Bùa mê
Tiếng ầm ần kinh động do bức tượng quỷ lùn gây ra dội vang khắp con đường Piminy, từ đầu này tới tận đầu kia. Tuy nhiên không một cư dân nào hiện ra khỏi cửa nhà họ. Lẽ nào họ không tò mò? Tancred tự hỏi. Khi anh tiến gần hơn tới Tiệm ấm thì tiếng ồn càng rõ. Anh nhìn qua cửa sổ và trông thấy một vật thô bạo màu xám đang tông uỳnh uỳnh vô những hàng những lớp ấm. Tốc độ phá hoại chết chóc của sinh vật đó khiến Tancred nổi giận đùng dùng, không sao kiềm chế được. Anh xông vô tiệm và tên quỷ lùn quay phắt lại đối mặt với anh.
Từ khóe mắt Tancred thấy một chuyển động trong căn phòng bên kia cửa vòm, nhưng mắt anh vẫn dán chặt vô tên quỷ lùn. Một tiếng động rất điên dại phụt ra khỏi sinh vật suýt nữa quật ngã Tancred. Sẵn đà đang tức giận, anh triệu hồi gió vốn luôn chực chờ nơi những đầu ngón tay. Sấm rền vang trên mái nhà và một luồng chớp nhóa lên chiếu rõ từng đường nét xấu xí trên bộ mặt của tên quỷ lùn. Rồi gió thổi tới. Sức mạnh tài phép của Tancred khiến hắn kinh ngạc. Dường như sức mạnh đó xuất phát từ sâu bên trong con người anh, chảy lan khắp thân thể anh, và dồn cuốn về phía sinh vật ác quỷ trước mặt anh. Cơn hận thù muốn trả miếng của tên quỷ lùn bốc lên, khốc liệt đến mức như sờ thấy được – khao khát hủy diệt của hắn tăng cao, bởi vì hắn biết rằng hắn đang đụng độ một sức mạnh tương xứng.
Cơn bão của Tancred xoáy quanh tên quỷ lùn, đẩy ấm bay hết về phía sau tiệm. Chưa thỏa lòng, cậu bé Thời Tiết nâng cấp bão của mình lên, cho tới khi tên quỷ lùn chỉ còn là vật duy nhất anh nhìn thấy giữa những lọn tóc mắc trong gió đang gào rú xung quanh mình. Và trong trạng thái bị ép dữ dội như thế, thân hình đá bắt đầu biến đổi. Bộ ngực như tấm phản của hắn phơi ra màu kim loại xỉn, cái quần bạc màu rơm, gương mặt nhòe nhoẹt màu nâu đổ bệnh hoạn, đôi mắt bợt bạt tia xám lạnh. Tancred gồng sức giữ cho ánh mắt mình chọc xoáy vô cái hình hài đang biến đổi gớm ghiếc kia, vô hình ảnh cái mũ giáp chụp trên cái đầu hói, và vô bàn tay có ngón cái quái dị đang lần mò tìm con dao giắt trong thắt lưng.
Tancred thả vô gió những hạt mưa đá, và bàn tay tên quỷ dừng khựng lại ngay tư thế hắn vừa chồm tới. Vài giây trôi qua. Cậu bé và tên quỷ lùn cùng khóa chặt trong một trận đâu sức vô hình. Khi Tancred cảm thấy sức mạnh của tên quỷ lùn yếu đi, anh chớp cơ hội phóng một luồng năng lượng cứng như sắt khoan thẳng vô tái tim của hắn.
Tên quỷ lùn bằng đá rúng động, đôi mắt xám nháng lên và hắn đổ ập xuống sàn. Trong vài giây, không một vật gì động đậy. Cơn bão dịu đi chỉ còn lại làn gió thoảng rồi một bầu thing lặng bí hiểm vây kín lất Tiệm ấm. Xem ra cả tiệm đang đau đơ s sau trận náo động. Tancred cẩn thận tiến về phía tên quỷ lùn nằm sống sượt. Dường như hắn đã cạn hết sự sống và bợt hết màu sắc.
“Tancred!” Charlie ló qua cửa vòm. “Anh đã nó tống khứ nó đi rồi!”
“Em chắc không?” Tancred bước chập choạng trên thảm ấm bể. Chợt anh trông thấy bà Ketlle nằm lịm trong bóng tối. “Ôi không! Bà ấy chết rồi sao?”
“Không, không, em thấy tiếng bà thở,” Charlie nói gấp.
Khi Tancred đi qua khung cửa vòm, một tiếng động khiến anh quay lại. Charlie nhìn theo ánh mắt anh, thấy tên quỷ lùn bằng đá vụt đứng lên và bắn thẳng ra cửa sổ. Chỉ khi đó chúng mới nhận thấy thằng bé tí teo đang bò rón rén dọc theo mép tường.
“Ê!” Tancred quát.
Eric Shellhorn thảy cho anh một cái nhìn ngạo nghễ rồi hướng ra cửa chạy mất tiêu.
‘Nó chuồn về Tiệm Đá cho coi,” Charlie nói”
‘Tốt hơn tụi mình chờ người tới giúp rỗi hẵng tới đó,” Tancred lẩm bẩm. Anh tới quỳ bên cạnh bà Kettle. “Để cháu gọi xe cứu thương.”
“Từ trước bà Kettle đã e sợ là co chuyện sẽ xảy ra cho bà,” Charlie nói. “Nghe vậy em nghĩ ngay đến bức tượng quỷ lùn nhưng Eric lẻn vô hồi nào em không hay biết.”
Tancred sở hữu không chỉ một chiếc điện thoại di động loại oách. Hôm nay anh vừa tậu một phiên bản đời mới nhất. Một “chú dế” bạc loáng koóng với những bàn phím màu ngọc lam. Anh chỉ vừa mới bấm vài con số thì bàn tay anh bị chụp trong một vòng “kẹp sắt” và chiếc di động bị giật đi.
“KHÔNG!” bà thợ rèn ra lệnh.
“Bà Kettle! Bà...bà...” Charlie lắp bắp, quỳ thụp xuống bên cạnh bà.
“Tỉnh rồi,” bà Kettle nói. “Vừa tỉnh xong.”
“Cháu xin lỗi. Dường như cháu đã gây ra cảnh tượng bừa bãi kinh khủng này.” Tancred nhìn đống báy xáy xung quanh. “Cháu chỉ cố thổi cho cái vật xấu xí đó khỏi tồn tại trên đời mà thôi.”
“Cưng đã cứu cả ngày hôm nay rồi đó, Tancred Torsson.” Bà Kettle vỗ bàn tay của anh. “Chứ không thì còn nát bét hơn nhiều.”
“Bà cần bác sĩ,” Tancred với tay lấy lại cái di động của mình. “Đi mà Kettle, đưa cho cháu gọi điện thoại.”
“Không.” Bà ấp chiếc điện thoại vô ngực và ngồi lên.
“Tên quỷ lùn đó đã đánh bà một cú trời giáng ạ,” Charlie nhận xét, nhìn trân trân vô cái trán của bà.
Bà Kettle đấm nhẹ lên trán một cái. “Úi! Ta vẫn còn sống. Nhưng này, không xe cứu thương. Không cảnh sát.”
Bà Kettle nói vậy là đã rõ. Nhưng tiệm của bà đã bị phá tanh banh, cửa sổ gẫy và khi bà lảo đảo đứng lên, Charlie nhận thấy bà phải chống tay vô một cạnh bàn. Lẽ nào bọn chúng có thể để bà ở lại một mình trong tình trạng thế này.
“Để tụi cháu xếp ấm lại cho bà – không phải hết thảy chúng đều bể cả đâu ạ.” Charlie nhấc một cái ấm sắt to đặt trở lên bệ của nó.
“Đừng lo, Charlie. Chẳng phải ta không có bạn bè đâu nhé. Họ sẽ tới ngay đấy, nếu ta không lầm.” Bà bấm bấm vài số trên chiếc điện thoại di động của Tancred xong rồi trả nó lại cho anh. “Cất đi, cậu bé bão tố, chúng ta sẽ không phải gọi cho bác sĩ và cảnh sát nữa. Kể từ lúc này trở đi.” Bà cúi người, rên hự một tiếng, ngó xuống gầm bàn. “Cưng ra được rồi đó Billy Raven. Kết thúc rồi.”
Billy hí hoáy bò ra cùng với cái đầu của con chuột lấp ló nơi cổ áo. “Cháu muốn chắc chắn hắn đã đi rồi.” Nó đứng lên, lôi chú chuột ra khỏi chiếc áo lạnh rồi vuốt ve cái đầu chú ta. “Rembrandt sợ hãi còn hơn cả cháu nữa. Anh đã đuổi cái đồ đá đó đi rồi phải không Tanc?”
“E là chưa đâu. Hắn chỉ sổng đi đâu đó thôi, Eric Shellhorn cũng chạy theo hắn sát gót. Bọn chúng kết hợp lại đúng là một cặp hủy diệt.”
Bà Kettle cương quyết bảo tụi con trai cứ để mặc bà dọn dẹp Tiệm ấm. “Các bạn ta sắp đến ngay đấy mà, nhưng ta muốn biết tên quỷ lùn đó đã chạy đi đâu. Đừng tự đưa mình vào nguy hiểm đó mấy cưng. Hãy bảo đảm Eric không ra tay nữa. Chỉ cần cho ta biết mấy cưng tìm hiểu được chuyện gì.”
“Tối nay cháu sẽ gọi cho bà, bà K.!” Tancred vẫy vẫy chiếc di động. “Số của bà là số mấy ạ?”
“Ta làm gì có mấy thứ lòe loẹt đó. Thôi, đi đi.” Bà Kettle lùa tụi nó ra ngoài và đóng cửa lại.
“Tiếp theo là tiệm cá,” Tancred thông báo khi cả bọn bước đi trên phố.
“Anh muốn tới đó làm gì?” Billy hỏi. “Em cầu cho tụi mình ra khỏi con đường này lẹ lẹ lên.”
“Hồi nãy anh đang hướng tới tiệm cá thì nghe thấy tiếng ầm ầm trong tiệm của bà Kettle,” Tancred nói. “Anh đã quyết định trả còn nhím biển cho Dagbert.”
“Để đổi lấy Clearwen? Cảm ơn anh, Tancred. Nhưng anh có chắc chưa?” Charlie hỏi. “Cái gì khiến anh đổi ý vậy?”
Tancred nhún vai. ‘Em cần con bướm của em mà, Charlie. Còn con nhím biển á, hừm, tụi mình sẽ phải tự dựa vô tài phép của tụi mình để thắng Dagbert.”
Khi chúng đi tới tiệm bán cá, Tancred cố gõ cửa. Nó khóa chặt, như thường lệ. Anh nhấn cái chuong gỉ sét, bọn chúng nghe một hồi chuông dài thê lương dội đi khắp bên trong ngôi nhà. Tancred nhấn chuông lần nữa. Tịt mít. Cái chuông hình như đã vừa réo lên tiếng kêu cuối cùng trong đời nó.
“Dagbert!” Charlie gọi với lên cửa sổ. “Mày có nhà không?”
Không thấy tiếng trả lời.
Chúng đợi thêm mười lắm phút nữa thì đi. Ngang qua tiệm bán đèn cầy và tiệm bán khung tranh, và rồi chúng đứng bên ngoài Tiệm Tượng Đá.
Bản năng thúc giục Charlie tiếp tục chạy. Billy cũng chạy. Thằng nhỏ chạy một lèo tới cuối đường thì đứng chờ, một tay giữ con chuột trong túi, tay kia bồn chồn quấn vặn những lọn tóc.
“Em nghĩ sao?” Tancred nhìn vô cái tiệm tối thui.
“Anh hỏi em nghĩ sao là sao?’ Charlie hỏi lại.
“Ý anh là tụi mình có vô không?”
“Anh giỡn chơi!” Charlie nhận ra mình đang bấn loạn. Nó cố bình tâm lại. “Em không nghĩ tụi mình vô lúc này là ý hay, Tancred. Nếu Eric ở trong ấy không chừng nó sẽ lại bài binh bố trận nữa đó.”
Tancred tranh xa cửa sổ ra. “Em nói đúng. Hừm tụi mình phải nghĩ kĩ vụ này.”
Nhưng chúng có thể đi tới đâu để suy nghĩ bây giờ? Nơi tụ tập thường lệ đã bị đóng cửa, nội Bone rình mò ở nhà số 9, còn nhà Tancred ở tít trên đồi cách xa nhiều dặm.
“Đầu óc anh trơ ra rồi,” Tancred làu bàu. “Anh cảm thấy kỳ kỳ sau vụ đụng độ với tên quỷ lùn.”
“Xin lỗi, Tancred!” Charlie dấn bước tới bên cạnh Tancred khi anh đi trên đường. “Hôm nay anh đến đây bằng gì?’
“Mẹ của Gabriel. Bác ấy ghé qua nhà anh ở đường Đồi Cao. Bác ấy với Gabriel đi thăm bà Onimous.”
“Ế, vậy thì tụi mình đến quán cà phê Thú Kiểng đi,” Charlie đề nghị. “Dù nó có đóng cửa với khách, ông bà ấy cũng cho tụi mình vô. Tụi mình là bạn mà.”
Mười lăm phút sau chúng đứng ở hẻm Ếch và dòm vô quán cà phê Thú Kiểng. Ghế chất đống hết lên bàn, một tấm trải màu trắng phủ kín quầy và không có có ngọn đèn nào được thắp bên trong những chiếc đèn lồng vốn làm cho quán trở nên lung linh sống động và ấm cúng. Trông nó đóng cửa hoàn toàn. Kể cả những đuôi, ria, cánh, chân cẳng trang trí tấm biển phía trên cửa trông cũng không hoạt bát như trước. Thực tình toàn bộ nơi này dường như đã thụt lùi vô trong bức tường cổ xưa đằng sau quán.
“Bác Silk đậu xe ở góc đường nhưng anh biết thế nào bác ấy cũng sẽ tới đây,” tancred nói.
Charlie rung chuông.
Một ngọn đèn lóe lên đằng sau quầy cùng lúc với một cánh cửa mở ra. Bác Silk xuất hiện. Bác lần chần, rồi nhìn thấy bọn trẻ lố nhố bên ngoài cửa sổ thì liền mở cửa trước.
“Bà Onimous sao rồi ạ?” Charlie hỏi với giọng nghèn nghẹ.
“Vô đi thì biết!” Bác Silk trông vui vẻ một cách đáng ngạc nhiên. Đôi mắt xanh da trời lấp lánh và mái tóc nâu cột ra sau bằng một dải ruy-băng lễ hội.
Đám nhóc theo bác Silk đi quành qua quầy, chui qua búc rèm bằng chuỗi hạt treo trước khung cửa vô một bếp ấm áp. Gabriel đang cắt bánh mì cho bà Onimous do cánh tay bà phải quàng dây trước ngực, và kia, đang ngồi trên ghế bành gần bếp lò là ông Onimous.
Charlie hầu như không tin nổi. Cảm giác được giải tỏa căng thẳng dội ào xuống nó đến nỗi nó không thốt nên lời. Hai thằng kia cũng ngây người ra như phỗng. Chúng cứ để mặc cho những nụ cười rộng nhất, hạnh phúc nhất, dài nhất chiếm lĩnh.
Một dải vải trắng thật to băng kín đầu ông Onimous, thêm một miếng băng nữa dán lên mũi, còn một bên mắt thì bầm đen, nhưng nụ cười rộng, lộ rõ hàm răng nhỏ nhọn của ông lại rạng rỡ hơn bao giờ hết.
Charlie chạy ùa tới bên người đàn ông nhỏ thó. “Ông ông...Onimous,” nó cà lăm.
Ông Onimous nắm bàn tay Charlie trong những ngón tay như có móng vuốt của mình. “Ố, ố, Charlie. Trông cháu kìa. Ta mạnh như mưa vầy nè.”
“Tụi con tưởng ông chết rồi chứ,” Billy buột mồm. “Làm sao ông khỏe lại được vậy, ông Onimous?”
“Làm sao á? Ta có những vị khách, Billy à.” Ông Onimous nghẹo đầu qua một bên, cười khà khà.
“Vị khách?” Billy chẳng khôn ra hơn. “Khách nào ạ?”
“Khách có lông!” bà Onimous tuyên bố, bằng giọng ngụ ý rằng đáng lý Bily phải thừa biết loại khách nào đã chữa khỏi cho chồng bà mới đúng.
Ông Onimous bật cười ha ha và từ dưới gầm ghế ông ngồi toài ra ba con mèo lông rực rỡ, trông như đang ngái ngủ.
“Những con mèo lửa!” Tancred reo lên, rơi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh bà Onimous.
“Những con mèo lửa!” Charlie ngồi thụp xuống và bắt đầu vuốt ve ba con mèo sáng rực.
Billy chần chừ một chút rồi ngồi xuống phía bên kia bà Onimous. “Rembrandt vừa trải qua một chuyện kinh khủng,” nó bảo với bà. “Có lẽ nó không muốn chơi với những con mèo lửa.”
“Tại sao vậy, Billy, chúng không làm nó đau đâu,” bà trấn an thằng bé.
“Chắc vậy.” Billy nhẹ nhàng chạm vô túi áo và Rembrandt thở dài trong giấc ngủ.
Gabriel rót trà cho mọi người và trong khi bác Silk lấy những khay bánh nướng ra khỏi lò, ông Onimous kể tiếp câu chuyện về sự bình phục thần kỳ của mình.
“Ta đang nằm tròn phòng bệnh viện, giữa đêm khuya, những bệnh nhân ngáy và rên rỉ xung quanh. Ta không quan tâm. Ta nghĩ ta tiêu rồi. Sắp tiêu. Tệ nhất là cảm giác có kẻ nào đó muốn ta đi đứt cho xong. Và rồi, giữ tiếng van vỉ, tiếng rên và hơi thở nặng nề, ta nghe thấy âm thanh này. Thịch, thịch, nhẹ như phấn tiên. Gần, gần hơn và rồi tiếng rừ...những tiếng từ nhẹ êm, ấm áp và đầy yêu thương. Ta bắt đầu nghĩ, thế là mình không tiêu đâu. Không đâu. Mà thật ra là mình vẫn còn nguyên vẹn ở đây. Hơn nữa, mình còn nhiều việc phải làm. Ngay khi ý nghĩ như thế len vô cái đầu đáng thương của ta, thì ta cảm thấy một trong những con mèo nhảy lên giường của ta, một con nữa, rồi con nữa. Sau đấy Dương Cưu cọ cái mặt màu đồng của nó sát vô mặt ta, kêu rừ rừ. Con Sư Tử lông cam dụi má vô cánh tay ta và rừ rừ, côn Nhân Mã thì nhần ngón chân ta và gãi gãi bàn chân ta, nó cũng kêu rừ rừ.
“Ta phải công nhận là những tiếng rừ đó thấu đến tận tim ta, bọn nhóc à. Khi những con mèo lửa nghe thấy tiếng tìm ta đập rộn ràng và thấy ta mở mắt ra hớn hở, chúng nhảy khỏi giường và bước đi khỏi, cũng êm ái và lặng lẽ như khi chúng đến. Không ai trông thấy chúng, không một sinh linh nào thấy chúng cả. Sáng hôm sau ta hỏi cô ý tá trực đêm. ‘Mèo ư, thưa ông Onimous?’ cô ấy ngớ người ra. “Tôi chắc chắn là không có mèo trong bệnh viện. Tại ông đang mơ đó mà. Lúc này trông ông đã bình phục như có phép màu vậy’.” Ông Onimous mỉm cười với mọi người. “Các cháu nghĩ gì về việc đó?”
Charlie không ngạc nhiên tí nào. Trước kia nó đã từng thấy những con mèo lửa cứu sống người. Và chính mắt nó cũng đã thấy chúng suýt giết chết người.
“Ông Onimous, cháu nghĩ điều đó thật thần kỳ.” Tancred nói. “Nhưng chúng ta cần tìm ra thủ phạm đã gây ra tai nạn cho ông.”
“Và chúng ta cần phải đấu tranh cho quán mở cửa lại,” Gabriel nói một cách mạnh mẽ.
Không nhấc tay khỏi bộ lông cam của Sư Tử, Charlie nói, “Tụi cháu có điều này nói với ông nữa, ông Onimous.”
Tancred nói nhanh. “Có lẽ không phải hôm nay.”
Ông Onimous bực dọc bảo, “Nếu có gì ta cần biết thì ta phải biết ngay bây giờ. Nào Charlie, nói hết ra luôn đi.”
Bác Silk thúc dục mọi người ăn nhẹ trước đã. “Tôi đã làm rất nhiều nhé,” bác vừa nói vừa chuyền khay bánh cho mọi người. “Hầu hết là đồ dành cho thú. Tôi đã quên mất vụ việc đang xảy ra. Quên là quán đã đóng cửa. Nhưng bánh nào cũng ngon lắm, người đều ăn đượ cả.”
“Cái gì tốt nhất cho chuột ạ?” Billy hỏi.
Bác Silk chỉ loại bánh mảnh như que tăm màu hồng và Billy bốc một nắm.
Charlie ngồi xuống bàn và nhón lấy ba chiếc bánh quy không có vân sọc màu hồng. Tancred chọn một chiếc bánh nướng dẹp rắc đầy nhóc đậu phộng, để rồi được bác Silk bảo cho biết rằng bác đã làm nó đặc biệt dành cho mấy con ngựa lùn Shetland.
Tancred hí lên một tiếng và nói. “Bác có thấy móng guốc của cháu mọc ra chưa?”
Tất cả mọi người phá lên cười, nhưng khi tiếng cười dịu đi là một sự im lặng, kiểu im lặng ngụ ý phải được trám bằng một câu chuyện. Charlie bắt đầu kể về tên quỷ lùn trong Tiệm ấm, về cuộc dẹp yên của Tancred, theo quan điểm của nó.
Gabriel và gia đình Onimous vẫn im re, chỉ có bác Silk là bức xúc đến nỗi không thể ngồi tại chỗ. Bác cạo những cái khay nướng bánh, rửa những cái tô trộn bột, cất bột đi rồi lại bắt đầu lau bàn. Bác phải dừng tay khi đến lượt Tancred kể. Bởi vì khi anh kể, gió bắt đầu thổi tốc lên: muỗng gỗ, bao giấy, đồ cắt bánh, đậu phộng, lúa mạch, quả lý chua và nhộng sấy khô, muối và tiêu, đường và những gia vị bay vù lên không, đụng nhau tá lả rồi rơi xuống. Chúng rớt xuống đầu, vai mọi người, phủ xuống bàn, ghế và những bề mặt khác. Vậy là công viêc quét tước và lau dọn bỗng dưng trở thành một hoạt động kéo dài vô tận.
Ngay khi câu chuyện của Tancred chấm dứt, ông Onimous phồng má lên bình luận, “Ố, một trận chiến hệt như trong sử thi. Đồ quái vật!”
“Tên hắn là Ngón Cái Dị,” Charlie khẽ nói. “Cháu đã gặp hắn.”
Rõ ràng một câu chuyện khác vừa được khơi mào, thành thử Charlie mô tả chuyến đi tới xứ Badlock của nó. “Và giờ thì Hạt Đậu bị kẹt lại mà cháu không thể trở lại cứu nó.”
“Đừng lại gần bức tranh đó, Charlie,” ông Onimous cảnh báo. “Cháu nói nó hút cháu vô đúng không? Ta không thích như thế tí nào.”
“Không thích tí nào,” bà vợ ông phụ họa. “Không thể dây dưa với nó được. Hãy khóa cửa tầng hầm lại và quẳng chìa khóa đi.”
“Ông bà nói giống y như bà Kettle. Nhưng còn Hạt Đậu thì sao?” Billy nói với vẻ cáo buộc. “Con tưởng bà yêu thú vật chứ, bà Onimous.”
“Ta rất yêu chúng, Billy Raven. Rất yêu,” bà Onimous đứng thẳng hết chiều cao gần hai mét của mình. “Nhưng ta cũng yêu các con. Ta sẽ vỡ tim mất nếu con bị lôi vô xứ Badlock và không bao giờ trở về được.”
Mất một hồi Billy ngẩn người ra. “Vậy mà còn không biết,” nó lầm bầm.
Sau khi thêm một vòng đồ ăn nữa, bác Silk đề nghị tất cả rời quán để ông bà Onimous nghủ ngơi. Sáng mai bác sẽ đích thân phát động chiến dịch yêu cầu mở lại quán.
Gabriel là người cuối cùng bước ra ngoài. Khi đóng cửa quán sau lưng, anh trầm ngâm tự lự. “Giả sử người gác cửa quán cũng là người gây tai nạn cho ông bà Onimous thì sao?”
“Gabriel, mẹ sẽ không để con nói những điều như thế,” bác Silk nhăn mặt với con trai.
“Gabriel nói đúng ạ,” Tancred đánh bạo.
“Ông hội đồng Loom đóng cửa quán vì có nhiều lới phàn nàn,” bác Silk lập luận. “Ai trên đời này lại muốn hại hai người dễ mến đó?”
“Norton Cross thường đi xe mô tô,” Charlie nói.
Bước chân họ ngập ngừng rồi dừng hẳn. Họ vừa tới đường Đồi Cao. Tất cả quay lại nhìn Charlie
“Đó chỉ là một ý nghĩ thôi ạ,” Charlie nói.
“Đừng quá lố vậy!” bác Silk quẹo phải và bắt đầu leo lên đường Đồi Cao. Bác gọi to, “Gabriel, Tancred, nhanh chân lên nếu các con muốn đi quá giang.”
“Tại sao mẹ anh bực mình vậy?” Charlie hỏi. “Mẹ anh thường bực bội mỗi khi sợ hãi,” Gabriel giải thích. “Thứ Hai gặp lại các cậu.” Anh nắm lấy cánh tay Tancred và hai anh cùng nhau chạy theo bác Silk.
Charlie và Billy quay trở về đường Filbert.
Lúc trời tối mà Ông cậu Paton vẫn chưa về nhà, ngoại Maisie bảo với bọn nhỏ chắc là ông ngủ trong chiếc xe moóc của ông cách xa đây hàng trăm dặm rồi. Bà pha trò, “Chắc trên cao nguyên. Giống như một chú chó với cục xương mỗi khi ông truy lùng theo dấu vết gì đó. Nhưng ít ra ba người chưung ta được ăn tối riêng với nhau. Nội bone tới khuya lắc bà ta mới về.”
Trước khi đi ngủ Charlie kiểm tra cho chắc là cửa tầng hầm đã khóa. Nó cũng tới xem coi nội Bone có còn để chìa khóa trong cái hũ màu xanh da trời không. Có. Nhưng Charlie sẽ không quẳng chìa khóa đi. Nó cần phải trở lại xứ Badlock, bất kể hậu quả thế nào chăng nữa.
Chừng nào có Clearwen đi cùng, mình sẽ thử lần nữa, Charlie tự nhủ. Nó không chỉ nghĩ đến con chó mà còn nghĩ đến lời hứa của nó với ngài Otus Yewbeam.
Hai thằng bé lăn quay ra ngủ, mệt lử sau những chiến cố trong ngày. Nhưng trước khi bình minh Billy đã tỉnh giấc. Nó nằm trong bóng tối, tin chắc mình đã nghe thấy một tiêng động trong nhà. Cái gì vậy? Tiếng cầu thang cót két? Tiếng then cửa lách cách?
Billy ngồi dậy. Nó cảm thấy mình không sợ gì hết. Có gì đó trọng đại đã xảy ra. Cách đây vài tiếng bà Onimous đã bảo rằng bà yêu nó. Chưa bao giờ có ai nói với nó như thế cả. Không ai, kể cả bà di mà nó đã sống chung khi ba má nó vừa qua đời. Đó là một cảm giác mới mẻ đến độ Billy không biết phải cảm nhận như thế nào. Và từ từ, cảm giác ấy dâng lên khắp người nó: một niềm hạnh phúc vô bờ.
Rồi thêm một tiếng động nữa. Lầ này thì không chối cãi vào đâu được. Cho dù ở bất kỳ đâu Billy vẫn có thể nhận ra tiếng Hạt Đậu.
“Billy! Cứu! Billy! Cậu ở đâu?”
Không vặn đèn bên cạnh giường lên, Billy sờ soạng tìm mắt kính. Bóng đèn đường bên ngoài quăng một luồng sáng mỏng bên dưới tấm rèm. Billy lẳng lặng xuống giường đi tới cửa. Hạt Đậu tiếp tục gọi nó, nhưng đột nhiên thất ngại mở cửa ra. Nó nhìn Charlie, đang ngủ ngon lành. Charlie có nghe thấy tiếng sủa không? Hay chỉ mình Billy mới hiểu được?
Bà Onimous nói đã yêu mình. Tại sao nó cảm thấy nếu nó đi qua cánh cửa này thì nó sẽ vứt món quà đó đi? Trong vài phút nó đứng đực tại chỗ, tay đặt lên nắm đấm cửa, sau đó tiếng con chó gọi thúc bách, tuyệt vọng đến nỗi Billy không thể làm ngơ.
Khi nó mò xuống cầu thang, một co gió lạnh quất quanh bàn chân nó. Nó xuống tới hành lang. chìa khóa tầng hầm ở trong cái hũ trên nóc tủ đựng ly chén. Billy biết chính xác là cái nào. No định rẽ vô bếp thì nhận thấy cửa tầng hầm đang mở toang. Một dòng âm thanh rõ mồn một về phía nó: tiếng gió rít và tiếng tru trầm bổng.
“B...L...L...Y!”
Billy không còn lựa chọn nào khác. Nó phải đi tới nơi có tiếng gọi đó. Chó hay người? Bất kể là gì, tiếng gọi đó cũng kéo nó về phía tầng hầm, đi xuống những bậc thang cho tới khi bàn chân trần của nó bắt đầu ngả màu xanh tái trên sàn đá lạnh. Tứ bức tranh, Hạt đậu trao nháo nhìn ra nó. Tru và tru.
“Tao đến đây,” Billy nói.
Gió thét vô tai, cuốn nó quay tít mù và kéo nó về phía bức tranh, gần, gần nữa cho tới khi má của nó chạm tấm toan, những ngón tay và ngón chân nó đã ở trong xứ Badlock.
Chớp mắt sau, khi gió đã im, ai đó lẳng lặng đóng cửa tầng hầm và khóa lại.