ngựa muốn tranh đến trước
lão cũng không có gì khó. Nhưng nếu đánh quân Nhật, ba trăm kỵ binh có
tác dụng gì?! Lý Như Tùng từ điểm này biết phụ tử mình trị quân không
bằng Thích Kế Quang, dứt khoát không tranh chấp chuyện này nữa, giữ đúng bổn phận phó tướng.
Thích Kế Quang cũng nói tốt vài câu giúp Lý Như Tùng, Tần Lâm bèn nói chuyện với y một chút.
Quân thần Triều Tiên vui mừng tới nỗi nước mắt nước mũi cũng sắp rơi xuống, Lý Công vượt lên chắp tay thi lễ:
- Không biết Tần đốc sư, Thích Thiếu Bảo khi nào tiến binh? Hoặc ba
ngày, hoặc năm ngày, kẻ hèn sẽ ra lệnh quan lại hạ bang an bài hướng
đạo, lo liệu lương thảo.
- Binh quý thần tốc, còn chờ năm ba ngày gì nữa!
Tần Lâm cười to, sau đó chém đinh chặt sắt ra lệnh:
- Lập tức xuất binh! Truyền lệnh các quân, quy cách thưởng nhất luật
tăng gấp bội, lấy trong nội khố phát thẳng quân tiền, giết địch ghi công ban thưởng thật hậu. Tướng sĩ tử trận phát tử tuất thật nhiều, kẻ nào
bắt giết được danh tướng địch thưởng ngàn lượng bạc. Quan viên địa
phương Triều Tiên có ai dám thoái thác tránh né, xử theo tội làm lỡ quân cơ, bản hầu cầm Thượng phương bảo kiếm, tiên trảm hậu tấu!
Quân thần Lý Công lặng lẽ thè lưỡi, uy phong vị Tần đốc sư này thật lớn, không chọc vào hắn được.
Mấy chục viên cẩm y quan giáo đem lời của Tần Lâm cùng rống to lên ba lần, tướng sĩ biên quân cất tiếng hoan hô như sấm động.
- Mạt tướng tuân lệnh!
Thích Kế Quang ôm quyền hành quân lễ với Tần Lâm, sau đó phóng người lên ngựa, vung Lưu Kim Hổ Đầu thương trong tay:
- Các quan tướng nghe rõ, theo Thích mỗ đi Triều Tiên bình Oa!
Hỏa thương thủ thiết khôi thiết giáp, thứ đao lóe lên hàn quang, kỵ sĩ
biên quân lưng đeo Thích gia đao, vác Tấn Lôi Thương, pháo binh dùng
thiên sương xa chính sương xa đẩy pháo Bồ Đào Nha, Hổ Tồn pháo, thám báo đêm Dạ Bất Thu triển khai ra xa... đội ngũ tướng sĩ lính mới dàn ra ở
bình nguyên Liêu Đông giống như một con rồng thật dài, tiếng chiến ca
vang tận trời cao:
Vạn chúng một lòng hề, quần sơn cũng có thể lay chuyển.
Duy trung cùng nghĩa hề, khí xung tận sao Đẩu sao Ngưu.
Chủ tướng thân ta hề, còn hơn phụ mẫu.
Can phạm quân pháp hề, thân không tự do.
Hiệu lệnh minh hề, thưởng phạt nghiêm.
Tình thế như nước lửa hề, không dám trì hoãn.
Trên báo thiên tử hề, dưới cứu dân chúng.
Giết hết giặc Oa hề, tìm kiếm phong hầu!
-----------
Sử xanh ghi lại: Thích Kế Quang làm tướng hiệu lệnh nghiêm minh, thưởng
phạt rõ ràng, tướng sĩ không dám không nghe lệnh, dùng binh nhanh như
điện chớp, giết địch như rạ.
Đốc sư Bình Oa, Vũ Xương Hầu Tần Lâm truyền hịch tiến binh ở Liêu Dương, Thích Kế Quang dẫn dắt một vạn năm ngàn lính mới Kế Trấn huy sư Nam
chinh, ngày đi một trăm hai mươi dặm có thể nói hết sức thần tốc. Qua
Điềm Thủy Trạm, Liên Sơn Quan, Thông Viễn Bảo, Phượng Hoàng thành, bốn
ngày đã vào Cửu Liên thành bên bờ sông Áp Lục (Liêu Ninh Đan Đông ngày
nay).
Đại quân không ngừng chút nào, nhờ quan phủ địa phương Triều Tiên hiệp
trợ xây cầu phao rộng hơn, trong một ngày đã vượt qua sông Áp Lục, ba
ngày liên tiếp đánh chiếm Thiết Sơn, Định Châu, An Châu, lấy thế lôi
đình vạn quân chạy thẳng tới Bắc đô Bình Nhưỡng Triều Tiên đang bị giặc
Nhật chiếm cứ.
Phong Nguyệt lâu được xây dựng theo kiến trúc góc mái cong của Trung
Quốc, xây trên đài cao bằng đá, là cao điểm bên trong Bình Nhưỡng thành, bộ chỉ huy quân Nhật được lập ở lầu này.
Lúc này hơn bốn vạn binh lực đệ nhất, nhị, tam quân của quân Nhật tề tựu trong thành, chủ tướng ba quân Tiểu Tây Hành Trường, Gia Đằng Thanh
Chính, Hắc Điền Trường Chính đều ở Phong Nguyệt lâu, lại có các danh
tướng Chiến Quốc Oa Đảo Trực Mậu, Nội Đằng Như An…
Từ Phong Nguyệt lâu trông về phía đội hình quân Minh xa bên ngoài thành
chỉ thấy thiết giáp sâm nghiêm, doanh trại san sát, nhật nguyệt chiến kỳ tung bay phấp phới, doanh địa nghiêm chỉnh không hề động như núi. Bên
ngoài doanh kỵ sĩ thân đeo thiết pháo lui tới như dệt cửi, tuấn mã toàn
là ngựa tốt thuộc vùng Thổ Mặc Xuyên, Hà Sáo, so với chiến mã quân Nhật
sử dụng cũng như so sánh với lừa.
- Thích Hổ soái dụng binh quả thật như thần!
Tiểu Tây Hành Trường hoảng sợ biến sắc.
Dù cho đại quân Thích Kế Quang hành động mau hơn nữa không thể nào vượt
qua được mật thám cỡi ngựa, huống chi quân Minh liên tục công chiếm
Thiết Sơn, Định Châu, tin tức cũng đã truyền đến Bình Nhưỡng.
Lúc ban đầu nghe nói quân Minh tới một vạn năm ngàn, Tiểu Tây Hành
Trường ỷ bên trong Bình Nhưỡng thành có đệ nhất nhị tam quân tổng cộng
là hơn bốn vạn binh lực, chuẩn bị lấy chúng hiếp cô, ra khỏi thành quyết chiến với chủ lực Thích Kế Quang. Tối thiểu cũng tiêu diệt quân tiên
phong của lão đột kích tiến trước, cố gắng đánh một trận thành danh
khiến cho cường địch sụp đổ, làm nhụt nhuệ khí quân Minh, nâng cao uy
phong quân Nhật đánh đâu thắng đó liên tiếp.
Lúc này Gia Đằng Thanh Chính tỏ vẻ phản đối.
Y cho là Thích Kế Quang tiến binh thật nhanh, đạt tới tốc độ kinh người
mỗi ngày một trăm hai mươi dặm, chuyện này có thể hiểu là quân Minh lấy
quy mô quân tiên phong chỉ với vài trăm vài ngàn người hành quân với tốc độ cao, mà đại quân sẽ lục tục tới sau.
Điểm này không cách nào giải thích chuyện những thành trì Thiết Sơn, Định Châu nhanh chóng bị hạ.
Tuy nhiên số lượng quân Nhật đóng ở những thành này không nhiều lắm,
cũng không hề có chất lượng cao, chủ yếu có tác dụng thăm dò trước khi
đại quân đến tập kích Bình Nhưỡng. Nhưng những thành như Thiết Sơn là
người Triều Tiên đã gia cố nhiều năm qua, cho dù lấy ít binh lực đóng ở
đó cũng có thể làm trì trệ thế công quân Minh.
Nhưng chiến huống bất ngờ, thành phòng Thiết Sơn, Định Châu trước mặt
quân Minh tan rã nhanh như băng tuyết dưới ánh mặt trời, thậm chí không
còn sót tên quân Nhật nào chạy về báo tin sau khi mất thành. Bên Bình
Nhưỡng nhận được tin tức thảy đều đến từ trước khi mất thành, chứng tỏ
thế công của Thích Kế Quang chính là quét lá vàng, mấy nơi đóng quân
trong thành không chỉ không còn sức đánh trả chút nào, ngay cả phá vòng
vây cũng không làm được.''
Hàng trăm hàng ngàn quân tinh nhuệ tuyệt đối không làm được chuyện này trong công phòng chiến thành thị.
Vì vậy Gia Đằng Thanh Chính có kết luận: Thích Kế Quang cũng không phải
là lấy một đám quân nhỏ tinh nhuệ nhanh chóng đột kích, mà là dẫn dắt cả cánh đại quân, lấy tốc độ cao khiến cho người ta phải trợn mắt há mồm,
khí thế như mãnh hổ xuống núi lao thẳng tới Bình Nhưỡng. Chiến lực của
cánh quân như vậy đạt tới mức độ vô cùng đáng sợ, tuy rằng quân Nhật có
ưu thế về quân số nhưng tốt nhất vẫn nên ngoan ngoãn chờ trong Bình
Nhưỡng thành, nhờ vào hệ thống phòng thủ trong thành chiến đấu với quân
Minh.
Trước hôm nay, Tiểu Tây Hành Trường còn khịt mũi khinh thường kết luận
này. Binh pháp có câu ‘tranh lợi năm mươi dặm, tất quyết thượng tướng
quân’, nếu như là một toán tinh kỵ binh nhỏ ngày đi hai trăm bốn mươi
dặm cũng có thể làm được, nhưng cả cánh đại quân có bộ binh, pháo binh,
trọng kỵ binh lại hoàn toàn khác. Phải đóng trại cắm trại, phải đắp lò
nấu cơm, phải vận chuyển quân nhu vật tư, bình thường ngày đi bốn mươi
dặm, có thể đi được sáu mươi dặm đã là tinh nhuệ. Trong chiến tranh
Chiến Quốc trăm năm ở Nhật Bản chưa từng nghe nói có đại quân ngày đi
được một trăm hai mươi dặm.
Đùa giỡn sao, Bản Châu đảo (Honshu) chỉ có bao lớn, nếu như một ngày có
thể tiến quân trăm hai mươi dặm, chẳng phải chỉ mấy ngày là có thể xuyên qua?!
Bất quá Tiểu Tây Hành Trường cũng không thể đưa ra giải thích hợp lý đối với chuyện Thiết Sơn, Định Châu thất thủ, không cách nào phản bác chính diện kết luận Gia Đằng Thanh Chính. Cho nên y không thể làm gì khác hơn là ngoan ngoãn đợi ở Bình Nhưỡng, chuẩn bị chờ sau khi quân Minh chân
chính lộ diện, lúc ấy mới cười nhạo đối thủ cũ Gia Đằng một trận, sau đó ra khỏi thành hội chiến.
Dĩ nhiên lúc nhìn thấy quân dung cường thịnh Thích Kế Quang, chứng thật
danh soái Thích Hổ thật sự dẫn dắt một vạn năm ngàn binh sĩ dưới quyền,
lấy khí thế điên cuồng mạnh mẽ quét ngang phía Bắc Bình Nhưỡng, Tiểu Tây Hành Trường hoàn toàn bỏ đi ý niệm này. Hơn nữa vô cùng chán nản thừa
nhận trong lòng, quả thật lão đối đầu Gia Đằng Thanh Chính hơn mình một
bậc trên phương diện quân sự.
Hiện tại y cảm thấy vô cùng may mắn đã không đi ra khỏi thành đánh dã
chiến với Thích Kế Quang, nghe lời Gia Đằng Thanh Chính khuyến cáo, phái Tùng Phổ gia được xưng là cường phiên đi canh giữ cao điểm Mẫu Đơn
phong Ất Mật đài phía Bắc Bình Nhưỡng.
Tùng Phổ Trấn Tín là danh tướng, thủ hạ của y am hiểu thiết pháo tác xạ, lần trước Tổ Thừa Huấn dẫn dắt thiết kỵ Liêu Đông đánh vào Bình Nhưỡng, thiết pháo thủ Tùng Phổ gia bắn giết số lượng quân Minh nhiều nhất.
Giờ phút này trên Ất Mật đài, Tùng Phổ Trấn Tín thân mặc giáp Nam Man
Đỗng Cụ Túc có phong cách giống như châu Âu, dẫn dắt thủ hạ hơn hai ngàn binh sĩ đóng ở Mẫu Đơn phong. Y nhìn thấy phía Bắc quân Minh đang nổi
trống tù và lên lục tục ra doanh tụ họp, bèn hạ lệnh kéo cờ màu xanh
trắng có gia huy Tùng Phổ thị lên, dùng thái độ phách lối khiêu khích
quân Minh.
Quân Minh bày trận xong, các quân bộ kỵ pháo đâu vào chỗ đấy, một lá đại kỳ trên có chữ ‘quan Tổng binh bình Oa Thích’ xuất hiện ở hậu trận,
Thích Kế Quang mặc giáp sắt khoác chiến bào cũ đứng dưới cờ. Diện mạo
lão chất phác không có gì nổi bật giống như lão nông, nếu không có đại
kỳ kia, ai dám tin đây là Thích đại soái dùng binh thần tốc như sấm sét.
Thích Kế Quang ngưng thần nhìn về phía Mẫu Đơn phong, ngọn núi này vừa
đúng ở vào Bắc bộ Bình Nhưỡng, độ cao cũng chỉ hơn hai mươi trượng nhưng cực kỳ dốc, có tường thành độc lập bao quanh. Pháo đài Ất Mật đài trên
đó được xây bằng đá chắc chắn vô cùng, có lỗ châu mai, cung xạ thủ nấp
sau đó bắn quân địch tấn công từ trên cao xuống.
Quân Nhật ngoại trừ cho trọng binh canh giữ Ất Mật đài, còn bắt dân phu
Triều Tiên gia cố công sự ở sườn núi, hõm núi, các nơi hiểm yếu để có
thể phát huy hỏa lực khi chiến đấu. Đến khi xảy ra chiến đấu, Mẫu Đơn
phong và Bình Nhưỡng thành sẽ tiến hành tác xạ chéo, tạo thành sát
thương cực lớn cho quân Minh.
Muốn lấy Bình Nhưỡng, phải lấy Mẫu Đơn phong trước!
- Ngô Duy Trung, Lạc Thượng Chí!
Thích Kế Quang điểm tên hai viên Đại tướng dưới quyền.
- Có mạt tướng!
Hai vị tướng quân bước ra khỏi hàng, khom người ôm quyền.
Thích Kế Quang dùng roi ngựa chỉ Mẫu Đơn phong:
- Cho các ngươi ba canh giờ hạ ngọn núi này!
Ba canh giờ muốn đánh hạ ngọn núi địa hình hiểm trở lại có trọng binh
canh giữ chắc chắn, cũng chỉ có Thích Kế Quang mới ngang tàng bá đạo như vậy.
Không chỉ có các tướng quân dưới quyền không hề cảm thấy có gì không ổn, mà Ngô Duy Trung và Lạc Thượng Chí nhận được mệnh lệnh thần sắc cũng
không thay đổi, hai người bọn họ hô một tiếng tuân lệnh liền phóng người lên ngựa, dẫn dắt hai ngàn binh sĩ dưới quyền mỗi người chậm rãi ép về
phía Mẫu Đơn phong.
Tùng Phổ Trấn Tín rút quân đao ra múa, miệng oa oa kêu loạn, tận tình
biểu lộ thân là võ sĩ dũng võ, quân Nhật dưới trướng y cũng quần ma loạn vũ, thỉnh thoảng bắn mấy phát lên trời tỏ vẻ khiêu khích.
Quân Minh giữ vững trầm mặc, từ hai viên chủ tướng đến quan quân rồi đến binh sĩ dưới quyền, tất cả đều không lộ vẻ gì ra ngoài mặt, không hưng
phấn cũng không úy kỵ. Giống như bọn họ không phải chém giết sinh tử với quân Nhật, mà là đang tiến hành một trận thao diễn trên giáo trường.
Đúng vậy, đây chính là nghĩa ô binh Chiết Giang nổi tiếng thiên hạ, nòng cốt Thích gia quân. Năm xưa bọn họ từng đánh cho giặc Oa tan tác ở vùng duyên hải Đông Nam, sau khi được điều tới Kế Trấn từng đứng nghiêm trên diễn võ trường từ sáng tới tối không nhúc nhích dưới trời mưa to như
trút, khiến cho kiêu binh hãn tướng chín trọng trấn chấn động trợn mắt
há mồm, từ đó về sau vô cùng bội phục Thích đại soái.
Tiếng kêu hỗn loạn điên cuồng của quân Nhật dần dần xuống thấp, bọn họ
cảm giác được quân đội đối diện có một loại khí chất đặc biệt từ trước
tới nay chưa bao giờ gặp đang âm thầm ép tới. Thứ đao lóng lánh hàn
quang, khôi giáp tối đen giăng giăng hợp thành một biển sâu, mà ngù khôi đỏ rực tung bay trên mũ trụ cũng giống như ngọn lửa đang bùng cháy
không tiếng động trên mặt biển kia.
Không có ai hô, không có ngựa hí, chỉ có mấy ngàn chiếc chân giẫm đạp phát ra tiếng vang trầm đúc khắp cả vùng đất.
Lòng bàn tay Tùng Phổ Trấn Tín bắt đầu toát mồ hôi.
Chúng tướng quân Nhật trên Phong Nguyệt lâu cũng đổi sắc mặt, Gia Đằng Thanh Chính có danh xưng là Quỷ Gia Đằng lẩm bẩm:
- Thích Kế Quang cầm quân tiến nhanh như gió, bày trận như rừng, đánh hạ thành trì như lửa, doanh lũy kiên cố bất động như núi, thật sự là cường giả đương thế.
Sau khi Thích Kế Quang đến Bắc phương nhậm chức có điều cải tiến đối với binh pháp thường dùng. Uyên Ương trận thích hợp tác chiến ở địa hình
Nam phương có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, đánh với đám giặc Oa võ
nghệ cao cường nhưng mạnh ai nấy đánh. Đến phía Bắc đại chiến với quy mô hàng vạn quân, đối kháng với Mông Cổ Thát Lỗ am hiểu quần chiến trên
địa hình đồng bằng, vậy phải áp dụng đại trận tương ứng.