Và rồi đến tối thứ tư. Khi lũ trẻ mặc áo chùng xanh xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua hành lang. Bên ngoài sẽ có gió rít đấy, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lòng. Ông ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hay người chạm vào nhau, và nó đột ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính người đàn ông to lớn kia phải sợ nó.
Cửa dẫn ra vườn để mở. Những đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có lấy một vì sao, chúng ngước lên nhìn bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt đất lại có một đốm sáng nhờn nhợt, nhảy nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân chúng như thủy tinh vỡ.
“Anh ở ngay sau lưng em đây, Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi,”
Charlie quay lại, thấy gương mặt rạng rõ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.
“Chúc may mắn!” Charlie nói khẽ. “Hy vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”
“Im lặng,” một giọng đanh sắt vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”
Chúng đã đến cổng khu vườn đổ nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu tên lên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lung lườm Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.
Nó nhận ra mình đang ở trong một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷa tay Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt dầu, có vẻ như chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa, nhưng từ từ, chúng bắt đầu nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.
“Anh có nghĩ là tụi mình đang đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.
“Ai mà biết!” Fidelio đáp.
Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.
Có lúc chúng đến được một khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn tung tóe vô một cái hồ giá lạnh. Charlie thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi nó đi.
Có lúc, chúng lại húc phải một bức tượng mục hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi đi, một sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.
“Làm sao tụi mình biết được là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.
“Có một ngôi mộ ở đó,” Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”
“Mộ? Nhưng mộ của ai?”
“Charlie!” Fidelio bỗng kêu to. “Đứng im. Có gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”
“Cái gì?”
Charlie quay vòng và ngó lom lom chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc áo giống như một đám mây lấp lánh kỳ dị.
“Bà cô của em may nó đó,” Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”
“Có lẽ làm vậy để ai đó có thể đi theo em trong bóng đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”
Charlie cởi phăng chiếc áo chùng ra và vứt toẹt xuống đất.
“Được, họ sẽ không bắt được em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể bị chết cóng chứ nhất định không để bị tóm.”
“Em có thể dùng chung áo với anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.
Lối đi kế tiếp chúng chọn rất giống một đường hầm. Chúng gần như phải gập đôi người lại, hầu tránh đụng đầu vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm thấy khó thở trong cái không gian tù túng như thế này. Nó chạy nhanh về phía trước và thấy ló ra một khoảng trống hình tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tựa gì. Nó nhận ra nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.
Cứ nghĩ là bạn mình đã ra khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi,
“Hây, Fidelio, nhìn nè”
Không có tiếng trả lời. Charlie săm soi nhìn vào đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.
“Này, nhanh lên. Đừng có loanh quanh nữa!”