Ngay sáng hôm sau ấy, thầy Lộc cùng mọi người tay bị tay nải leo lên thuyền từ sớm, tìm về con lạch cũ. Đi theo thầy chỉ có ông Mười với hai thanh niên nữa. Họ mang theo cuốc xẻng, vải bạt, ít đồ lễ. Từ sau vụ bẫy lần trước, đám thanh niên trong làng tởn đến già không dám đi thuyền khám phá mấy chỗ như vậy nữa.
Sau lưng thầy Lộc có một chiếc bọc dài quấn vải vắt chéo lưng, không biết là vật gì, cộng thêm túi bùa và đồ nghề đeo trước ngực. Thầy chẳng nói chẳng rằng, bước lên thuyền, cứ theo hướng cũ mà đi. Thầy đứng trước mũi thuyền, chiếc áo khoác to sụ bay phần phật, trông hướng nọ hướng kia dưới ánh nắng đầu ngày.
Tưởng tìm dễ mà cũng không hề dễ. Loanh quanh một hồi, đi lạc mấy lần, ông Mười vẫn không thể nhớ chính xác con lạch nằm ẩn ở khúc nào của sông. Có lẽ hôm đó trời đã xâm xẩm tối, cộng thêm nỗi hoảng sợ quá độ lúc chạy ra nên ông không còn nhớ rõ nổi nữa.
Thầy Lộc đành khẽ khàng ngồi xuống, rút trong túi ra lọ mực đỏ ông hay chấm viết bùa, lấy chiếc bút lông dậm đậm vào rồi khẽ khàng nhúng xuống nước khuấy 3 vòng. Màu mực đỏ loang ra thành hình đầu rồng, rồi khẽ uốn lượn theo dòng nước. Màu mực đỏ cứ thế lan, lan ra trước mũi thuyền gần 500m.
Thầy Lộc hất đầu: “Đi theo hướng đó đi anh Mười.”
Một thanh niên ồ lên: “Kì lạ nhỉ!”
Thầy Lộc đáp: “Mực máu rồng bí truyền đấy. Đương nhiên không phải máu rồng thật nhưng thả nước hay đốt đều lên hình rồng, vẽ bùa rất thiêng, nhạy với âm khí và tử khí.”
Chiếc thuyền bơi theo dòng mực chảy trên sông, đi tới một lùm cây um tùm.
“Hình như đúng là đây rồi thầy Lộc...Hôm đó thầy Vĩnh phải gạt đám cây này ra mới có lối đi...”
Thầy Lộc cũng dướn người xuống vén đám cây cỏ thì đúng thật hiện ra một lạch nước nhỏ sâu vào trong hun hút.
“Vào thôi!”
“Vâng...” giọng ông Mười run run. Thầy Lộc phá lên cười sảng khoái.
“Đừng lo! Giữa ban ngày ban mặt thế này không có gì đâu. Mới cả anh không nhớ lũ ma da độc địa bị chúng tôi bắt hôm qua rồi à? Ở đây cùng lắm chỉ có hồn ma bóng quế vật vờ, không làm gì được mình nữa đâu. Làm gì còn ai sai âm binh nữa....”
Nghe lời thầy Lộc nói thế, ông Mười với thanh niên kia mới mạnh dạn đẩy thuyền vào.
Con lạch nước này khá nhỏ, rải rác sỏi đá, âm u thu mình trong nhiều tán cây dày. Thầy Lộc vừa trôi vào không gian trong lạch nước đã thấy gai ốc nổi đầy mình.Trong này âm khí nhiều quá.
“Tìm ngôi nhà gì đó đi..Lần trước mọi người đã xem xét ngôi nhà đó chưa?”
“Chưa thầy ạ. Lần đó chưa kịp xem xét gì đã...mà thứ cần tìm cũng không có, chỉ mang theo cái thứ rợn người...”
Con thuyền lại tiến sâu thêm vào trong. Bên trái bờ, ngôi nhà bằng đá hiện ra xa xa.
“Đậu gần đó đi anh...”
Chiếc thuyền đậu gần ngôi nhà, ghế lên một mỏm đá. Mọi người xuống thuyền. Cả thảy 4 con người lên bờ, rón rén lại gần ngôi nhà được xếp rất khéo léo kỳ quan, những hòn đá méo xẹo cũng chồng lên nhau tài tình.
Thầy Lộc lẩm bẩm: “Cầm gia..trong cái bài thơ đó...có lẽ là ngôi nhà giam cầm họ ở đây...Ngôi nhà đá này bị ấn, không phải tự dưng mà dựng được thành hình như thế mà có ấn kết nối với nhau...Giờ tôi phải giải ấn...”
Ông Mười không nghe rõ mới hỏi lại: “Gì cơ thầy?”
“Lùi lại...”
Nói rồi một mình thầy Lộc tiến lên phía trước. Thầy rút thứ nằm trong bọc sau lưng ra. Đó chính là một thanh đoản kiếm cán trông đã rất cũ. Thầy Lộc cẩn thận tháo viên ngọc ấn chủa Thiên Mụ ra khỏi cổ, trước khi Vĩnh được đưa vào viện anh đã nhẹ nhàng cất đi. Bây giờ thầy Lộc mới khẽ khàng cuốn chặt ngọc ấn vào cán kiếm. Xong việc đó, thầy rút 5 lá bùa có 5 màu khác nhau, đã được họa sẵn ra rồi xiên nhẹ vào cán kiếm, mỗi lá bùa cách nhau 2 đốt ngón tay.
Nói xong thầy từ từ lại gần ngôi nhà bằng đá. Thầy Vĩnh chọc khẽ mũi kiếm thăm dò, thế nhưng ngôi nhà có vẻ chắc chắn một cách khó hiểu. Giờ mới quan sát kĩ bên trong ngôi nhà có một hình nhân gỗ khắc dán bùa Trấn.
Bằng một động tác dứt khoát, thầy Lộc lấy mũi kiếm đâm thẳng vào hình nhân. Tay thầy run lên như có 1 lực đẩy mãnh liệt. Hình nhân đó dần bốc khói, nóng đỏ rồi vỡ ra. Khói bay ngút lên trên mảnh trời, mùi hăng hắc.
Thầy Lộc lại vung thanh đoản kiếm, vuốt 1 lá bùa ra bằng 2 ngón tay, máu ứa ra. Thầy nhẩm chú trong miệng, phạt bay lá bùa về phía trước. Kì lạ thay những viên đá kia chắc chắn đến vậy giờ lại vỡ vụn ra.
Thầy Lộc cứ phạt từng lá bùa như thế, máu chảy ròng ròng trước ánh mắt kinh ngạc của 3 người còn lại. Gió từ đâu thổi đến từng cơn, những tán cây xào xạc trong gió như một bài ca cầu hồn.
Lá bùa cuối cùng bay về phía đống tàn tích từng là ngôi nhà đá giữa rừng. Thầy Lộc đốt lên một lá bùa đỏ như lửa thiêng rồi ném vào đó. Tất cả bốc cháy ngùn ngụt, thế nhưng chỉ 1 phút sau, trên mặt đất chỉ còn lại tro tàn. Thật kì lạ!
Thầy Lộc lấy băng gạc băng bàn tay đang chảy máu của mình lại rồi nhờ ông Mười và hai cậu thanh niên cứ thế mà đào xuống dưới lớp tro. Đó là một thuật ếm cổ, tạo một cổng khóa không cho ai thâm nhập vào.
Ông Mười và hai thanh niên hì hục đào sâu xuống dưới. Họ đào được 1 chiếc quan tài lớn bằng gỗ đã mục. Họ cạy nắp quan tài lên.
Ở bên trong là 2 thân hình người được bọc kín trong vải trắng, quấn xung quanh là chỉ đỏ. Ở nơi chỗ đáng ra là 4 con mắt của con người thì là 4 chiếc kim nhọn trông như gỗ cắm vào.
Thầy Lộc khẽ xuýt xoa: “Ghê quá, yểm đấy...Cắm kim vào mắt để không thấy đường đi, không gọi người đến cứu được. Hồn kẹt ở đâu thì vẫn mãi ở đấy thôi...Đúng là thăng thiên tại trời, thành sự tại nhân, có khi đến lúc được siêu thoát vẫn không siêu thoát được vì bị yểm ở đây, phải có người cứu may ra...”
Thầy Lộc bắt đầu khấn vái làm lễ sang cát. Buổi lễ này cũng kì lạ hơn bao nhiêu nhưng buổi lễ quật mộ khác vì nó diễn ra ban ngày, giữa âm u cây rừng, thời gian gấp rút rồi nên không thề lần khân mãi. Ông Mười rửa xương bằng nước thánh và nước lạch rất trong. Hai bộ xương khô được xếp lại, bọc kín.
Lúc xong xuôi mọi việc cũng là quá trưa. Ông Mười cùng hai thanh niên trẻ lại chèo thuyền về. Ánh nắng tràn khắp mặt sông. Xác của hai con người thiên cổ ấy cũng rời khỏi lạch nước mà được giải thoát.
Chiều hôm ấy, đợi giờ đẹp, không muốn nghỉ ngơi một chút nào, thầy Lộc làm đàn lễ cúng siêu thoát cho vong hồn của hai con ma da cùng mấy trăm người chết oan nơi con sông này bao nhiêu năm về trước. Buổi lễ cúng 3 ngày trời bên bờ sông, khói bốc lên mịt mù từ những giá nến lớn, bao nhiêu vàng mã đồ cúng chúng sinh đều được bày biện ra hết kín hàng chục mâm. Nhiều người dân hiếu kỳ còn kéo đến xem chật kín cả cây cầu. Tối 3 ngày đó, những ngọn hoa đăng đủ màu sắc được người dân thả xuống cầu nguyện cho những linh hồn dưới sông.
Ngày cuối cùng, thầy Lộc đeo lên mắt 1 dải băng vàng, mở chiếc xô cá ra. Không nhìn thấy gì thế nhưng thầy vẫn nhanh nhẹn dùng tay bắt từng con cá và dùng chiếc kiếm hôm trước chặt đôi từng con cá. Miệng thầy nói: “Hóa kiếp...”
Máu đen phun ra từ thân hình những chú cá, thầy quăng chúng vào ngọn lửa ngùn ngụt phía trước mặt. Tất cả đã hóa thành cát bụi.
Ấy vậy mà cảnh tượng sau đấy còn gây kinh hãi khắp cả nước.
Từ dòng sông chảy rì rầm với màu nước xanh rêu ấy, xác người từ đâu nổi lên kín sông. Đó không phải là những xác người mới chết trôi gần đây mà là những người mất tích từ lâu lắm rồi. Xác họ trắng như thạch cao, không có dấu hiệu phân hủy, chỉ như mới rơi xuống sông ngày hôm qua. Bao nhiêu gia đình kéo đến nhận xác, nhốn nháo cả hai bên bờ. Thu..hay em trai của Hiệp cũng được tìm thấy. Ông Lãng cũng tìm thấy xác con trai mình, mau chóng đưa về quê nhà an táng. Vậy là sau bao ngày tháng thê lương, cơn ác mộng của hòn đảo này cũng được xóa bỏ, những người sống đã có cơ hội khóc thương trước thân xác những người thân đã mất của họ. Điều đáng buồn là người thì không thể sống lại được. Thầy Lộc nói rằng, hồn những con quỷ nước đã được tiễn về trời nên dòng sông trả lại xác người đã mất. Chúng giấu xác những người bị kéo chết, giờ xác mới nổi lên. Những xác người không ai nhận cũng được an táng êm đẹp. Hai cái xác tìm được trong con lạch nhỏ thì được hỏa táng, chấm dứt những nỗi đau kéo dài hàng chục năm.
Xử lí xong tất cả mọi chuyện, thầy Lộc khăn gói mọi thứ chuẩn bị rời đi sớm. Mấy ngày trời thầy phải trú ở nhà nghỉ trên đảo. Thầy phải theo đúng lời hứa của mình, đẹp trả lại ấn ngọc cho nhà chùa. Dân làng tổ chức một buổi thiết đãi ấm cúng để cảm ơn thầy Lộc đã tận tâm giúp đỡ suốt mấy ngày qua, rất tiếc là thầy Vĩnh vẫn đang nằm dưỡng thương trong viện nên không có mặt. Xong buổi thiết đãi đó, thầy Lộc xách hành lý rời đi.
Ra đến chiếc dốc đầu làng, một bóng hình chậm rãi bước tới. Khi thầy Lộc bước lướt qua mà không để ý, người đó đấm mạnh vào vai của thầy Lộc khiến thầy khững lại. Y như thầy đã làm lần trước. Thầy Lộc nhận ra.
“Vẫn còn khỏe gớm nhỉ? Coi bộ lành bệnh rồi đấy?” Thầy Lộc nhếch mép cười.
“Haha..Tỉnh lại tự thiền thì cũng hồi nhanh hơn người thường. Cơ bản là có phải vết thương vật lý đâu?”
“Ờ thế tốt rồi. Từ biệt. Tôi phải đi sớm. Bảo trọng!”
“Khoan đã!” Thầy Vĩnh gọi giật giọng. “Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
“Câu hỏi gì?”
“Tại sao lại biết tôi? Và tại sao ông không trừ quỷ luôn đi, lại cứu và chờ tôi đi khám phá mọi thứ?”
Thầy Lộc khững lại một chút rồi mới đáp: “Anh còn nhớ bức tranh mà bố của cô bé gì nhỉ, Thu ấy? Để lại không?”
“Ừ rồi sao nữa?” Thầy Vĩnh cau mày nhớ lại bức tranh anh đã được cho xem vào ngày Hiệp dẫn anh đi gặp bà Thơm.
“Bức tranh đó có vẽ hình chiếc cầu này và 2 bóng người. Đó là bức tranh tiên tri. Tôi cứ tưởng đó là bức tranh vẽ 2 con ma da dưới cầu này....Thế nhưng...”
“Thế nhưng đó lại là...vẽ hai người thầy?” Thầy Vĩnh tiếp lời, mặt ngây ra.
“Đúng vậy. Chuyện này cần hai người, chứ 1 người không đủ sức. Tôi cũng được một người kể về nơi này nên mò đến và tìm hiểu. Thế quái nào tôi lại phải chờ đợi 1 tên đần như anh. Đợi anh tìm ra sự thật rồi sẽ bàn kế với nhau. Thế nhưng mà cái tính nóng vội của anh chẳng bỏ được...”
“Này!” Thầy Vĩnh nói. “Vậy xong chưa?”
“Xong hết rồi, yên tâm đi.”
“Ha, hào quang nhường hết cho thầy Lộc đây rồi còn gì...” Thầy Vĩnh cười nói.
“Biết vậy, hữu duyên đến vậy thôi, tôi đi nhé!“. Thầy Lộc giơ tay phải lên rồi quay lưng bước đi.
“Cảm ơn nhé!” Lời nói bật ra từ miệng thầy Vĩnh nói với bóng lưng của thầy Lộc đang đi xa dần.
Thầy Vĩnh chậm rãi bước về phía hòn đảo. Lòng thầy cảm thấy nhẹ nhõm vì tất cả mọi chuyện đã qua. Đứng chờ thầy ở phía đầu cầu bên kia là một dáng người đang sững sờ.
Người đó vội chạy tới ôm chầm lấy thầy.
“Anh Vĩnh!”
Thầy không dám ôm lấy bóng lưng của cô gái đó. Ánh mắt nâu của cô làm thầy bối rối. Khuôn mặt cô sưng húp lên vì mấy ngày qua bận lo hậu sự cho em trai.
“Anh khỏe lại rồi à?”
Thầy gật đầu.
“Anh xin lỗi..vì làm mọi người lo lắng...”
Và thế rồi họ đi vào hòn đảo để chào hỏi mọi người và hỏi han những chuyện đã xảy ra. Nhiều nhà trong hòn đảo đang phải lo hậu sự nên không khí có chút yên lặng. Gia đình ông Lãng cũng đã ghé qua bệnh viện để thăm thầy và nói lời cảm ơn, từ biệt vì họ đã đạt được mục đích, phải đưa anh Lăng về. Thầy cũng hứa sẽ rẽ qua nhà mới của ông làm lễ chu đáo cho anh Lăng và thay bát hương.
Đêm hôm đấy, sau khi thầy Vĩnh nghỉ ngơi thêm chút, anh đi ra sau đảo và bắt gặp Hiệp ở ngoài đó. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Thầy Vĩnh kể cho cô nghe những gì thầy đã từng thấy khi ở dưới lòng sông sâu.
“ Đôi tình nhân đó xa cách lâu, linh hồn cả hai cũng không thể siêu thoát được vì cơ thể bị yểm, lại không gặp được nhau, người nữ dưới sông, người nam trên bờ nên oán hận càng lớn. Ông thầy năm xưa đó đã sai lầm vì tưởng sẽ yểm được họ mãi mãi. Họ từng chỉ dẫn anh tới nơi đó nhưng anh không hiểu ý họ, khiến họ nổi giận sai âm binh đến đánh đuổi..Từ “tử “ trong bài thơ đó là tứ, ám chỉ con số 749 mạng người họ sẽ được ra đi. Nhưng thực chất họ đã có thể ra đi từ khi đoạn sông này không còn Hà Bá, ý niệm ăn sâu rồi nên cứ trói họ ở dưới cây cầu này hại người. Cầm gia mới chính là ngôi nhà đá đã giam cầm họ bấy lâu nay.”
“Vậy à..em không biết...đúng là chia ly thật khổ...thấy anh bị thương nặng như vậy em cũng lo lắng lắm...” Hiệp cúi đầu khẽ nói.
“...Lời nói duy nhất kéo anh trở lại...chính là giọng nói của em.” Thầy Vĩnh bối rối thú nhận, nhìn sang hướng biển vỗ ầm ầm vào bờ.
Khoảng lặng kéo dài day dứt giữa họ. Có những điều giằng xé trong tâm can khiến họ chẳng dám bước thêm một bước nữa để phá tan bức tường ngăn cách.
“Cảm ơn anh...đã vì em mà cố gắng suốt mấy tuần qua...Bao giờ anh phải đi?” Hiệp mở lời, nói lên điều mà cô đang sợ hãi.
“Chắc là 3 ngày nữa...”
“Hay là...anh ở lại với em đi...ở đó cũng không có ai ở bên cạnh anh mà...đừng đi nữa? Anh có thể ở nhờ nhà chú Mười 1 thời gian trong lúc tìm trọ mà? Những gì anh làm cho hòn đảo này, người dân sẽ không nề hà gì mà giúp đỡ đâu...” Hiệp quay sang, mặt cô đỏ hết lên vì lời đề nghị táo bạo.
Thầy Vĩnh im lặng.
3 ngày sau ấy thầy Vĩnh không đề cập gì tới chuyện rời đảo nữa khiến lòng Hiệp thấy vui lạ, chắc anh đã quyết định ở lại. Sáng nào thầy cũng tới đợi cô trước cửa nhà để đi dạo cùng cô và trò chuyện.
Buổi sáng 1 tuần sau đó, cô tỉnh dậy nhưng không thấy thầy đứng dưới đợi như mọi ngày. Cô vội chạy tới nhà nghỉ tìm anh, hay là anh ngủ quên? Bà chủ trọ nói rằng anh vừa kéo hành lý rời đi.
Mắt Hiệp nhòe nước, cô chạy như bay về phía cây cầu dẫn ra thành phố, mong rằng sẽ đón kịp anh. Hóa ra anh lừa cô. Mới sáng sớm, mọi cảnh vật còn chưa hoàn toàn bừng tỉnh.
Vừa chạy đến cây cầu gỗ Độc Kiều, cô nhìn thấy một dải ruy băng đỏ đang buộc ở đó, bay phất phới trong gió. Có một lần, cô từng nói với anh cô thích màu đỏ nhất.
Cô lại gần, ở dải ruy băng có cài chặt một mảnh giấy nhắn. Cô bóc ra xem. Những dòng chữ trong đó làm nước mắt cô không thể ngừng rơi.
“Gửi Hiệp, người con gái luôn đẹp nhất trong lòng anh
Những ngày qua được ở bên em, trò chuyện và bảo vệ em là những tháng ngày anh sống có ý nghĩa nhất. Anh cũng rất muốn được ở bên em mãi như thế, nhưng anh không thể.
Anh chỉ là một thầy pháp nghèo, phải trả cái nghiệp này, số phận long đong nay đây mai đó, tính mạng của mình còn không dám chắc. Anh có thể gieo được quẻ Tử bất kì lúc nào. Một người như anh không thể chăm sóc một cô gái cả đời, càng không thể đem lại cho cô ấy hạnh phúc. Nếu bỏ lại mình em trên thế gian này sẽ là day dứt cả cuộc đời của anh. Anh nghĩ đến lúc đó và anh thương em. Anh không thể ích kỷ được.
Cho anh xin lỗi vì đã ra đi mà không nói gì vì anh biết, nếu anh nói ra, anh không thể đi được. Người con gái như em xứng đáng với những gì tốt đẹp nhất. Em đã đấu tranh cho hòn đảo này nhiều năm rồi, em hãy đi tìm niềm hạnh phúc riêng thuộc về em đi.
Lần cuối, cho anh xin lỗi em thật nhiều. Em có đôi mắt nâu thật đẹp giống như mẹ của anh, và anh sẽ không bao giờ quên...
Vĩnh.”
Hiệp chạy như bay lên con dốc, chạy dọc theo con đường sỏi đá để tìm bóng hình thầy Vĩnh thế nhưng đáp lại cô chỉ là tiếng gió sông thổi vào mịt mùng.
HẾT
Mọi người mong muốn ngoại truyện viết về gì thì comment nhé ^^