Rời khỏi trấn Tây Hà.
Ngày thứ ba, trước một con đường núi nhỏ hẹp, bụi cát mù mịt, bọn họ bắt gặp một nhóm mã tặc đang cướp bóc một toán thương nhân. Bọn cướp thẳng tay đánh đập những người thương nhân trong đoàn buôn, còn với phụ nữ thì giở trò sàm sỡ. Đinh Tiểu Thác thấy ngứa mắt, xông vào định làm anh hùng, lại bị bọn cướp đánh cho bán sống bán chết, kêu cứu ầm ĩ.
Giải quyết xong đám mã tặc, Bắc Đường Khẩn nói với cô rằng, không biết bơi thì đừng có mà đi cứu người, những việc không liên quan tới mình trên đời này, chẳng thể ôm đồm hết được. Cô nói, ôm được bao nhiêu thì ôm bấy nhiêu, thấy chết không cứu, trong lòng áy náy. Anh lắc đầu.
Ngày thứ năm, bọn họ ở nhờ một gia đình nông dân. Đinh Tiểu Thác hăng hái xung phong nấu cơm tối, lại thiêu rụi căn bếp nhà người ta. Bắc Đường Khẩn phải móc tiền túi ra bồi thường. Đêm đến, cô gõ cửa phòng anh, thả một củ khoai lang đã nướng đến không còn nhận ra hình dạng xuống trước mặt anh, nói là vừa đi đào trộm ngoài ruộng về, là củ nướng thành công nhất, coi như bồi thường vì đã báo hại anh không có cơm ăn. Anh nhìn cô mặt mày than tro đen đuốc, dở khóc dở cười.
Ngày thứ mười, bọn họ người đầy bụi bặm, đi qua một ngôi chợ. Đinh Tiểu Thác dán mắt vào những hàng hóa la liệt bày trên sạp, nhất là những món y phục nữ thêu thùa tinh xảo, mang đậm phong cách vùng biên ngoại, lại càng nhìn đến không muốn rời mắt.
Bắc Đường Khẩn mua cho cô một bộ. Một chiếc váy dài dày dặn trắng muốt như tuyết, viền áo là những đám mây thêu bằng chỉ kim tuyến. Cô khoác tấm áo choàng, lật chiếc mũ liền mép viền lông mịn đội lên đầu, thứ màu sắc tinh khôi nhất đã làm khuôn mặt trắng mịn như sứ, ửng hồng tựa ráng chiều. Đinh Tiểu Thác túm lấy vành mũ, nhìn anh toét miệng cười, nói cảm ơn, trông rất đẹp. Anh chưa bao giờ thấy cô gái nào có thể cười xấu xí được giống như cô. Thế nhưng, anh lại có phần thích thú.
Trên đường đi, tấm áo mới của cô tung bay theo gió, mang theo mùi hương đặc trưng trên người cô, thoang thoảng và vương vấn, hoàn toàn khác với bất cứ loại phấn sáp nào. Dựa vào vòng tay anh, cô vẫn ồn ào như vậy, nghĩ gì nói đấy, vị sư phụ nát rượu, mụ phù thủy yêu cây, Avarta… Thế giới đó, anh không hiểu được. Sâu thẳm trong lòng anh bỗng như thoáng hụt hẫng.
Ngày thứ mười hai, họ cách Nhạn Môn Quan đã không còn quá xa nữa. Hai người nghỉ chân tại một ngôi làng, bổ sung lương thực nước uống. Dân làng rất chất phác, đám trẻ con nước mũi lòng thòng nô đùa bên cạnh họ, quan sát những người khách lạ với ánh mắt tò mò.
Hoàng hôn trên đại mạc nồng nàn tráng lệ hơn bất cứ nơi nào. Mặt đất nhấp nhô những đường nét bất tận, kéo dài về phương tít tắp, hòa lẫn với ráng chiều bát ngát bầu trời, kết thành một bức phác thảo hoàn mỹ. Đinh Tiểu Thác chia kẹo cho bọn trẻ, vui vẻ chơi đuổi bắt với chúng, dạy chúng hát, cái gì mà vui sao là vui ấm sao là ấm, bên tường đất chú cừu ngon kêu be be, nghiêng đầu lắng nghe tiếng hát… Khói bếp lảng bảng bay trên xóm làng, anh và cô ngồi kề vai nhau trên đống rơm dưới chân tường đất, “đại mạc rộng một làn khòi thẳng, sông dài xa vệt ráng in tròn”[1], ngắm nhìn phong cảnh nên thơ trước mặt, trái tim bất giác cũng trở nên rộng mở.
[1] Hai câu trích trong bài “Sứ chí tái thượng” (Đi sứ miền biên tái) của Vương Duy đời Đường, nguyên văn là “Đại mạc cô yên trực, trường hà lạc nhật hồng”. (Nd)
– Dựng một gian nhà nhỏ nơi đây, xung quanh quây một hàng rào. Rồi vỡ một mảnh đất sau nhà, trồng rau. – Cô nghiêng nghiêng đầu, đung đưa đôi chân, hoa tay chỉ trỏ một cách ngẫu hứng nhưng rất thành thực – Sau đó xây một chuồng bò, chuồng cừu hay chuồng gà gì đó ở đằng kia, lại nuôi thêm một con chó chăn cừu nữa, rồi hằng ngày dẫn cừu đi thả. Cừu ăn cỏ, còn tôi ngồi trên sườn núi đọc sách, con chó chạy qua chạy lại trước mặt. – Cô càng nói càng hào hứng, gò má ửng đỏ lên như cánh hoa hồng rạng rỡ dưới ánh chiều tàn – Đương nhiên, tốt nhất là bên cạnh còn có thêm một người nữa. Chúng tôi chăn ngựa, chăn dê, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ. Thi thoảng đi du lịch một chuyến, lượn lờ trong những phiên chợ náo nhiệt, hoặc là quay về thành phố nhộn nhịp chơi bời thỏa thích một phen, thưởng thức chút mùi vị thế gian, sau đó lại trở về nhà của chúng tôi, tiếp tục cuộc sống êm ả thanh bình.
– Sau đó, gian nhà này sẽ biến thành một mục trường, vì gia súc mà họ nuôi ngày càng đông đảo. Có một kẻ ngốc ngày nào cũng nấu những món ăn dở tệ, rồi giống hệt như một con quạ cứ lẵng nhẵng bám theo người ta quàng quạc không ngơi miệng. Rồi một ngày, cô ta chân tay lóng ngóng đỡ đẻ cho con ngựa, nhìn chú ngựa con mới ra đời, cô ta vừa khóc vừa cười. – Anh nhìn vẻ mặt mơ màng của cô, rất tự nhiên tiếp lời, chỉ tay về phía trước, nói – Ở đằng kia, cô ta nhảy tưng tưng như một kẻ tâm thần. – Sắc mặt anh rất thản nhiên, cứ như anh thực sự nhìn thấy cảnh tượng mình đang miêu tả.
– Hình tượng của tôi làm gì xấu xí đến thế! – Cô lườm anh một cái, rồi lập tức ngẩn ra, nói – Ồ, những lời này sao chẳng giống với lời nói của Ngọc Diện Quỷ Vương chút nào nhỉ?
– Cuộc sống thật tuyệt vời! – Anh ngửa đầu nằm xuống đống rơm, hít vào một hơn thật sâu, thảnh thơi nhìn lên bầu trời, tuy là trả lời, nhưng lại giống như tự nhủ một mình.
Suốt đường đi, do cô không ngớt nằn nì, anh thi thoảng lại kể cho cô nghe một vài câu chuyện. Chuyện về thân thế của anh, về Diệp Nghê Thường, và việc họ chuẩn bị thành hôn. Anh thành hôn với ai, việc này hẳn là chẳng hề liên quan tới cô? Việc cô cần làm chỉ là “bám chặt” lấy anh, lấy lại được kiếm Linh Tê, cô có thể trở về thế giới của mình. Mọi thứ ở nơi này sẽ chẳng lưu lại bất cứ dấu tích nào trong cuộc đời cô. Đáng ra phải như vậy mới đúng. Nhưng tại sao giờ đây, một vài ý nghĩ cố hữu, tưởng chừng sẽ không thể nào thay đổi, dường như đã tan chảy dưới ráng chiều, bắt đầu dao động?
Cuộc sống trong tưởng tượng của cô, căn nhà gỗ, chuồng trại, bầy cừu, và cả con người sẽ ở bên cô, bỗng nhiên từ hư vô nhẹ bẫng trở nên có trọng lượng, từ từ chìm vào trong lòng cô. Nếu thực sự như vậy, trời cao mây rộng, lưng ngựa vung roi, năm tháng êm đềm; nếu thực sự được như vậy, yêu thương trân trọng, bên nhau đến bạc đầu… thì có tìm được kiếm Linh Tê, có trở về hay không, cũng có hề gì? Cô giật mình bởi ý nghĩ của chính mình, vội vã chuyển chủ đề:
– Chắc là anh rất yêu vị hôn thê của mình?
– Mười năm về trước, tôi thậm chí còn căm ghét cô ấy! – Im lặng hồi lâu, anh khẽ cười – Cha mẹ tôi là bạn học cũ của nhà họ Diệp. Sau khi họ qua đời, cha Diệp Nghê Thường tìm được tôi từ trong đám ăn mày. Cô ấy lúc đó là thiên kim tiểu thư nhà phú thương, kiêu căng ngạo mạn, cả ngày chỉ trỏ sai khiến tôi. Sau này, có lẽ là do tuổi tác trưởng thành, cảm giác giữa hai chúng tôi đã có thay đổi. Cô ấy dần tỏ ra dịu dàng với tôi, còn tôi lúc nào cũng muốn mang lại những gì tốt đẹp nhất cho cô ấy. Như vậy có được coi là yêu không?
Có lắc đầu:
– Tôi cũng không biết!
Anh quay đi, không nói gì thêm nữa. Đợi cho con ngựa mệt mỏi ăn no uống đủ, họ tiếp tục lên đường. Kỳ thực, anh muốn ở lại, dựng một mục trường, lòng không vướng bận, ngắm mây trời lúc cuộn lúc tan, tiêu dao tự tại, đó chính là mong ước thực sự của anh. Rất lâu trước kia, anh từng nói điều này với Diệp Nghê Thường, nhưng lại bị nàng cười nhạo, nói anh không có chí lớn. Thứ nàng muốn và thứ anh muốn, từ trước tới nay chưa bao giờ giống nhau.
Đinh Tiểu Thác bắt chước điệu bộ của Bắc Đường Khẩn, nằm xuống nhìn trời, miệng khẽ ngâm nga mấy câu trong một bài hát cũ, lặp đi lặp lại.
Em nhớ tới cảnh thiên đường trong mơ anh từng miêu tả,
Tay chỉ về nơi xa, vẽ ra những căn nhà.
Nụ cười ngây ngô của anh sao mà chân thật,
Tất cả niềm tin từ đó có đâu xa.
Bắc Đường Khẩn chưa từng nghe thấy giai điệu nào tương tự, nhưng anh thích lời bài hát, cũng thích cái cách hát vô tư lự của cô. Thật kỳ lạ, trong cuộc sống tưởng tượng, người cùng anh trên yên ngựa băng gió đạp tuyết, lại không phải là Diệp Nghê Thường.
Trong “Bí kíp tình yêu cảu Nguyệt Lão” có đoạn nói rằng: “Khi bạn yêu một người, tự nhiên sẽ tán đồng và tiếp nối ước mơ của người ấy, cho dù đó chỉ là một câu chuyện phiếm ngẫu hứng”.