Chuyện mở đầu bằng...
Khi Vua Đỏ rời châu Phi, ông mang theo một con rắn, chính xác là một con trăn Nam Mỹ quý hiếm, do một nhà thông thái du mục dâng tặng. Con trăn này có bộ da vừa đen nhẫy vừa óng ánh bạc, mắt nó trông tựa hai giọt nước. Rất ít khi đôi mắt rừng rực ấy nhắm lại, mà có nhắm cũng chỉ là giả bộ. Khi nhà vua có mặt, con trăn luôn cảnh giác cao độ. Không một tên trộm hay kẻ ám sát nào dám vượt qua nó. Vị vua - người có thể nói được ngôn ngữ của loài rắn – quý con trăn như một người bạn, một vệ sĩ, và một cố vấn uyên bác. Ông yêu con trăn hết mực.
Một ngày nọ, trong khi Vua Đỏ vắng mặt vì đi săn dài ngày, người con cả của ông là Borlath đã giăng lưới bắt con trăn. Borlath có trái tim độc ác nhất loài người, và môn thể thao hắn mê thích nhất là tra tấn, hành hạ các sinh vật sống. Trong vòng một tuần, hắn đã biến con trăn thông thái và hiền lành thành một sinh vật khát máu, sống chỉ để giết chóc. Nó có thể quấn nạn nhân chết tươi trong vòng một vài phút.
Con gái của nhà vua là Guanhamara, kinh sợ trước bản chất giết chóc mới xuất hiện của con trăn, liền ra tay cứu con vật và yểm bùa, hy vọng chữa trị được cho nó. Nhưng than ôi, bùa chú của Guanhamara tung ra qúa trễ nên chỉ có thể làm yếu đi cú siết thần sầu của con trăn. Nạn nhân của con trăn sẽ không chết, mà trở nên vô hình.
Khi Guanhamara qua đời, con trăn rơi vô một giấc ngủ sâu. Nó teo quắt lại thành một vật không sống cũng không chết. Hy vọng một ngày nào đó sẽ lại đánh thức sinh vật này dậy, bảy người con gái của Guanhamara (người nào cũng đều là phù thủy) đem ngâm con trăn trong một hũ chất lỏng pha nhiều loại thảo mộc, nên nước có màu xanh da trời. Họ cũng cho vào hũ một con chim cánh mỏng, lông bóng mượt. Thế nhưng, xác những sinh vật ướp đó vẫn bị Borlath đánh cắp và truyền lại cho các hậu duệ của hắn, đến tận đời Ezekiel Bloor. Dùng phương pháp do ông nội mình truyền đạt lại, Ezekiel Bloor đã phục hồi được con trăn, mà lúc này da của nó đã chuyển thành màu xanh da trời óng bạc. Nhưng với con chim thì lão không thành công.
Ezekiel Bloor giờ đã một trăm tuổi. Từ lâu lão vẫn hằng khao khát có được khả năng tàng hình, nhưng theo như lão biết rõ, thì tác dụng của cú quấn con trăn là vĩnh viễn, và lão không dám để cho con vật quấn mình. Lão già vẫn đang ráo riết tìm cho ra phương pháp đảo ngược được tình trạng vô hình, trong khi con trăn vẫn sống trên gác mái tối tăm của Học viện Bloor, chôn kín bí mật của nó trong lòng, cho đến khi ai đó có thể mang đến cho nó niềm an ủi của sự thấu hiểu – và lắng nghe câu chuyện của nó.
KẺ NGUY HIỂM
Một con cú xà xuống nóc căn nhà số 9, đường Filbert. Nó lượn bên trên một con chuột đang cuống quýt chạy, sau đó đậu lên một cành cây kế cửa sổ của Charlie Bone. Con cú hú lên, nhưng Charlie vẫn ngủ say sưa.
Bên kia đường, trong nhà số 12, Benjamin Brown đã thức giấc. Nó hé tấm rèm phòng mình ra ngó con cú, và tình cờ thấy ba bóng người hiện ra nơi ngưỡng cửa nhà số 9. Dưới ánh đèn đường nhợt nhạt, gương mặt của họ khuất chìm trong bóng tối, nhưng Benjamin có thể nhận ra họ ở bất cứ nơi đâu. Họ là những bà cô của Charlie Bone, bà Lucretia, bà Eustacia, và bà Venetia Yewbeam. Khi lén lút đi xuống những bậc cấp, một trong ba bà thình lình ngước lên ngó Benjamin. Nó vội thụt nép vô sau tấm rèm và nhìn họ hấp tấp đi khỏi con đường. Cả ba bà đều mặc áo khoác đen có mũ trùm, và đầu họ nghiêng nghiêng, chụm vô nhau như những kẻ đang âm mưu chuyện gì đó.
Bấy giờ là bốn rưỡi sáng. Tại sao những bà cô nhà Yewbeam lại ra đi sớm như vậy? Có phải họ đã ở nhà Charlie suốt đêm? Họ lại đang mưu tính một kế hoạch độc địa nào đó rồi, Benjamin nghĩ.
Phải chi Charlie đừng được thừa hưởng cái tài phép quái lạ như thế. Và phải chi những bà cô của Charlie đừng biết gì về cái tài đó, thì có lẽ nó đã được yên rồi. Thế nhưng, một khi người ta có tổ tiên là một phù thủy và một vị vua, thì chắc chắn bà con họ hàng sẽ phải mong chờ một cái gì đó ở ta thôi.
“Tội nghiệp Charlie,” Benjamin lẩm bẩm một mình.
Con chó vàng to đùng của Benjamin, con Hạt Đậu, từ trên giường tru lên đầy thương cảm. Benjamin nghĩ bụng, hay là nó đã đoán được việc gì sắp xảy ra với nó. Chắc chắn rồi! Suốt hai ngày qua, cô chú Brown bận bịu dọn dẹp nhà cửa và gói ghém đồ đạc. Loài chó luôn cảm biết được việc gì sẽ diễn ra khi người ta bắt đầu đóng gói hành lý.
“Ăn sáng, Benjamin!” Cô Brown gọi với lên từ nhà bếp.
Có tiếng chú Brown đang hát trong nhà tắm.
Benjamin và con Hạt Đậu chạy xuống lầu. Ba tô cháo bột yến mạch đã để sẵn trên bàn nhà bếp. Benjamin ngồi xuống. Má nó đang chiên xúc xích và cà chua, và nó rất vui khi thấy má nó không quên con chó của nó. Tô của Hạt Đậu cũng đã đầy xúc xích thái cục rồi.
Chú Brown vô nhà bếp, miệng vẫn hát ư ử và vẫn mặc áo choàng tắm. Cô Brown đã thay đồ chỉnh tề - một bộ vét xám gọn gàng, với mái tóc thẳng màu rơm cắt ngắn. Cô không diện một món nữ trang nào cả.
Ba mẹ của Benjamin là những thám tử tư, và họ luôn chú ý sao cho càng có vẻ mai danh ẩn tích càng tốt. Thỉnh thoảng, họ đeo ria mép giả hoặc đội tóc giả để cải trang. Thường thì chỉ có chú Brown mới dùng râu ria giả, nhưng có một lần (cái lần mà Benjamin muốn quên đi) cô Brown cũng thấy cần thiết phải đeo một bộ râu giả.
Mẹ của Benjamin đổi cái tô nó vừa chén sạch, lấy thêm một dĩa đầy cho nó và bảo:
“Con đem Hạt Đậu qua nhà Charlie gởi ngay khi đánh răng xong nhé. Nửa giờ nữa chúng ta sẽ đi.”
“Dạ!”
Benjamin tọng cho xong chỗ điểm tâm còn lại rồi chạy trở lên lầu. Nó không bảo với mẹ nó rằng Charlie chưa chính thức nhận lời chăm sóc con Hạt Đậu.
Phòng tắm của gia đình Brown nhìn xuống đường Filbert, và trong khi Benjamin đánh răng, nó thấy một người đàn ông cao lớn, trùm áo khoác đen đi xuống các bậc cấp nhà số 9. Benjamin ngừng chải răng và trố mắt dòm. Việc quái gì đang diễn ra trong nhà Charlie thế nhỉ?
Cái ông cao to đó là Paton Yewbeam, Ông cậu của Charlie. Ông đeo kính đen và cầm theo một cây gậy màu trắng. Benjamin tin chắc là cặp kính đen kia có liên quan tới khả năng kích nổ bóng đèn đầy xui xẻo của ông. Ông cậu Paton vốn không bao giờ xuất hiện vào ban ngày, nếu có thể tránh được; nhưng ra ngoài vào thời điểm tréo ngoe như thế này thì thật là kỳ lạ, ngay cả đối với ông. Ông bước tới chiếc xe hơi màu xanh đậm, mở cốp xe ra và cẩn thận đặt cây gậy phép (và chỉ có thể là cây gậy phép) ngay phía sau.
Trước khi Benjamin chải răng tiếp thì Ông cậu của Charlie đã lái xe vù đi mất. Benjamin nhận xét, ông hướng về phía ngược lại với ba bà chị của mình. Điều này chẳng có gì ngạc nhiên, vì Ông cậu Paton và các bà chị là kẻ thù không đội trời chung của nhau.
“Con qua nhà Charlie lẹ đi,” cô Brown giục giã từ nhà bếp.
Benjamin gói đồ ngủ và bàn chải đánh răng lại rồi đi xuống lầu.
Đuôi của con Hạt Đậu xuôi xị. Tai nó cụp xuống và mắt đảo tròn thật thảm thương. Benjamin cảm thấy có lỗi.
“Đi nào, Hạt Đậu,” nó nói với vẻ hớn hở quá mức, nhưng chẳng lừa phỉnh được con chó tới một phút.
Thằng bé với con chó cùng rời nhà. Chúng là bạn thân nhất của nhau, và Hạt Đậu chắc không bao giờ mơ tới chuyện cãi lời Benjamin, nhưng hôm nay chú ta lết móng vuốt và miễn cưỡng bước lên những bậc cấp nhà số 9.
Benjamin nhấn chuông và Hạt Đậu rú lên. Chính tiếng rú đó đã đánh thức Charlie dậy. Tất cả mọi người trong nhà cũng bừng tỉnh, nhưng họ nghĩ mình vừa gặp ác mộng nên lại ngủ tiếp ngay.
Riêng Charlie, nhận ra tiếng rú, bèn lảo đảo xuống cầu thang, ra mở cửa.
“Gì vậy?” Nó hỏi, nheo mắt vì chói đèn đường. “Vẫn còn đêm mà?”
“Ừ.” Benjamin nói. “Mình có một tin hấp dẫn vô cùng. Mình sắp đi Hồng Kông đây”.
Charlie dụi mắt.
“Cái gì, ngay bây giờ?”
“Ừ.”
Charlie bối rối, ngó bạn lom lom, sau đó mời bạn vô nhà xơi bánh mì nướng. Trong khi nướng bánh mì, Charlie hỏi Benjamin rằng con Hạt Đậucó cùng đi Hồng Kông với nó hay không.
“È... không,” Benjamin ngập ngừng. “Nó mà đi thì sẽ phải cách ly để kiểm dịch. Nó ghét bị vậy lắm.”
“Vậy thì nó đi đâu?” Charlie liếc nhìn Hạt Đậu và con chó bự thảy cho nó một nụ cười héo úa.
“Chính vì vậy mà...” Benjamin vừa nói vừa ho nhẹ, “không có ai khác ngoài bồ, Charlie à.”
“Mình á? Mình không giữ chó ở đây được,” Charlie nói. “Nội Bone sẽ giết nó mất.”
“Đừng nói thế,” Benjamin hoảng hốt, lo lắng nhìn Hạt Đậu nằm sóng sượt dưới gầm bàn. “Nè, coi bồ làm gì kìa, nó bực mình rồi kìa.”
Charlie vừa mới bắt đầu ú ớ phản đối, Benjamin đã lẹ làng giải thích ngay rằng chuyến đi Hồng Kông hoàn toàn là bất ngờ. Một tỉ phú Trung Hoa yêu cầu ba má nó lần theo dấu vết của một chiếc vòng cổ vô giá, đã bị đánh cắp khỏi căn hộ ở Hồng Kông của ông ta. Gia đình Brown không thể khước từ một vụ đầy thách thức và được trả giá cao như thế này; nhưng vì vụ việc có thể mất nhiều tháng, nên họ không muốn bỏ Benjamin ở nhà một mình. Rủi thay, sự vụ không có phần cho Hạt Đậu.
Charlie ngồi thừ ra bên bàn bếp và gãi đầu. Mái tóc rối nùi của nó càng bù xù hơn thường ngày.
“Ồ,” nó chỉ nói được có nhiêu đó.
“Cám ơn, Charlie,” Benjamin đút một miếng bánh bự chảng vô miệng. “Mình đi đây.”
Ra đến cửa nhà bếp, nó quay lại nhìn, vẻ tội lỗi:
“Mình xin lỗi. Hy vọng bồ sẽ thu xếp được, Charlie.”
Đoạn nó chuồn thẳng.
Benjamin phấn khích đến nỗi nó đã quên phéng không nói cho Charlie biết về Ông cậu Paton, về cây gậy phép hay về cuộc viếng thăm của ba bà cô.
Từ cửa sổ nhà bếp, Charlie nhìn bạn lao qua đường và nhảy vô chiếc xe hơi lớn màu xanh lá cây của gia đình Brown. Charlie giơ tay lên vẫy nhưng chiếc xe đã vụt đi khỏi, trước khi Benjamin kịp trông thấy nó.
“Giờ sao đây?” Charlie rên rỉ.
Như để trả lời, con Hạt Đậu rừ lên từ dưới gầm bàn. Benjamin không hề nghĩ đến chuyện để lại chút thức ăn chó nào cho Hạt Đậu, còn cô chú Brown thì quá bận đến nỗi chẳng thể nghĩ đến những việc tủn mủn.
“Ôi thám tử tư!” Charlie thốt lên.
Mất năm phút, Charlie phải vắt óc suy nghĩ xem làm sao để có thể giữ con Hạt Đậu mà nội Bone không biết. Nhưng suy nghĩ vào buổi sáng tờ mờ như thế này thì thật là hao tổn sức lực. Charlie gục đầu xuống bàn và ngủ mê đi.
Đen đủi làm sao, buổi sáng hôm đó, nội Bone là người đầu tiên xuống lầu.
“Gì thế này?” Tiếng rít của nội khiến Charlie giật thót mình choàng dậy.
“Ngủ trong bếp hả? May phước cho mày hôm nay là thứ Bảy, không thì mày lỡ xe buýt trường rồi.”
“Ừm.”
Charlie hấp háy nhìn lên người phụ nữ cao gầy trong chiếc áo choàng tắm màu xám. Một bím tóc màu tuyết thõng thượt sau lưng bà, và đung đưa từ bên này qua bên kia theo nhịp chân bước loanh quanh nhà bếp - đập ấm siêu, đóng mở tủ lạnh sầm sầm, dằn mạnh tảng bơ cứng lên bệ bếp. Đột nhiên, bà quay ngoắt lại và nhìn Charlie chòng chọc.
“Tao ngửi thấy mùi chó,” nội Bone nói như tuyên án.
Charlie chợt nhớ ra con Hạt Đậu.
“Ch... chó?” Nó cà lăm.
May sao, tấm khăn trải bàn dày dài gần chấm đất, nên bà nội nó không trông thấy con Hạt Đậu.
“Thằng bạn mày vừa mới bén mảng tới hả? Thằng đó lúc nào cũng đầy mùi chó.”
“Benjamin? À... phải,” Charlie nói. “Nó tới để chào tạm biệt. Nó sắp đi Hồng Kông rồi.”
“Thoát nợ!” Nội Bone khịt mũi.
Khi nội Bone đi vô kho chứa thực phẩm, Charlie tóm lấy xích cổ Hạt Đậu và kéo con chó lên lầu.
“Tao không biết phải làm gì với mày đây,” Charlie thở dài. “Thứ Hai tao phải đi học rồi, tới thứ Sáu mới về. Mày biết đấy, tao phải ngủ lại trường mà.”
Con Hạt Đậu nhảy phóc lên giường Charlie, phe phẩy đuôi. Nó đã từng trải qua bao nhiêu giờ vui sướng trong phòng ngủ của Charlie rồi.
Charlie quyết định nhờ Ông cậu Paton giúp đỡ. Lướt ra khỏi phòng mình, nó rón rén đi qua chiếu nghỉ, tới cửa phòng Ông cậu. Tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY treo ngay tầm mắt Charlie. Nó gõ cửa.
Không có tiếng trả lời.
Charlie thận trọng mở cửa ra và nhìn vô. Không có Ông cậu Paton trong phòng. Rời khỏi nhà vào buổi sáng như thế này thật chẳng giống Ông cậu chút nào. Charlie tới bên chiếc bàn to chất đầy sách và giấy. Trên chồng sách cao nhất có một chiếc phong bì đề tên Charlie.
Charlie rút một tờ giấy ra khỏi phong bì và đọc những dòng chữ nguệch ngoạc, to sụ của Ông cậu.
Charlie thân yêu.
Các bà chị của ta vẫn chứng nào tật nấy. Nghe họ thì thầm toan tính từ sớm hoắc. Quyết định đi để ngăn chặn những việc xấu. Nếu ta không chặn thì có kẻ rất nguy hiểm sẽ tới. Không có thời gian giải thích. Vài ngày nữa sẽ trở về - Ta hy vọng thế!
Thương mến,
Ông cậu P.
Tái bút: Có mang theo cây gậy phép.
“Ôi trời,” Charlie rên rỉ. “Bữa nay chừng nào mọi thứ mới hết trật chìa đây?”
Rủi thay, những rắc rối chỉ mới là bắt đầu.
Buông một tiếng thở dài thõng thượt, Charlie rời phòng Ông cậu và húc thẳng vô một chồng khăn.
Bà ngoại của Charlie, ngoại Maisie, đang ôm chồng khăn, loạng choạng bật ngửa ra sau và ngồi đập xuống sàn cái phịch.
“Coi chừng, Charlie!” Ngoại hét.
Charlie đỡ bà ngoại dư ký lô của mình đứng lên, và trong khi giúp ngoại Maisie nhặt lại khăn, nó kể cho bà nghe về mẩu tin nhắn của Ông cậu Paton và vấn đề con Hạt Đậu.
“Đừng lo, Charlie,” ngoại Maisie bảo.
Giọng ngoại chìm xuống thành một tiếng thì thào khi nội Bone đi lên hết cầu thang:
“Để ta chăm sóc con vật tội nghiệp đó. Còn với Ông P... ta đảm bảo tất cả rồi sẽ kết thúc tốt đẹp thôi.”
Charlie trở lại phòng mình, thay đồ thật lẹ và bảo với Hạt Đậu là đồ ăn sẽ được mang lên ngay khi nội Bone đi khỏi, dù không phải do chính tay Charlie mang. Lúc đó có thể là bất cứ thời điểm nào trong ngày, hoặc cũng có thể là chẳng lúc nào cả, nhưng Hạt Đậu chẳng bận lòng. Nó nằm cuộn tròn trên giường và nhắm mắt lại. Charlie xuống lầu.
Ngoại Maisie đang cho quần áo vô máy giặt, và mẹ của Charlie, cô Amy Bone, đang uống vội tách cà phê thứ hai của mình. Cô chúc Charlie một ngày tốt lành, hôn nhẹ lên má nó rồi quầy quả ra cửa hàng, nơi cô làm việc. Charlie nghĩ hôm nay có cân đong rau qủa thôi mà mẹ nó diện hơi quá đà. Một sợi ruy băng bằng nhung cột mái tóc nâu vàng óng của mẹ ra sau, và mẹ mặc áo khoác mới toanh, màu bắp non. Charlie tự hỏi hay là mẹ có bạn trai. Nó hy vọng là không phải như vậy, khi nghĩ tới người cha đã biến mất.
Năm phút sau khi mẹ nó đi khỏi, nội Bone xuống lầu, trong chiếc áo khoác đen, và mái tóc trắng của bà giờ đã được búi cao thành một cục dưới chiếc nón đen. Bà la Charlie phải chải đầu đi, rồi biến khỏi cùng với nụ cười kỳ quặc trên gương mặt hốc hác.
Bà nội vừa đi khỏi, Charlie liền chạy bay ra tủ lạnh và lôi ra một tô đồ ăn thừa: thịt cừu hầm từ tối qua. Ngoại Maisie cười toét, lắc lắc đầu, nhưng vẫn để Charlie múc một ít vô cái nồi cho Hạt Đậu.
“Con nên đem con chó đó đi tập thể dục trước khi nội Bone trở về đi,” bà nói với theo.
Charlie làm theo lời khuyên của ngoại. Khi Hạt Đậu nghiến ngấu xong chỗ thịt hầm, Charlie dắt chó ra sau vườn, tại đây chúng cùng chơi trò săn tìm dép lê tuyệt vời (chiếc dép mà Charlie tẩy chay vì trên quai dép có thêu tên của nó màu xanh da trời).
Hạt Đậu đang nhai nhồm nhoàm miếng dép lê cuối cùng thì ngoại Maisie bật mở một cánh cửa sổ trên lầu ra và gọi om lên:
“Coi chừng, Charlie. Mấy bà Yewbeam tới đó!”
“Ở đây nghe, Hạt Đậu,” Charlie ra lệnh. “Ráng im lặng nhe.”
Nó phóng vù lên những bậc cấp cửa sau, chạy ù vô nhà bếp, và sà tới ngồi bên bàn, cầm đại một tờ tạp chí lên. Giọng các bà cô í ới vọng vô khi các bà leo lên những bậc cấp cửa trước. Một tiếng chìa khoá vặn trong ổ, và thế là, tiếng họ đã sang sảng trong hành lang. Nội Bone cùng ba bà em đang thi nhau nói cùng một lúc.
Các bà cô bước hùng dũng vô nhà bếp trong những bộ trang phục tươi trẻ hơn. Bà Lucretia và bà Eustacia đã thay những bộ đồ đen thường lệ của mình bằng màu xám xỉ than, còn bà cô Venetia thì thay bằng đồ tím. Bà này còn đi giày cao gót màu tím, với những chùm tua vàng óng đung đưa nơi đầu dây giày. Tất cả ba bà cô đều không giấu nụ cười ác nghiệt và vẻ đe dọa ánh lên trong những cặp mắt đen.
Bà cô Lucretia nói:
“Mày đấy à, Charlie!”
Bà ta lớn tuổi nhất, sau nội Bone, và là giám thị trong trường của Charlie.
“Vâng, cháu đây,” Charlie run run.
“Vẫn tóc đó, xời,” bà cô Eustacia trề môi, ngồi xuống đối diện Charlie.
“Dạ, vẫn tóc đó,” Charlie nói. “Cháu thấy tóc bà cũng vẫn vậy.”
“Đừng có tài khôn,” bà cô Eustacia vỗ vỗ cục búi tó màu xám của mình. “Sao hôm nay mày không chải đầu?”
“Không có thời gian ạ,” Charlie đáp.
Nó chợt nhận thấy nội Bone vẫn còn đang nói chuyện với ai đó trong hành lang.
Bà cô Venetia đột nhiên ngân lên, “Lá la la...” và mở rộng cửa nhà bếp ra hết cỡ, như thể bà ta đang cung đón một nữ hoàng hay một ngôi sao màn bạc vậy. Nhưng chỉ có nội Bone xuất hiện, theo sau là một đứa con gái đẹp nhất mà Charlie từng thấy. Tóc nó màu vàng rực, mắt xanh thẳm và môi mọng như thiên thần.
“Chào, Charlie!”
Đứa con gái chìa bàn tay ra, theo kiểu cách như người ta chờ đợi một nụ hôn lên những ngón tay, từ một thằng bé qùy gối thì càng thích.
“Tôi tên là Belle.”
Charlie đỏ mặt đến nỗi không biết phải làm gì.
Đứa con gái mỉm cười và ngồi xuống cạnh nó.
“Trời đất,” con bé thốt lên. “Tạp chí đó dành cho phụ nữ.”
Charlie tá hoả nhận ra, rằng nó đang cầm tờ tạp chí của mẹ. Ngoài bìa là một cô gái mặc đồ lót màu hồng đang ôm một con mèo con. Charlie cảm thấy nóng ran cả người. Nó biết, chắc chắn mặt nó phải đỏ bừng.
“Pha cà phê cho bọn ta, Charlie,” bà cô Lucretia gắt gỏng. “Sau đó bọn ta sẽ đi ngay.”
Charlie quẳng tờ tạp chí xuống và chạy ra máy pha cà phê, trong khi nội Bone và mấy bà cô ngồi xì xà xì xồ về nó. Belle sắp sửa vô học cùng trường với Charlie, Học viện Bloor, và Charlie phải kể cho con bé nghe tất cả về ngôi trường này.
Charlie thở dài. Nó muốn đi tới nhà bạn nó chơi – nhà thằng Fidelio. Tại sao mấy bà cô cứ luôn phải phá hỏng tất cả mọi thứ như vậy? Trong nửa giờ nó phải nghe tiếng líu ríu cùng tiếng cười hinh hích bên phin cà phê và bánh ngọt. Belle xử sự không giống một đứa trẻ chút nào, Charlie nghĩ bụng. Trông con nhỏ cỡ chừng mười hai tuổi, nhưng lại có vẻ rất ngang hàng phải lứa với mấy bà cô.
Khi giọt cà phê cuối cùng đã được rót ra khỏi bình, ba bà cô nhà Yewbeam rời nhà, thổi lại những nụ hôn gió cho Belle.
“Chăm sóc cho cô bé đấy, Charlie,” bà cô Venetia nói lớn.
Charlie tự hỏi mọi người mong chờ nó sẽ làm việc đó như thế nào đây.
“Cháu muốn rửa tay, được không Grizel... è... bà Bone?” Belle giơ mấy ngón tay dính bánh ngọt nhớp nháp lên.
“Bồn rửa kia kìa,” Charlie hất hàm về phía bồn rửa chén dĩa.
“Lên lầu, cưng,” nội Bone nói, rồi quay qua Charlie cau mặt. “Nhà tắm ở bên trái, phòng thứ nhất. Có xà bông oải hương và khăn sạch ở đó.”
“Cám ơn!” Belle búng phóc ra khỏi phòng.
Charlie thở gấp.
“Rửa ở nhà bếp thì làm sao?” Nó hỏi bà nội.
“Da của Belle rất mỏng,” nội Bone nói, “không thể dùng xà bông nhà bếp được. Tao muốn mày chuẩn bị bàn trong phòng ăn... cho năm người. Tao bảo đảm bà Maisie sẽ ăn cùng chúng ta.”
“Ở trong phòng ăn hả bà?” Charlie hỏi mà không tin nổi. “Chúng ta chỉ ăn ở đó vào những dịp đặc biệt thôi mà.”
“Để đón tiếp Belle,” nội Bone nạt.
“Đón một đứa con nít?” Charlie ngạc nhiên.
“Belle không phải là một đứa con nít như những đứa con nít.”
Hèn chi, Charlie nghĩ. Nó đi bày biện bàn phòng ăn, trong khi nội Bone vọng lên lầu, la to những chỉ dẫn cho ngoại Maisie nghe.
“Hôm nay chúng tôi muốn ăn xúp nhẹ thật ngon, Maisie. Rồi đến thịt cừu nguội và xà lách. Tiếp theo là bánh nhân táo nướng giòn, món ruột của bà ấy.”
“Chúng tôi ấy à, thưa Bà Hoàng?” Ngoại Maisie hét từ đâu đó trên lầu. “Hừm. Phải đợi đã. Tôi sợ vậy... Ối! Cháu là ai thế này?”
Rõ ràng là ngoại vừa đụng phải Belle.
Charlie đóng cửa phòng ăn lại và chạy ra cửa sổ. Không thấy tăm hơi con Hạt Đậu ở trong vườn. Charlie thoáng thấy bóng một con chó nằm xuội lơ trong máng xối, bèn phóng vội ra cửa sau, nhưng ngay khi nó tính mở cửa ra thì có giọng thánh thót gọi:
“Charlee!”
Belle đang đứng ở hành lang, nhìn nó chăm chăm và Charlie dám thề rằng mắt con bé hồi nãy màu xanh da trời, bây giờ chúng lại là màu xanh lá cây.
“Bạn đi đâu đấy, Charlie?” Con bé hỏi.
“Ồ, tôi chỉ ra vườn để... để...”
“Cho tôi đi với?”
“Không. À, bởi vì tôi đã đổi ý rồi.”
“Tốt. Ra đây nói chuyện với tôi.”
Có thể thế không nhỉ? Mắt Belle giờ lại chuyển màu nâu xám. Charlie đi theo con bé vô phòng khách, tại đây Belle ngồi vắt vẻo trên trường kỷ, tay vỗ vỗ cái gối bên cạnh. Charlie ngồi mấp mé ở đầu ghế bên kia.
“Nào, kể cho tôi về Học viện Bloor đi,” Belle mỉm cười mời gọi.
Charlie hắng giọng. Nó phải bắt đầu từ đâu đây?
“Ừm, có ba khoa. Khoa nhạc, khoa kịch và khoa hội họa. Tôi học trong khoa nhạc, cho nên tôi phải mặc áo chùng màu xanh da trời.”
“Tôi sẽ vô khoa hội họa.”
“Thế thì bạn sẽ mặc áo chùng màu xanh lá cây.” Charlie nhìn đứa con gái. “Ủa, mấy bà cô của tôi chưa kể điều này cho bạn nghe à? Ý tôi là, bạn đang sống với họ, hay là sao?”
“Tôi muốn nghe chính bạn nói kìa,” Belle nói, phớt lờ câu hỏi của Charlie.
Charlie tiếp:
“Học viện Bloor là một toà nhà lớn, màu xám, nằm ở đầu kia thành phố. Nó rất xưa, xưa rồi. Có ba phòng để áo khoác, ba hội trường để tập họp, và ba căn-tin. Đi lên dãy cầu thang ở giữa hai ngọn tháp, qua một cái sân lát gạch, leo thêm mấy bậc thang nữa thì vô tiền sảnh. Ở trong tiền sảnh phải tuyệt đối im lặng, nếu không thì sẽ bị cấm túc. Học sinh khoa nhạc đi qua một cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau; cánh cửa vô khoa của bạn dưới tấm biển có cây bút chì và cây cọ vẽ.”
“Thế còn dấu hiệu của học sinh khoa kịch là gì?”
“Là hai mặt nạ, một mặt buồn một mặt vui.”
Không hiểu sao Charlie lại có cảm giác là Belle đã biết tất cả những điểu ấy rồi. Mắt con bé lại trở về xanh da trời. Trông thật bực mình.
“Còn điều này,” Charlie hỏi. “Bạn có... à... giống tôi, là một trong những hậu duệ của Vua Đỏ không? Ý tôi là, ông ấy cũng là tổ tiên của bạn à?”
Belle quay đôi mắt xanh da trời rực rỡ sang nhìn nó.
“Phải. Tôi có phép thuật, nhưng tôi không thích nói ra nó như thế nào. Tôi có nghe kể là bạn có thể nghe được tiếng nói từ trong hình chụp, thậm chí cả hình vẽ.”
“Ừm.”
Charlie không chỉ có khả năng nghe được tiếng nói, nhưng nó sẽ chẳng hó hé gì cho đứa con gái lạ này.
“Những đứa trẻ có phép thuật phải làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua,” nó nói. “Chúng ta có mười hai người. Một người tên là Emma Tolly, trong khoa hội hoạ, sẽ chỉ cho bạn biết khoa ấy ở đâu. Emma là bạn của tôi, nó cũng có phép thuật.”
“Emma? À, tôi đã nghe kể hết về nó.” Belle hơi nhích về phía Charlie trên chiếc trường kỷ. “Nè, kể cho tôi nghe về bạn đi, Charlie. Tôi tin rằng ba của bạn đã mất.”
“Không phải!” Charlie giận dữ nói. “Xe của ba tôi bị lao xuống hầm đá, nhưng họ không bao giờ tìm thấy xác của ông. Ông chỉ... mất tích thôi.”
“Thật à? Làm sao bạn biết?”
Không hề suy nghĩ, Charlie buột miệng.
“Bạn của tôi, Gabriel ấy, có tài phép kỳ lạ. Anh ấy có thể cảm nhận được sự thật từ quần áo cũ. Tôi đã đưa cho anh ấy chiếc cà vạt của ba tôi, và Gabriel nói ba tôi không chết.”
“Ố, ồ!”
Belle nở với Charlie một nụ cười ngọt ngào, ra vẻ thấu hiểu, nhưng tác dụng của nụ cười bị tiêu tan bởi tia nhìn lạnh lùng trong đôi mắt con bé - giờ đã chuyển thành màu xám đậm. Và không biết là do hiệu ứng ánh sáng hay không, mà Charlie thoáng thấy một mảng những nếp nhăn ở ngay trên vành môi đỏ mọng của Belle.
Charlie tuột khỏi trường kỷ.
“Tôi đi giúp bà ngoại làm bữa trưa đây,” nó nói.
Nó gặp ngoại Maisie ở trong nhà bếp, đang thảy các thứ rau vô chảo.
“Một đứa con nít ranh mà rình rang thế không biết,” bà lầm bầm. “Ta chưa nghe thấy cái gì trái khoáy như thế này cả.”
“Con cũng chưa nghe,” Charlie nói. “Con nhỏ lạ quá, phải không ngoại?”
“Thì rõ rành rành ra đấy, nó đẹp quá chừng!”
“Belle có nghĩa là đẹp mà,” Charlie nói, nhớ lại vốn tiếng Pháp của mình. “Nó rất đẹp.”
“Hứ!” Ngoại Maisie đáp.
Khi món xúp đã xong, Charlie giúp ngoại Maisie bưng xúp vô phòng ăn lạnh giá. Nội Bone đang ngồi sẵn ở đầu bàn, cùng với Belle ở bên phải.
“Paton đâu?” Nội Bone hạch hỏi.
“Ông cậu không xuống đâu,” Charlie nói.
“Sao không xuống?”
“Ông cậu vẫn thường không ăn chung với chúng ta mà?” Charlie nhắc bà nội.
“Bữa nay ta muốn hắn ở đây,” nội Bone dằn giọng.
“Hà hà, bà sẽ chẳng gặp ông ấy đâu,” ngoại Maisie nói. “Ông ấy đi rồi.”
“Hả?” Nội Bone cứng hàm lại. “Sao bà biết?”
Nội trợn mắt lên, trước tiên nhìn ngoại Maisie rồi lại nhìn Charlie.
Ngoại Maisie ngó Charlie.
“Ông cậu có để lại tin nhắn,” Charlie nói.
“Nhắn cái gì?” Nội Bone vặn vẹo.
“Cháu không nhớ hết được,” Charlie làu bàu.
“Đưa nó cho tao xem!” Bà ta chìa một bàn tay xương xẩu ra.
“Con xé rồi.” Charlie nói.
Đôi lông mày của nội Bone quặp xuống, cau có.
“Lẽ ra mày không nên làm thế. Tao muốn biết có chuyện gì. Tao phải biết em trai tao nói gì.”
“Ông cậu bảo ông đi thăm ông cố của con, tức là cha của bà, mặc dù bà không bao giờ đi thăm ông cố.”
Đôi mắt đen nhỏ tí của nội Bone gần như biến hẳn vô trong hốc mắt nhăn nhúm.
“Đó không phải là việc của mày! Paton vừa đi thăm cha của bọn ta hồi tuần trước rồi. Mỗi tháng nó chỉ đi một lần thôi.”
Charlie phải ráng kìm chế, đặng không buột nói ra chuyến đi thăm ông cố của nó. Do mối thù gia đình nên vẫn cần phải giữ bí mật điều đó. Nhưng Ông cậu Paton chưa bao giờ kể cho Charlie nghe về nguyên nhân gây nên nỗi thù hằn đó, hay vì sao ông lại bị cấm không được nhắc tới nó. Charlie đành phải bịa thêm một câu nói dối nữa.
“Có chuyện khẩn cấp.”
Câu này có vẻ thỏa mãn nội Bone, nhưng Belle vẫn không thôi nhìn chằm chằm vô Charlie. Mắt con bé giờ là màu xanh lá cây đậm. Bỗng một ý nghĩ rợn óc nảy ra trong đầu Charlie. Ông cậu Paton đi để ngăn không cho một người nguy hiểm tới. Nhưng hình như kẻ đó đã ở đây rồi?