NHỮNG ĐỨA CON CỦA HOÀNG HẬU
Charlie mở mắt ra. Tancred và Billy đang nhìn nó lo lắng.
“Charlie, anh nghĩ là em đã bị ngất.” Tancred nói.
“Thật à?” Charlie loạng choạng đứng dậy.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Billy nhíu mày một cách sợ hãi.
“Con ngựa,” Charlie nói, “ nó đã ở ngay đây, ngay sát mặt anh. Thật kinh khủng quá!”
“Nhưng em có bị sứt mẻ gì đâu,” Tancred cười nói, “Có lẽ em bị ám ảnh mất rồi, lại còn la hét lên như thế.”
Charlie không nhớ là mình đã hét lên. Rừng cây vẫn xào xạc xung quanh nó và tiếng sấm xa xa vẫn ì ầm vọng lại.
“Có một con bướm trên tóc anh kìa,” Billy nói. Nó nhìn chăm chú vào cái đầu tóc rối bù của Charlie, “Nó có một đôi cánh bạc.”
“Thật à?” Charlie đưa tay lên nhưng con bướm đã vỗ cánh bay vào bóng đêm.
“Thôi nào, chúng ta đi tiếp thôi” Tancred sốt ruột nói, “Chúng ta phải đi tiếp vào khu rừng để đề phòng trường hợp bà ta muốn tìm ra Bill.”
“Hoặc là gia đình Bloor?” Billy thêm vào, “Em có thể ở nhà anh lâu thật lâu không, anh Tancred?”
“bao lâu tùy thích, mẹ anh luôn chào đón em.” Tancred nói, “Thôi, nhanh lên nào. Mười phút nữa và chúng ta sẽ ở đó.”
Chúng bắt đầu đi sâu vào trong khu rừng, theo một lối mòn người ta dùng để lùa cừu đi gặm cỏ bên sườn đồi.
Tancred dẫn đầu còn Charlie thì đi tụt lại phía đằng sau. Charlie bắt đầu tự hỏi liệu Billy có thể đi đâu tiếp đây. Câu hỏi ấy cứ lơ lửng trong không khí cho tới khi một giải pháp bất ngờ bật ra, “Luôn luôn có một lâu đài bằng gương!”
“Cái gì?” Billy dừng lại.
“Em thuộc về nơi đó, Billy đó là lâu đài của chính em.”
“bà bếp nói lâu đài đó thuộc về gia đình em,” Billy nói chậm rãi, “anh có nghĩ là em có thể sống ở đó cho tới khi em lớn lên không?”
“Tại sao không? Có lẽ em sẽ sống ở đó một cách an toàn cho đến cuối đời.”
“Đi tiếp đi, hai đứa.” Tancred gào lên.
Charlie và Billy vội chạy lên để bắt kịp Tancred. Khi chúng kéo đến gần ngôi nhà sấm thì gió đang thốc lên và sấm nổ đì đùng trên bầu trời.
“ba đang vui đấy,” Tancred nói.
Nụ cười chợt đông cứng lại trên môi của Charlie. Một cái gì đó khổng lồ và vô hình phóng vút qua nó. Nó có thể cảm nhận được trọng lượng và sức mạnh kinh khủng của vật đó khi nó nện chân xuống mặt đất. Hai đứa kia cũng đã cảm nhận được. Chúng vội túm lại với nhau khi con ngựa ma bắt đầu chạy vòng vòng xung quanh tụi nó, hí vang và thở phì phò khi càng ngày càng khép chặt vòng tròn lại.
Lá cây rụng ào ào như mưa khi con vật đó chồm lên. Chúng có thể cảm nhận được những chân trước của con ngựa đang đá vào không khí. Và Charlie nghĩ, bất cứ lúc nào, một trong những cái móng ngựa đó sẽ bổ vào đầu nó và thế là tiêu đời thằng Charlie Bone!
Và rồi Billy Raven lại làm một điều gì đó hoàn toàn không lường trước được. Nó bước ra khỏi đường mòn và đi thẳng về phía con ngựa, vừa đi vừa khụt khịt nho nhỏ.
“Nó điên rồi,” Tancred chộp lấy vai Charlie.
“Suỵt!” Charlie thì thầm. Billy có thể nói chuyện được với thú, nhưng làm sao nó có thể nói chuyện với một thứ quái vật có trái tim của Borlath như con Hamaran này?
Một lần nữa, tiếng sấm lặng đi và cây cối cũng im theo. Một tiếng hí dài vang lên rồi rơi vào im lặng. Trong sự im lặng đó, Billy quì xuống và cúi đầu.
“Cái gì…?” tiếng Tancred vỡ ra trong hoảng loạn.
“Suỵt!” Charlie kéo áo Tancred.
Con bướm trắng lại xuất hiện, và đang vỗ cánh ngay bên trên Billy. Đôi cánh lấp lánh bạc của nó vỗ nhanh đến mức có vẻ như nó đang vẽ một hình dạng vào trong không khí. Cái hình dạng đó rõ nét dần và một thứ gì đó khổng lồ bắt đầu hiện ra ngay bên dưới đám mây bạc ấy. Và rồi nó xuất hiện: một con ngựa trắng với cái đầu trông rất phi thường với cái bờm dài đang chảy rũ xuống.
Charlie há hốc miệng và quay trở lại kéo Tancred lại gần nó.
“Trông nó không có gì xấu cả.” Tancred thì thầm vào tai Charlie.
“Đúng thế!” Billy nói.
“Làm sao em biết,” Tancred thắc mắc, “ nó nói với em à?”
“Vâng,” Billy nhìn đám con trai và mỉm cười, “Thật ra, nó … bà ấy là hoàng hậu!”
“Hoàng hậu?” cả Charlie và Tancred cùng kêu lên.
“Hoàng hậu Berenice.” Billy nói với chúng, “ bà ấy là vợ của vua Đỏ.”
“ý em là…” đầu óc Charlie rối loạn. Nó gắng nhớ lại những gì Manfred đã nói với nó về thí nghiệm: một tấm bia mộ được đánh dấu bằng chữ: “B”, xương của con ngựa được chôn bên dưới và một trái tim đựng trong cái hộp.
“Không phải là Borlath,” Charlie lầm bầm, “Mà là Berenice.” Một nụ cười kéo dãn khuôn mặt nó ra và nó tiến lại gần Billy. “ lão già ấy lại phạm sai lầm nữa rồi.”
Tancred, thận trọng theo sau và hỏi: “ Làm sao bà ấy đến được đây?”
“Lão Ezekiel đã hồi sinh bà ấy. Đó không phải là trái tim của Borlath mà là của hoàng hậu. Hoàng hậu Berenice.”
Bây giờ chúng đang đứng sát ngay sau lưng Billy, lúc này đang chậm rãi đứng lên.
“bà ấy đã đi theo chúng ta,” Billy nói, “ bà ấy bảo chúng ta là con cháu của bà và bà muốn bảo vệ chúng ta. Ai đó đã mang bà ấy đến đây từ một thế giới khác. Nhưng linh hồn của bà ấy yếu dần đi và nó sẽ mang bà ấy trở lại cho tới khi cây đũa phép của anh khiến bà ấy mạnh lên.”
“Đũa phép của anh?” Charlie vẫn cảm thấy mịt mù, “ anh tưởng là Manfred đã phá hủy nó trừ phi…” nó nhìn con bướm trắng, đôi cánh của nó giống như một tia sáng lập lòe nhỏ xíu ở giữa hai tai của con ngựa.
“Họ nói cái đũa phép có thể có một hình dạng khác nếu nó phải như thế.” Tancred nói.
“Ồ!” Charlie chớp mắt. Tancred biết nhiều hơn là nó tưởng.
Con ngựa trắng bắt đầu kêu lên, lần này nhẹ hơn và tuôn ra một tràng âm thanh giống như tiếng người. Billy lắng nghe một cách chăm chú và khi con ngựa ngừng lại, nó bảo hai đứa kia, “bà ấy nghe chúng ta nói về lâu đài bằng gương và điều đó khiến bà ấy khiếp sợ. Bà ấy đã thấy hòn đảo nơi nó được xây dựng và chuyện gì đã xảy ra ở đó.”
“Vậy thì bà ấy biết nó ở đâu.” Charlie thốt lên.
“Em cũng cho là vậy,” Billy nói. Rõ ràng là nó không biết gì về lịch sử khủng khiếp của tòa lâu đài.
“Charlie, hãy nói với anh là em sẽ không định làm cái chuyện mà anh nghĩ là em sắp sửa làm đi,” giọng Tancred nài nỉ.
Charlie nhe răng cười: “ đó chỉ là suy nghĩ.” Nhưng suy nghĩ ấy đang lớn dần lên.
Ba đứa trẻ đứng đó trong im lặng và ngắm nhìn con ngựa oai vệ gặm cỏ. Thật là khó mà tưởng tượng rằng nó đã từng là hoàng hậu của gần một ngàn năm về trước. Lão Ezekiel đã nhầm lẫn, nhưng những gì mà ông ta đã làm quả thật là một phép lạ. Ông ta vẫn là một pháp sư đầy quyền lực và chẳng bao lâu ông ta sẽ có thể tìm ra Billy và đưa nó trở về nhà Bloor. Trừ phi… Cái suy nghĩ trong đầu Charlie lớn dần thành một kế hoạch. Và kế hoạch đó theo một cách nào đó có thể là giải pháp duy nhất. Charlie biết rằng từ sâu trong trái tim nó việc cứu cha là chuyện nó luôn đặt lên hàng đầu nhưng sự an toàn của Billy là chuyện cấp bách tiếp theo mà nó phải làm.
“Hãy hỏi bà ấy rằng liệu bà ấy có thể đưa chúng ta đến hòn đảo ấy không?” Charlie nói với Billy.
“Charlie!” Tancred phản đối, “ em không thể!”
“Em nghĩ là chúng ta phải làm vậy thôi.” Charlie nói.
Billy rất hăm hở để thử. Nó quì gối xuống và bắt đầu nói chuyện với con ngựa. Con ngựa ngẩng cao đầu, tai nó dựng lên và mắt nó trợn tròn sợ hãi.
“bà ấy không thích ý tưởng này,” Billy thì thầm.
“Hãy nói với bà ấy về cha anh,” Charlie thúc giục, “Nói với bà ấy em cần một nơi an toàn.”
Billy lại bắt đầu, lần này nó thêm một tiếng hí dài não nùng vào ngôn ngữ của nó.
Đột nhiên con ngựa chồm lên. Với một tiếng kêu hãi hùng, nó lao về phía rừng cây. Chúng lắng nghe tiếng vó ngựa thình thịch xa dần cho đến khi mất hẳn, chỉ còn lại âm thanh của tiếng sấm và tiếng lá cây rì rào.
“Thế đấy!,” Tancred nói, “ hãy về nhà anh đi.”
“Không,” Charlie nói, “ bà ấy sẽ trở lại.”
“Em đùa hả, Charlie? Con ngựa ấy rất sợ hãi. Nó sẽ không bao giờ đưa em đến lâu đài bằng gương đâu.”
“bà ấy sẽ trở lại,” Charlie lặp lại, “bà ấy nghĩ chúng ta là con cháu của bà ấy và bà ấy sẽ bảo vệ chúng ta.”
Billy không thích tranh cãi với những cậu con trai như Tancred nhưng khi nó đưa mắt nhìn Tancred rồi lại nhìn Charlie, nó nói, giọng rụt rè:
“Em nghĩ là anh Charlie đúng.”
“Vậy thì hai đứa muốn làm gì thì làm,” Tancred nói, “Còn anh thì sẽ không đi đâu.” “Lát nữa anh sẽ mang cho hai đứa một ít thức ăn nếu hai đứa vẫn còn ở đây và anh ngờ là hai đứa sẽ ở đây.” Tancred nói với theo khi nó sải những bước dài về phía căn nhà.
“anh có nghĩ là anh Tancred đúng không?” Billy hỏi Charlie.
“Không,” Charlie ngồi xuống và dựa lưng một cách thoải mái vào một thân cây lớn.
Có tiếng sấm nổ ầm ầm và trời đột nhiên mưa như trút. Billy co người lại bên cạnh Charlie.
“anh ấy đang giận.” Billy nói.
“rồi anh ấy sẽ hết giận thôi.” Charlie bảo nó.
Nhưng cơn bão càng trở nên tệ hơn. Gió vặn mình qua các ngọn cây, mang theo những chiếc lá chết và cành khô rơi xao xác xuống mặt đất. Những thân cây tầm ma bật rễ, cây bụi và cỏ khô rít lên quanh Charlie và Billy khi chúng vội vã chạy núp dưới một cây sồi lớn, vừa chạy vừa vòng tay che lấy thân người. Sau nhiều tiếng đồng hồ đập phá, cơn bão có vẻ như dịu lại và hai đứa trẻ ngủ thiếp đi, mệt mỏi vì một buổi sáng bất thường như thế.
Charlie tỉnh giấc và thấy Tancred đang sải bước lại về phía mình trên tay bưng một cái khay lớn, “anh biết là hai đứa sẽ vẫn còn ở đây mà.” Tancred nói rồi đặt cái khay xuống. Charlie thấy có món gà quay, rau cải và nước hầm, ba tô bánh nướng nhân mận và món sữa trứng. Bữa sáng của bà Silk thật thịnh soạn và hương thơm của bữa tiệc đó đủ để một đứa con trai đang đói bụng như Charlie phải reo lên vui mừng hay như Billy phấn khởi tới nỗi ngã vật xuống cỏ.
“Vẫn còn bão,” Charlie lẩm bẩm khi nó gặm cái chân gà.
‘xin lỗi, ba và anh đã cãi nhau,” Tancred trả lời, “ ba anh nói hai đứa em đáng lẽ phải đang ngồi ăn trên bàn chứ không phải co quắp trong rừng như dân tị nạn. Anh mới nói là anh sẽ không ăn với ông ấy nếu như ông ấy cứ như thế. Ông ấy gần như nổi khùng lên nhưng mẹ anh nói con trai thì vẫn là con trai. Và bà ấy nhắc là hai người họ cũng đã từng có những buổi tiệc trong rừng như thế khi họ còn trẻ. Điều đó khiến ba anh dịu lại.”
Khi tất cả những món ăn đã được dọn sạch, Tancred hỏi Charlie và Billy đã chịu theo nó về nhà chưa, “Rõ ràng là con ngựa đó không trở lại,” Tancred nói, “Có lẽ bà ấy đã quay trở về thế giới khác rồi,”
Charlie liếm những mẩu thức ăn ngon lành còn lại trên ngón tay của nó, đáp lại: “ không, bà ấy sẽ trở lại.”
“Trời ạ, em thật là cứng đầu đó Charlie.” Tancred giậm chân nói, nhưng lần này nó có vẻ cam chịu hơn là nổi giận, “anh phải làm gì với em bây giờ?”
“Hãy gọi cho ông cậu Palton của em,” Charlie bảo nó, “Cố gắng giải thích chuyện gì đang xảy ra. Mọi thứ. Và hãy nói là em đang qua đêm tại nhà anh phòng trường hợp mẹ em lo lắng.”
“anh sẽ cố gắng hết sức,” Tancred nói, “ nhưng tối đến nếu anh quay lại mà vẫn thấy hai đứa ở đây thì anh sẽ lôi hai đứa về Ngôi Nhà Sấm bất kể hai đứa nói gì cũng mặc. Các em không thể ở lại đây cả đêm được.”
“Không đâu,” Billy nói nhỏ, “Vì Asa có thể sẽ lởn vởn quanh đây.”
Charlie đã quên mất Asa. “Chúng em sẽ không ở đây đâu.” Charlie nói một cách chắc chắn, “Bà ấy sẽ quay trở lại.”
“Được rồi, để rồi xem.” Đặt cái khay lên cái đầu tóc vàng lởm chởm của mình, Tancred đi vênh váo qua rừng cây, và Billy thì cuối cùng cũng phải cười phá lên lần đầu tiên trong ngày hôm đó.
Vài giờ đồng hồ tiếp theo, hai đứa chơi trò trinh thám, đuổi theo những chiếc lá, trèo cây và ngủ gà ngủ gật. nhưng khi những cái cây đổ bóng dài xuống mặt đất, tim Charlie bắt đầu phập phồng. Nó chợt nhận ra là mình đã hi vọng quá nhiều. Nó trông chờ vào điều gì đây? Sợi dây liên kết mỏng manh giữa những người cùng huyết thống liệu có còn bền chặt qua một ngàn năm?
Chúng ta là con cháu của vua Đỏ, Charlie nghĩ một cách tuyệt vọng, vì thế chúng ta cũng là con cháu của hoàng hậu.
Phần Billy, rõ ràng là sự thất vọng đã ngập tràn. Nó ngồi sụm xuống con đường mòn, thổn thức, “Lẽ nào bà ấy không đến?”
Charlie chỉ còn có thể nhún vai, “Và bà ấy lấy luôn cây đũa phép của anh.” Nó nói, cố gắng làm sáng tỏ sự việc, “Nếu như cây đũa phép đó là con bướm.”
Bóng tối bắt đầu sụp xuống rất nhanh. Khu rừng trở nên lạnh lẽo và ẩm ướt, và Charlie biết là mình sẽ phải quyết định. Khi nó nhìn thấy cái đầu của Tancred thấp thoáng hiện ra từ đằng xa, nó gọi, “ được rồi, Tancred. Tụi em tới đây.”
Billy nhảy lên, vui mừng vì cuối cùng đã được rời khỏi khu rừng tối. Nhưng Tancred đột nhiên dừng lại và hạ giọng nói, “Charlie – ngay sau lưng em kìa.”
Charlie chầm chậm quay lại ngỡ là mình sẽ trông thấy con thú - sói Asa trong bóng tối. Nhưng đó không phải là Asa. Đó là hoàng hậu.
“bà ấy đã trở lại,” Billy thở hổn hển.
Lớp lông của con ngựa trắng một cách đáng kinh ngạc trong bóng tối. Nó đứng đối diện với chúng, bốn chân đứng vững chãi trên mặt đất, cái đầu quí phái hơi ngẩng lên nhìn chúng với con mắt to đầy bóng tối. Charlie rất vui mừng khi thấy con bướm trắng cũng lấp lánh trong cái bờm dài của nó.
“Hãy nói lại với bà ấy,” Charlie nói khẽ với Billy, “Hãy nói với bà ấy là chúng ta cần bà ấy như thế nào.”
Billy bước lại gần con ngựa, quỳ trên một chân và bắt đầu kể hai câu chuyện với một giọng lúng búng, khụt khịt và đầy cảm xúc: một chuyện về người cha người mẹ đã mất và cuộc sống cô đơn của nó, một chuyện về người cha đã mất tích của Charlie. Khi đứa trẻ nói, Charlie nhìn khuôn mặt của con ngựa và nó chắc rằng mình đã thấy một giọt nước mắt rơi ra từ đôi mắt sáng lấp lánh màu nâu của con ngựa.
Khi Billy đưa ra lời cầu xin điên rồ ấy, con ngựa cúi thấp đầu xuống và khẽ hí lên.
Billy quay qua Charlie, “bà ấy đồng ý rồi, bà ấy nói sự sợ hãi của bà thật là vô lý khi đem ra so sánh với niềm hạnh phúc của tụi mình.”
Charlie sửng sốt, “bà ấy đã nói vậy sao?’ và khi nó đưa mắt nhìn con ngựa, nó tự hỏi làm sao nó và Billy có thể trèo được lên lưng con ngựa và một khi đã ở trên đó rồi thì làm sao mà ngồi cho vững đây?
Với sự ngạc nhiên, Tancred tiến lên phía trước. Và khi nó đã đứng ra chỗ quang đãng rồi, Charlie mới nhận ra là nó đang mang một cái yên ngựa khổng lồ và một vài sợi dây da. “Của ba anh,” Tancred nói, “Ông ấy thường hay cưỡi những cơn bão, đừng hỏi là ba anh làm thế nào nhé.”
“anh đã tin là cuối cùng bà ấy cũng sẽ đến đúng không?” Charlie nói.
“anh nghĩ là nếu bà ấy đến thì em sẽ không thể nào đi mà không có những cái thứ này đâu.” Tancred nói và nhe răng ra cười.
Con ngựa trắng đồng ý cho chúng đặt yên ngựa lên mình nó, rồi khi mọi việc xong xuôi, Tancred đỡ Charlie lên lưng ngựa rồi đến Billy, ngồi co ro phía sau Charlie và vòng tay ôm chặt lấy thắt lưng của nó.
“Đây là thật sao?” Charlie nói, thật khó có thể tin được mọi chuyện đang diễn ra, “Tạm biệt nhé, anh Tancred. Cám ơn anh nhiều.”
“Chúc may mắn,” cái giọng cộc cằn của nó không thể che đậy sự lo lắng ẩn giấu.
Con ngựa bắt đầu phi nước kiệu qua những bụi cây, nhưng khi nó bắt đầu tăng tốc, Charlie het lớn: “anh đã nói với ông cậu của em chưa?”
“Ông cậu không có nhà,” Tancred đáp, “Nhưng anh đã nói với mẹ em là em sẽ ở đây tối nay với anh.”
“anh sẽ phải nói với ông cậu của em đấy. Hứa với em là anh sẽ nói đi, Tancred!”
“anh hứa!” Tancred cũng gào lên và đứng đợi cho đến khi con ngựa khuất dạng rồi chạy về nhà.
Bóng tối phủ xuống rất nhanh và Tancred không thấy một con quái thú màu xám đang nép mình sau những bụi cây, chăm chú lắng nghe và quan sát.
Trong khoảnh khắc, Charlie nghĩ là mình đáng lẽ phải suy nghĩ kĩ hơn trước khi băng mình vào bóng tối – hay leo lên lưng một con ngựa - nhưng gặm nhấm những lỗi lầm đã qua không phải là bản chất của nó nên nó bám chặt lấy dây cương và hào hứng với cuộc hành trình nhớ đời của nó.
Khi ra khỏi cánh rừng, con ngựa vẫn tiếp tục đi theo lối mòn lên đỉnh Heights. Từ đây, thành phố bên dưới trông như những chòm sao xa xăm. Vua Đỏ và hoàng hậu vẫn thường cưỡi ngựa lên ngọn đồi này cho nên bà biết chính xác lâu đài nằm ở đâu thậm chí ngay cả khi bà ở một thế giới xa lạ với ánh đèn và tiếng ồn cùng những tòa cao ốc sáng lấp lánh. Bà vẫn có thể thấy được đường nét của những bức tường thành, bên dưới ngôi nhà màu xám đang giữ những đứa trẻ thuộc nòi giống hậu duệ của bà.
Thành phố đang gợi lên quá khứ đau thương của nó. Bà có thể cảm nhận được nó khi gõ những bước chân lên mặt đường. Nó khiến bà buồn thảm vì bà đã có rất nhiều năm sống hạnh phúc trong lâu đài Đỏ.
Trong những tháng trước khi người con thứ mười chào đời, một dịch bệnh khủng khiếp đã quét qua thành phố. Hoàng hậu đã mắc bệnh và mặc dù đã hết sức chống chọi lại căn bệnh, bà vẫn trở nên yếu tới mức ngay khi đứa con gái Amoret chào đời, bà biết rằng mình sẽ chẳng còn sống để bảo vệ cho nó và cho con cháu khác sau này của bà. Nhưng bây giờ đã có hai đứa cháu trở lại với bà, và bà có thể thấy mình đang có một cơ hội lạ lùng để giúp đỡ cho những đứa trẻ dũng cảm này.
Gần một ngàn năm qua, hoàng hậu đã phải sống trong miền đất chết – một thế giới khác- và từ đó bà có thể mang một vài quyền năng nhất định vào cuộc sống mới mà ngay cả bà và con ngựa yêu quý của bà cũng không thể có được trong những năm trước kia. Quyền năng này cho phép bà leo lên được những dốc đá dựng đứng để vượt qua những vực thẳm đáng sợ nhất, và bay khoan thai trên những con sóng sủi bọt lăn tăn.
Họ đi dưới trăng rằm, men theo bờ biển, một hành trình mà hoàng hậu biết rất rõ. Charlie nhận thức được rằng nó và Billy đã có một đêm huyền diệu. Chúng gia nhập vào một thế giới kì lạ hơn bất cứ nơi nào nó đã nhìn thấy khi đi vào các bức tranh. Không có một con đường, nhà cửa, ánh sáng hay tiếng động nào ở miền đất này: nó cổ xưa, hoang dại, và vắng lặng.
Đôi lần, Charlie ngủ gục, nhưng khi nó thức dậy nó vẫn thấy mình ngồi trên lưng ngựa với cái đầu đang gà gật buồn ngủ của Billy tựa vào lưng và con bướm trắng tỏa sáng trước mặt nó, giống như một vương miện nhỏ xíu giữa hai tai con ngựa. Cho đến lúc này, con ngựa không hề dừng lại – không một lần nào – cho tới khi nó phi nước kiệu đến một cái vịnh rộng lớn nơi mà bãi biển lấp lánh với các vỏ sò, vỏ ốc và cát trắng sáng như bạc.
Con ngựa khẽ hí lên và Billy bảo, “Chúng ta tới rồi.”
“Tới rồi?” Charlie nhìn nó ngạc nhiên. Tất cả những gì nó có thể thấy là đại dương đang tỏa sáng và bãi biển; bên dưới chúng là một vực thẳm dựng đứng chọc thẳng vào bóng đêm.
“Nó ở ngoài kia!” Billy trượt xuống lưng ngựa và chạy đến bên mép nước. “Ở đó!” nó chỉ.
“anh chẳng thấy gì cả.” Charlie trượt chân ra khỏi bàn đạp và nhảy xuống bãi biển. “Ở đâu?” nó tìm kiếm trong bóng đêm và thấy ở đằng xa, xa kia là một quầng sáng huyền bí, giống như sự phản chiếu ánh sao trên mặt nước. “anh nghĩ là anh đã thấy nó rồi,” nó nói. Và nó tự hỏi liệu có ai trong cái lâu đài xa xăm đó đang đốt nến không. Có thế là cha nó cũng nên.
Con ngựa hí lên một tiếng lớn, vẻ cấp bách.
Billy nói, “ bà ấy bảo chúng ta không được đi ra ngoài đó bây giờ. Chúng ta phải đợi tới sáng mai.”
“Và làm sao chúng ta đến được đó?” Charlie tự hỏi. Nhưng nó đã quá mệt mỏi để suy nghĩ thêm bất cứ điều gì nữa. Cơn buồn ngủ nặng trĩu mi mắt nó và đôi chân nó có vẻ như muốn xuội xuống.
Chúng ngủ trong một cái hốc ở chân vách đá, và con ngựa đứng bên cạnh chúng, che chắn cho chúng khỏi những ngọn gió đêm.
Chúng tỉnh giấc dưới bầu trời xanh và mặt biển thanh bình và lặng gió. Nhưng ngọn đảo ở đâu? Đường chân trời biến mất trong sương mù. Hai đứa con trai bắt đầu cởi giày và tất, xắn quần lên, và đi ra biển, nhìn chăm chú vào làn sương mù như đang mời gọi chúng. Sóng vỗ bập bềnh quanh đầu gối và bao tử của Charlie lại réo ầm ầm. Nó không thể không hi vọng rằng nếu chúng đến được cái lâu đài ấy, cha của nó có thể làm cho chúng một bữa ăn sáng nóng sốt ngon lành. Hoặc không, cái gì cũng được, miễn là có thể cho vào bụng!
Vào lúc này, mọi thứ chẳng có vẻ gì hứa hẹn. Màn sương mù xa xa của đêm qua có thể là bất cứ thứ gì: một con tàu đi ngang qua, một vì sao rơi, hay là một ảo ảnh? Chân của Charlie bắt đầu tê cóng. Nó lội trở vào bờ với Billy đang bì bõm phía sau nó.
Chúng ngồi trên bờ biển đầy vỏ sò, vỏ ốc, chà xát đôi chân ướt với tất của chúng. Charlie ngạc nhiên khi thấy mặt Billy đang sáng lên với niềm phấn khích. Nó nghĩ nó phải cảnh báo thằng bé về một tình huống không phải lúc nào cũng tràn trề hi vọng.”Nếu chúng ta không bao giờ tìm thấy tòa lâu đài thì sao?” Charlie nói.
Nụ cười vẫn không tắt trên môi của Billy “bao nhiêu năm rồi em không thấy biển. Thật ra, em gần như không thể nhớ được chúng như thế nào nữa.”
Điều này không xảy ra cho Charlie dù sao nó cũng phải khiến Billy nhận thức được hoàn cảnh của chúng. “Chúng ta có thể đã đến sai chỗ.” Nó liếc nhìn quanh trong khi con ngựa gặm cỏ trên vách đá, và hạ thấp giọng. “Nghĩa là đã gần một ngàn năm trôi qua rồi kể từ khi bà ấy…bà ấy còn sống ấy. Bà ấy có thể đã nhầm.”
“Em không nghĩ như vậy.” Billy lau cặp kính của nó và liếc ra biển.
Charlie nhìn lên. Sương mù từ từ kéo đến và ở kia ngay trên đại dương, một hòn đảo bắt đầu lộ ra. Một hòn đảo xanh xinh đẹp với tòa vương miện lộng lẫy – một tòa lâu đài bằng gương sáng lấp lánh.
Khi con ngựa thấy thấy hòn đảo, nó thét lên một tiếng như tiếng người. Những cái móng của nó làm tung lên những vỏ sò vỏ ốc vào không khí khi nó chạy băng qua bãi biển, nhảy lên những mỏm đá, và biến mất khỏi tầm mắt nhưng chúng vẫn nghe được giọng nói của nó gọi chúng khi nó phi nước đại ra xa đại dương.
“bà ấy bảo bà ấy không bỏ rơi chúng ta,” Billy nói “Nhưng trái tim bà đã ngăn bà không nhìn lại hòn đảo nơi những đứa con của bà đã chết. Bà ấy nói vậy là sao?”
Charlie quyết định rằng đã đến lúc phải nói cho Billy biết lịch sử thật sự về tòa lâu đài bằng gương. Nhưng liệu Billy có còn muốn tới đó một khi nó đã biết những chuyện đã xảy ra cho hoàng tử Amadis?
CHIẾC ÁO CHÙNG BỊ PHÙ PHÉP
“Cái gì! Hoàng hậu?!”
Manfred bước lui lại để tránh cái phun phì phì của ông cố. Tuy thế, vẫn có một bãi rớt xuống ngay trên đôi giày đã được đánh xi bóng láng của hắn. Asa đứng khúm núm bên cạnh, đang cố gắng nén tiếng cười khúc khích.
Việc này đang khiến cho ngày thứ hai của Manfred càng thêm tồi tệ. Ngày cuối tuần đã quá đủ khi cái thằng Billy Raven trốn thoát khỏi tòa nhà và vụ tai nạn chết người. Đó là chưa đề cập đến sự thất bại của lời nguyền và việc Florence phát điên. Tiếng thét của nó, khi chúng phải nhốt nó vào trong căn phòng lạnh lẽo, vẫn còn văng vẳng bên tai của hắn. Hi vọng là bây giờ nó đã tỉnh trí lại.
Và trên tất cả những điều xui xẻo này, Asa lại bò vào với cái tin là cuộc thí nghiệm vĩ đại đã không thành công theo hướng mà chúng nghĩ. Thay vì trả lại sự sống cho một con ngựa chiến với trái tim độc ác, hung bạo thì lại là một con ngựa trắng với trái tim của bà hoàng hậu nhân ái.
“Hãy nhìn theo hướng tích cực hơn, ông à,” Manfred nói, cẩn thận chùi sạch cái bãi gớm ghiếc trên chiếc giày bên trái bằng mũi giày bên phải. “dù sao nó cũng đã thành công.”
“Tao không muốn bà hoàng hậu!” Ezekiel hét lên. “Tao muốn Borlath.”
“Vâng, ông đã có hoàng hậu,” Manfred nói một cách dửng dưng “Hay là Charlie Bone đã có bà ấy và bây giờ nó đang cùng Billy trên đường đến lâu đài bằng gương”
“Đang trên đường đến.” Asa lặp lại, trông nó có vẻ tự mãn.
“Đó là lỗi của mày,” Ezekiel lên giọng, chỉ một ngón tay xương xẩu vào Asa. “Mày đã tìm thấy tấm bia mộ và mày đã mang cho ta trái tim.”
“Nhưng tôi đâu biết nó là của ai,” Asa khịt mũi. “Chỉ có một chữ “B” trên tấm bia. Chẳng có ai nói cho tôi biết hoàng hậu được gọi là Berenice.”
“Trời ơi!” Ezekiel gầm gừ.
Asa trở nên dũng cảm. “Tôi đã làm tốt,’ nó khăng khăng. “Tôi đã theo dấu Palton Yewbeam, và tôi đã tìm ra Crowquill. Tôi đã trải qua nhiều giờ ẩn mình trong khu vườn rác rưởi bẩn thỉu của nhà Silk, và rồi ngồi mai phục trong khu rừng ẩm ướt, bây giờ xương cốt tôi đau nhức kinh khủng. Nếu không có tôi, ông sẽ không biết Billy đã đi đâu, đúng không?”
“Được rồi!’ Ezekiel gào lên. “Đi nghỉ đi”
“Tôi không muốn nghỉ,” Asa lẩm bẩm một cách cáu kỉnh “Tôi chỉ muốn được công nhận.”
“Mày đã được công nhận,” Manfred thúc vào sườn Asa.
“Chúng đã đi quá xa rồi,” Ezekiel lại gầm lên. “Cả bọn chúng nó. Lysander, Torrson, Gabriel Silk – phải dừng chuyện này lại ngay. Gọi đứa con trai nhà Tilpin lại đây.”
“Joshua?” Manfred nhướng mày. “Nó thì có thể làm gì?”
“Mày sẽ ngạc nhiên đấy, Manfred,” ông cố hắn bảo. “Nhưng mày sẽ sớm biết thôi. Còn bây giờ thì biến đi, cả hai đứa chúng mày.”
Manfred phản đối việc bị đối xử như một đứa trẻ. Hắn xứng đáng được đối xử tốt hơn. Với nét mặt sa sầm, hắn dậm chân qua những hành lang và những dãy cầu thang dẫn đến phòng của ông cố trong khi Asa không ngừng lải nhải.
“Ông ấy muốn Tilpin làm gì cơ chứ?” Asa phàn nàn, “Nó không thể làm được gì. Nó quá nhỏ, và chẳng có kinh nghiệm gì.”
“Chúng ta biết là nó có từ tính,” Manfred đáp lại. “Tao nghĩ là nó tùy thuộc vào việc nó làm gì với khả năng ấy. Cũng có thể thú vị lắm đấy.”
“Hừm!” Asa khịt mũi.
Manfred bắt được Joshua khi nó đang đi ra khỏi căn phòng để áo khoác màu xanh lá cây. Giờ luyện tập đã kết thúc và bọn trẻ đang đi đến giờ học đầu tiên của bọn chúng.
“Ông Ezekiel muốn gặp mày,” Manfred nói, chụp lấy vai của đứa bé.
“ủa?” Joshua tặng cho Manfred một nụ cười với bộ răng thưa dị thường, và một lần nữa Manfred cảm thấy một cảm giác râm ran khó chịu khiến hắn đáp trả lại nụ cười của Joshua mặc dù chỉ vài phút trước cười là điều cuối cùng trong suy nghĩ của hắn.
“Em có biết phòng của ông Ezekiel ở đâu không?” Manfred hỏi một cách tử tế.
“Vâng, thưa thầy. Ở chái tây, ngay trên cùng.”
“Tốt lắm chú bé. Đi ngay đi. Tốt hơn là nhanh lên.”
“Vâng thưa thầy.”
Thật là hết sức hài lòng khi được gọi là “Thầy”. Manfred mang nụ cười trên mỗi bước đi của hắn ngang qua hội trường lớn, nhưng nó đột ngột tắt ngấm khi hắn trượt chân lên một miếng vỏ táo và suýt nữa thì té xuống.
“AAAAAAaaaaaaa!” Manfred hét lên.
Hội trường bây giờ vắng lặng ngoại trừ giáo sư Saltweather, người đang bước chậm rãi xuống cầu thang chính với một tờ báo dưới nách, vẻ mặt sầu muộn.
“Lại là đứa con gái Vertigo đó,” Manfred hét lên với giáo sư Saltweather. “Nó bỏ vỏ táo khắp nơi. Phải làm điều gì đó đi chứ.”
“Không phải khoa của tôi,” giáo sư Saltweather lầm bầm, “Tôi phụ trách âm nhạc” rồi thơ thẩn đi mất trông có vẻ xúc động hơn bao giờ hết.
Manfred rên lên một cách cáu kỉnh và đi về phía văn phòng của hắn.
Giáo sư Saltweather bây giờ đang đi xuống hành lang nơi có những bức chân dung. Ông rất lo lắng, ông đã quên mất mình đang định đi đâu. Tờ báo của ông có đăng một bản báo cáo chưa được làm sáng tỏ. Hai người đã biến mất khỏi một thị trấn nhỏ ở phía đông bắc. Thường thường những loại thông tin này sẽ gây cho ông một mối quan tâm lo lắng; ông có một trái tim nhân hậu và thậm chí sự không may của những con người hoàn toàn xa lạ cũng ảnh hưởng đến ông. Nhưng bản tin ngày hôm nay thì rắc rối hơn cả.
Hai người đàn ông đang được nói đến một là hiệu trưởng tên là Tantalus Wright và một người đưa thư tên là Vincent Ebony. Điều này có vẻ như chỉ là một sự trùng hợp, tất nhiên, nhưng chính thói quen kì lạ của những người đàn ông này đã khiến cho giáo sư Saltweather cảm thấy sự biến mất của bọn họ có vẻ như là một tai họa chứ không chỉ là sự ngẫu nhiên. Môn học của người hiệu trưởng là lịch sử trung cổ và ông ta bị một chứng bệnh gọi là rối loạn giấc ngủ. Nói cách khác, ông ngủ gục mà không có báo hiệu gì, ở những nơi khác thường nhất, khiến cho bọn học sinh của người đàn ông không may này có rất nhiều trò đùa vui vẻ.
Giáo sư Saltweather mở tờ báo và đọc lại mẩu tin ngắn ở trang sau. “Ông Vincent Ebony là một người đàn ông vui vẻ rất có óc hài hước. Ông ta dễ dàng cười với những câu chuyện đùa ngu ngốc nhất và thường bị bắt gặp là đang hát bài Gershwin's Bess You Is My Woman Now. Vợ của ông, Bess, đang quá đau buồn nên không thể trả lời phỏng vấn.
Cả hai người đàn ông đều biến mất vào cuối tháng tám gần thị trấn nhỏ Yorwynde. Tantalus Wright, một người say mê đi bộ để luyện tập đã không bao giờ trở về từ cuộc đi bộ hôm chủ nhật, và chiếc xe tải của Vincent Ebony đã được tìm thấy đang nằm chỏng chơ ở cạnh bìa rừng. Không có dấu vết gì của người đàn ông đưa thư. Hai người đàn ông đã bị mất tích 3 tuần rồi.
“Không thể nào! Làm sao có thể như thế đươc? Hai trong một? Hai trong một?” ông khẽ lắc đầu. ông không thể thảo luận vấn đề với hiệu trưởng, bởi vì chính ông Bloor đã khăng khăng bổ nhiệm Tantalus Ebony. Thật khó mà biết được chính xác ai là ai – hay ai là cái gì - trong cái học viện Bloor này.
“Chào buổi sáng!” bà đầu bếp quẹt qua giáo sư Saltweather trong bóng tối khu hành lang. “Ông gặp rắc rối à, giáo sư.”
“Vâng.’ Giáo sư Saltweather quay lại và trông thấy bà bếp đang vội vã lên hành lang. ông nhận ra rằng bà chính là người mà ông có thể trông cậy vào. Ông không chút nghi ngờ là bà bếp ở bên phe “bên này”, mặc dù ông cũng không hiểu mình nghĩ vậy là có ý gì.
“bà bếp!” ông gọi khẽ “Tôi có thể nói chuyện với bà một chút được không?”
Bà bếp nhìn quanh, ngạc nhiên vì cái giọng điệu bí mật của ông. “Tất nhiên rồi, giáo sư.” Bà bước về phía ông.
Giáo sư Saltweather trải trang báo đằng sau ra và đưa nó về phía bà đầu bếp, chỉ tay vào một cột báo nhỏ gần cuối. “bà nghĩ gì về cái này?”
Bà bếp lướt nhanh qua bài báo và há hốc mồm. “Tôi nghĩ gì à?” bà kêu lên một cách khiếp sợ. “Tôi nghĩ nó là một vấn đề, giáo sư Saltweather. Một vấn đề tệ hại, đặc biệt là đối với một số người trong thành phố này.”
“Như ai?” người giáo sư hỏi.
“Như Charlie Bone và ông cậu của nó,” bà bếp bảo.
“à.” Giáo sư Saltweather sờ cằm. “Charlie không có trong buổi luyện tập ngày hôm nay cả Billy Raven cũng vậy.”
“Tôi đã có tin tức về nó,” bà bếp nói, “Nhưng cái này – bà đập nhẹ vào tờ báo – điều này cực kỳ nguy hiểm. tôi phải gọi điện thoại ngay bây giờ.”
“Nhưng bà bếp này, làm sao nó có thể như vậy được?” Giáo sư Saltweather nói, trông càng bối rối hơn bao giờ hết. “Hai người trong một. Làm sao có thể xảy ra?”
“Hãy tin tôi, nó có thể làm được thứ đó,” bà bếp nói, vội vã quay trở lại hướng mà từ đó bà đến.
“Nó?” giáo sư Saltweather gọi với theo.
“Vâng, chính nó.” Bà bếp vừa đáp vừa chạy nhanh hơn nữa. “Tôi sẽ giải thích vào lúc khác. Còn bây giờ, tôi phải gọi điện đã. Cám ơn ông, giáo sư, cám ơn ông rất nhiều. Chúng tôi có mọi lý do để biết ơn về thông tin này.” Giọng bà tan loãng ra khi bà khuất dạng qua một góc tối.
Giáo sư Saltweather chợt nhớ ra là mình phải có mặt tại cuộc họp ở căn phòng Gió với ông Paltry và Tantalus Ebony. Ông đã trễ cuộc họp, nhưng khi ông bước vào, Tantalus không có ở đó.
“Ông ta không có ở trong trường,” ông Paltry vừa nói, vừa xỉa răng bằng một que diêm. “Ông thấy không? Ông ta không có trong phòng họp.”
“Không. Không, tôi không để ý.’ Giáo sư Saltweather cảm thấy mình thật là lố bịch, hoang mang và lẫn lộn lên hết cả. “Tôi mong là ông không hút thuốc,” ông nói. “Nó tạo nên một tấm gương xấu.”
“Tôi đâu có hút.” Ông Paltry đút que diêm vào túi.
“Tôi có thể ngửi thấy mùi thuốc lá, Reginald.” Giáo sư Saltweather nói.
Và ông ta phác một cử chỉ cáu kỉnh. “Chúng ta nên tiến hành cuộc họp mà không có ông Ebony.”
***
Bà bếp chạy không kịp thở vào nhà bếp và nhấc ống nghe được đặt trên tường đằng sau cánh cửa tự động. Các nhân viên nhà bếp đang tán gẫu với nhau ở phía sau và bà chẳng phải lo lắng gì về vấn đề bị nghe trộm cả. Bà nhanh chóng quay số và lắng nghe tiếng chuông điện thoại vang lên ở căn số 9 đường Filbert.
“A lô.” Một giọng nói cáu kỉnh vang lên.
Bà bếp trầm giọng xuống, giả giọng như một người đàn ông già, nói, “Tôi muốn nói chuyện với ông Palton Yewbeam.”
“Ông ta không có ở đây,” bà nội Bone nói.
“bà Jones cũng được.”bà bếp nói.
“Chuyện này là sao?” bà nội Bone hỏi gặng.
“à…ờ…là chuyện giặt đồ…”
“Cái gì? Không phải là cái áo đẹp nhất của ta chứ? Cái áo màu đen với cổ bằng nhung.” Bà hét to đến nỗi bà bếp phải đưa ống nghe ra xa.
“Không, không. Cái đang được nói đến màu đỏ và…”
“Maisie, điện thoại này! Có chuyện gì với quần áo của bà đấy.” ống nghe được đặt xuống bàn và bà bếp nghe tiếng bước chân xa dần trên nền nhà lát gạch. Một lúc sau, giọng của ngoại Maisie lo lắng vang lên, “a lô? Có chuyện gì vậy?”
“bà Maisie tôi đây, bà bếp đây. Đừng nói gì cả,” bà bếp trở lại giọng bình thường. “Tôi muốn nói chuyện với ông Palton Yewbeam nhưng có vẻ như ông ấy đã ra ngoài.”
“Không chỉ là ra ngoài đâu.” Ngoại Maisie hạ thấp giọng, “Ông ấy đã đi đâu rồi. Amy và tôi rất lo lắng. Ông ấy nhận được tin từ Charlie rồi ông ấy và…và bà biết đấy ông Crowquill cũng đi rất sớm sáng này.”
“Ôi trời ơi.” Bà bếp chẳng còn biết phải làm sao với tình huống này nữa. “Và bà có biết họ đi đâu không?”
Ngoại Maisie che miệng lại ngay trên ống nghe rồi thì thầm, “Lâu đài gương!”
“Càng ngày càng tồi tệ. Tôi sợ là có ai đó cũng đang trên đường tới đó rồi. Bà có cách nào liên lạc với ông Palton Yewbeam không?”
“Không,” ngoại Maisie nói. “Ông ấy đã để điện thoại di động ở nhà.”
Một giọng nói ngay bên cạnh ngoại Maisie vang lên. “Tại sao bà lại thì thầm với người ở tiệm giặt vậy?’
“Đâu có. Tôi bị mất giọng. Có chuyện xảy ra với cái áo len màu đỏ.” Giọng của ngoại Maisie loáng thoáng trong điện thoại nhưng đột nhiên nó trở nên rõ ràng. “Cám ơn vì đã báo tin cho tôi,” bà nói với bà bếp. “Tôi sẽ đến đó để lấy những gì còn sót lại của nó. Tạm biệt”
Bà bếp đặt ống nghe xuống. “Chẳng làm được gì cả.” bà lầm bầm.
“Làm được rất nhiều ấy chứ.” Một trong những người phụ bếp vấp vào bà với một cái khay bánh bị cháy. “Chúng ta sẽ phải nướng thêm nữa.”
“Cậu mới là người phải nướng,” bà bếp làu bàu, “Tôi đâu có làm cháy nó.”
***
Mỗi phút trôi qua, Fidelio Gunn càng trở nên lo lắng. Gabriel đã thì thầm vào tai nó điều gì đó trong phòng họp nhưng nó hầu như không thể nghe ra là cái gì. Tất cả những từ nó nghe chỉ là, “Charlie …một tòa lâu đài…và Billy Raven.” Fidelio không thể tưởng tượng được điều gì đã xảy ra cho Charlie. Nó không tin là bạn nó lại đi đâu mà không báo cho nó biết.
“Fidelio, em đang không tập trung kìa,” co Chrystal, người đang đệm đàn với nó, nói.
Fidelio hạ thấp cây đàn violon và nghiên cứu những nốt nhạc đặt trên một cái trụ đứng trước mặt. ‘xin lỗi cô.”
“Có chuyện gì vậy?’ cô Chrystal đu đưa trên cái ghế. “Em đã chơi rất tốt bản nhạc này tuần rồi mà.”
Cô Chrystal là một giáo viên còn rất trẻ. Cô có một mái tóc vàng óng và những đặc điểm xinh đẹp mời gọi bọn trẻ phải tin tưởng vào cô. Cô biết giữ những bí mật và chưa bao giờ phản bội lòng tin của chúng.
“Em đang lo lắng cho người bạn thân của em,” Fidelio thốt lên.
“Charlie Bone?”
“Vâng. Nó không đến trường và em không biết chuyện gì đã xảy ra cho nó.”
“giáo sư Saltweather có thể nghe ngóng được điều gì đó. Cô sẽ cho em biết những gì cô đã điều tra được trong giờ nghỉ trưa nhé?” cô chr mỉm cười khích lệ.
“Vâng, cám ơn cô, cô Chrystal.” Fidelio sửa lại cây đàn dưới cằm và bắt đầu chơi lại bản nhạc.
Tiết học vẫn không thành công, và ngay khi chuông vừa reo lên, nó lao ra ngoài và vọt vào phòng để áo khoác để treo áo choàng của mình. Nó vừa định đi ra ngoài thì thấy Dorcas Loom đang tiến đến cánh cửa của lớp âm nhạc. nó đang mang một cái áo choàng màu xanh da trời cuộn lại bên dưới cánh tay.
Nó cảm thấy nghi ngờ. “Của ai đó, Dorcas?” nó hỏi.
Dorcas hơi giật mình. “ồ, của thầy Pilgrim.” Nó nói, lúc này đã lấy lại bình tĩnh. “Tao tìm thấy trong thư viện nên mang nó đến phòng âm nhạc.”
“Nhưng thầy Pilgrim đã để nó lại.”
Dorcas nhún vai. “Thế thì sao?”
“Thế thì….” Fidelio ngập ngừng. Vẻ xảo quyệt của Dorcas khiến nó bực mình. Dorcas đã có tiếng tăm về những thứ quần áo phù thủy. Liệu nó có xía vào chuyện cái áo chùng màu xanh da trời?
“Không có gì.” Fidelio bước ra khu vườn.
Gabriel không thấy đâu, nhưng Fidelio phát hiện Tancred đang nói chuyện với đứa con trai mới đến Joshua Tilpin. Fidelio chạy đến chỗ chúng. “Tancred, mình có thể nói chuyện riêng với bồ được không?” nó liếc thằng Joshua.
Tancred vỗ vai Joshua và bảo, ‘thôi đi đi. Josh. Cám ơn vì đã tìm thấy cuốn sách đó nhé.”
Joshua tươi cười bảo Tancred. “bất cứ khi nào anh cần, anh Tancred. Gặp lại anh sau.” Đứa bé bỏ đi, hai cái chân nó nhỏ tới nỗi trông như chúng khó có thể mang trên mình ngay cả một con chim chứ đừng nói đến một thân người.
“Nó kì dị quá nhỉ.” Fidelio nhận xét một cách vui vẻ.
“Không có gì,” Tancred nói. “Thằng nhóc đó được đấy, rất có ích.”
Fidelio chuyển đề tài. “Mình tự hỏi không biết bồ có biết chuyện gì đã xảy ra cho Charlie?”
“ tất nhiên là mình biết. đi dạo một chút nào.”
Fidelio theo Tancred đến bức tường bao quanh lâu đài, nơi đó chúng trông thấy Emma và Olivia đang ngồi trên một đống gỗ. Olivia có vẻ như có một nguồn cung cấp táo vô tận, bởi vì nó đang ngồi ở đó, tiếp tục gọt táo với một con dao bạc mà nó mang theo khắp nơi. Emma đang cau mày nhìn nó.
“Hai đứa này đều biết chuyện gì xảy ra.” Tancred nói, rồi ngồi xuống trên đống gỗ bên dưới.
“Coi bộ mình luôn là người cuối cùng được biết mọi chuyện.” Fidelio ngồi xuống trên một đống gỗ lưng chừng.
“Đó là tại vì anh không được ban phép thuật,” Olivia nói, “Cả em cũng vậy. Và em cũng chẳng thích vậy.”
Fidelio phớt lờ con bé. “ Tancred, nói cho mình biết đi, Charlie đã đi đâu?”
Tancred hít một hơi dài. “Nó bắt đầu vào buổi sáng chủ nhật khi Billy Raven trốn khỏi nhà cha mẹ mới của nó.” Rồi nó bắt đầu kể cho Fidelio mọi chuyện.
“phù!” Fidelio liếc nhìn vào những bức tường thành màu đỏ to lớn. “Thì ra tất cả những thứ lộn xộn đó xảy ra là vì vậy đó hả? nó đánh thức mình dậy. Chó sủa, xe hơi bấm còi ầm ĩ còn cảnh sát thì báo động, lại thêm sấm chớp nữa – đó là bồ à?” nó nói với Tancred.
“Tội lỗi, tội lỗi!” Tancred giơ tay lên cười nhăn nhở. “Nhưng Sander đã cứu nguy. Nếu không có cậu ấy, mình không nghĩ là mình còn ở đây.”
Chúng có thể thấy Lysander đang cãi nhau với Asa Pilgrimke ở phía bên kia của sân chơi, và Tancred nói, “ Asa đang trả thù Sander hôm nay. Đầu tiên nó nói cà vạt của Sander không thẳng, rồi nó bảo cậu ấy quá ồn ào trong khi cậu ấy không hề nhúc nhích, và bây giờ thì nhìn nó kìa.”
“Em cảm thấy ngày hôm nay thật là tệ,” Emma nói lặng lẽ.
Fidelio hiểu ý nó nói gì. Có lẽ phải làm điều gì đó về sự vắng mặt của Charlie. “Lâu đài gương là cái gì?” nó hỏi.
“Cô của em biết về nó qua một cuốn sách,” Emma nói. “Hằng trăm năm trước, một trong những đứa con của vua Đỏ đã đốt cháy tòa lâu đài với gia đình của người anh mình vẫn còn bên trong. Nhưng một người trong số họ đã trốn thoát và đó chính là tổ tiên của Billy. Các bức tường của tòa lâu đài đã biến thành gương. Hãy tưởng tượng đi.”
“Và Charlie nghĩ là nó có thể tìm thấy cha mình ở đó.” Tancred thêm vào.
Olivia chợt nhảy lên và quăng trái táo vào bụi rậm, “Mình ước gì Charlie có ở đây,” nó nói.
Fidelio cũng cảm thấy như vậy.
Đêm đó, nhiệt độ trong phòng nhà vua lạnh lẽo một cách rõ rệt. Lạnh thấu xương tủy và Emma đã không thể ngừng run rẩy. Con bé rung mạnh đến nỗi cây bút rớt ra khỏi tay nó. Lần thứ ba nó làm rơi cây bút, cây bút lăn qua cái bàn và Emma chắc chắn là Inez và Idith đã hút nó. Hai đứa sinh đôi cứ nhìn trừng trừng vào Emma với đôi mắt xanh như những con búp bê bằng sứ, và nó cảm thấy thật là khó mà tập trung.
Joshua Tilpin đã chiếm lấy cái ghế trống của Charlie bên cạnh Emma, và thằng bé nhoài người qua bàn, nhặt lấy cây bút rồi đưa trả lại cho nó. Thằng bé cười với Emma bằng một nụ cười như kim châm cho tới khi nó bị bắt buộc phải cười lại. Nhưng cười thôi chưa đủ, thằng bé muốn nó phải bay. Emma đột nhiên tưởng tượng cảnh mình biến thành một con chim ưng to lớn, sà xuống trên các bạn của mình, tấn công vào đầu, vào tay họ …Nhưng làm sao Emma có thể làm cái chuyện khủng khiếp đó được? Nó quay đi tránh cái nhìn của Joshua. Thằng bé gây cho Emma một cảm giác sợ hãi.
Gabriel lúc này đang ngồi đối diện với Emma, thì thầm, “bạn ổn chứ, Emma?”
Emma gật đầu.
"Im lặng!” Manfred nói. “Không được thì thầm.”
Inez và idith chuyển cái nhìn lạnh lẽo sang Gabriel, con mắt vàng của Asa sắt lại và Dorcas Loom nở một nụ cười bí hiểm.
Emma liếc dọc theo dãy bàn bên cạnh nó. Gabriel, Tancred, và Lysander đang cúi xuống trên những trang sách của mình. Chúng cau mày một cách buồn rầu càng khiến Emma cảm thấy cực kỳ khó chịu.
Khi bài tập về nhà kết thúc, những đứa trẻ được ban phép thuật bắt đầu ra ào ra khỏi phòng với Manfred dẫn đầu. Emma đang đợi Gabriel, lúc này đang tốn nhiều thời gian hơn bình thường để thu xếp sách vở. Điều này cũng xảy ra đối với Tancred và Lysander. Sách rơi, những thứ khác thì không đóng lại được. Bút lăn đi và giấy phất phơ bay khỏi tay chúng.
“Có cái gì đó không ổn.” Emma nói.
“Chính thế,” Lysander rên rỉ.
“Chúng đông hơn,” Gabriel nói. “bốn chọi năm, hay sáu, nếu tính luôn Manfred.”
Cuối cùng ba đứa con trai cũng thu dọn lại được mọi thứ, và Emma đi theo chúng đến phòng ngủ tập thể. Khi chúng đang đi băng qua hành lang, Gabriel tách ra khỏi nhóm và bắt đầu chạy xuống hội trường.
“Đi đâu vậy, Gabe?” Lysander gọi. “Manfred sẽ bắt em đấy.”
“Em được phép có nửa tiếng thực hành trong tòa âm nhạc,” Gabriel nói. “Ông Ebony đã đặc biệt cho phép em vào ngày thứ sáu.” Nó lôi một tờ giấy trong túi ra. “Cho nên Manfred sẽ phải chịu thua thôi.”
Tuy đều nở nụ cười nhưng cả ba đứa đều cảm thấy một nỗi băn khoăn không thể giải thích được khi chúng trông theo Gabriel băng qua hội trường vào tòa tháp âm nhạc.
Gabriel cũng có cảm giác ngăn cấm, nhưng nó rất yêu thích thực hành trên cây đại dương cầm, và cảm giác đó hoàn toàn chính xác bởi vì nó đã cảm thấy lo lắng quá đến nỗi nó không thể đợi để lỡ mất cơ hội cho âm nhạc được.
Phải leo lên khá nhiều bậc thang để lên đến tòa tháp, và khi Gabriel tới được phòng âm nhạc, nó phải ngồi xuống ghế để điều hòa hơi thở. Khi nó nhấc nắp đàn piano lên, nó để ý thấy một cái áo choàng màu xanh da trời vắt trên ghế bên cạnh cửa sổ. Tất nhiên nó là của ông Pilgrim. Gabriel đã luôn luôn gắn kết với ông Pilgrim. Người giáo viên kì lạ này là một người chơi đàn thiên tài và mặc dù rất ít khi ông đưa ra lời bình luận nào nhưng Gabriel vẫn cảm nhận được sự nhiệt thành của ông.
Người giáo viên dạy piano đang ở đâu? Điều gì đã xảy đến cho ông ấy? Gabriel ít khi sử dụng phép thuật của mình. Nó có thể ảnh hưởng rất tệ đến Gabriel nếu nó mang vật dụng của ai đó mà đã phải chịu nhiều đau đớn, buồn khổ. Nhưng lần này sự tò mò đã thắng, nó cảm thấy bị lôi cuốn phải khoác cái áo choàng kia lên.
Ngay khi nó trùm cái mũ qua đầu, hiện thực bắt đầu mờ đi và Gabriel bị tống vào một nơi tối tăm sâu thẳm và khủng khiếp đến độ nó không thể nào thoát khỏi. Nó cố gắng giật cái mũ trùm đi nhưng hai tay nó đã trở nên vô dụng và nó bị bắt phải chịu đựng cái điều khủng khiếp ấy cho tới khi bất tỉnh trên nền nhà.
BỨC TƯỜNG LỊCH SỬ
Trên bãi biển lấp lánh ánh sáng trắng bạc, cách xa những rủi ro của bạn bè nó, Charlie thấy mình đang trong một tình thế hết sức nan giải. Billy đã trở nên giận dữ và sợ hãi khi nghe câu chuyện về hoàng tử Amadis. Với cái đầu gục xuống và bàn tay thọc sâu vào túi, đứa con trai tóc trắng dằn bước đi trên bãi biển, đá tung cát bụi và những vỏ sò. “Tại sao anh không nói cho em biết sớm?” nó gào lên ra vẻ buộc tội. “Tại sao anh không nói cho em biết về người giám hộ, quyển sách và những thứ kinh khủng đã xảy ra ngoài kia?”
“anh xin lỗi, Billy. Ông cậu của anh không nghĩ là sẽ an toàn khi cho em biết những điều này. Và rồi, khi chúng ta gặp hoàng hậu thì có vẻ như mọi thứ đã quá trễ.” Charlie vẫn tiếp tục đưa mắt trông chừng ra biển. Thủy triều đang lên rất nhanh, và chẳng mấy chốc sẽ nuốt chửng bờ biển. Chúng đang ở trong một vịnh nhỏ với những bức tường đá cheo leo ở cả hai bên và một vách đá hầu như dựng đứng đằng sau lưng. Thêm một vấn đề nữa, làm sao chúng có thể đến được hòn đảo?
Tạm thời phớt lờ Billy, Charlie bắt đầu tìm kiếm trong những tảng đá và chân vách đá một con thuyền. Tại sao ở một nơi hẻo lánh như vậy lại có một chiếc thuyền, nó cũng chẳng quan tâm. Chậm rãi, nước biển từ từ liếm vào bãi cát.
“ Charlie!” Billy chợt kêu thét lên khi nó nhận ra những đợt sóng không ngừng tràn vào bờ. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
“Thủy triều đang lên.” Charlie đang xem xét một cái hang sâu. Nó quá tối, Charlie không thể thấy được nơi nào nó kết thúc. Giá mà nó có cái đèn pin ở đây nhưng nó thậm chí chẳng mang theo một bao diêm. Một tia sáng nhỏ xíu lướt qua đầu nó và bay chấp chới về phía sau hang động. Ánh sáng rất yếu, nhưng cũng đủ để cho Charlie khám phá ra một cái gì đó trông như chiếc thuyền đang nằm nghiêng trên đỉnh một ngọn dốc đứng. Ánh sáng di chuyển xuyên qua hang động, để lộ ra những bức tường đen thẫm đang phản chiếu mặt nước.
“ Charlie! chúng ta sẽ làm gì đây?” giọng Billy run lên hoảng sợ.
“Đến đây giúp anh đi,” Charlie gọi. “anh đã tìm thấy một cái thuyền..”
Giây lát sau, Billy đã ở bên cạnh nó. “Làm sao anh tìm thấy nó?”
“Có ánh sáng,” Charlie nhìn chăm chăm vào cái hình dạng đang lơ lửng. Nó có đôi cánh khảm bạc, đó là con bướm trắng.”
“Cây đũa phép của anh,” Billy nói “Trông kìa, nó đang đậu trên một cái gì đó.”
“Một mái chèo,” Charlie hét lên. “Cả hai cái.”
Nó là một con thuyền nhỏ, nhưng chúng phải cố hết sức mới đưa được nó xuống cái nền thoai thoải của hang động và mang ra ngoài bãi biển. Ngay khi chúng tới đó, nước biển đang vỗ bập bềnh quanh cửa hang.
Cởi giày và tất ra, Charlie xắn quần lên và bảo Billy cũng làm như vậy.
“Chúng ta đi đâu đây?” Billy hỏi.
“Còn đi đâu nữa? tới hòn đảo thôi.”
“Khôôô….ng!” Billy nài nỉ “Em không muốn tới đó. Em sẽ không tới đó đâu. Sẽ có những con ma quanh quẩn ở đó sau những gì đã xảy ra. Làm ơn đừng bắt em đi mà.”
“Đừng ngốc thế,” Charlie nói “Không có nơi nào khác để đi đâu. Chúng ta sẽ chết chìm mất nếu chúng ta còn đợi ở đây thêm nữa.”
Con thuyền đã sẵn sàng ra khơi khi chúng kéo nó xuống bãi biển, và Charlie ra lệnh cho Billy nhảy vào trong thuyền trước khi quá muộn. Vẫn rên rỉ, Billy bò qua một bên trong khi Charlie giữ chặt con thuyền, rồi nó cũng nhảy vào. Ngồi đối diện với Billy, nó sửa lại mái chèo rồi bắt đầu chèo ra xa khỏi vách đá.
“anh biết chèo thuyền à?” Billy hỏi, vừa thu mình ngồi co ro trong chỗ ngồi chật hẹp của nó.
“Như một nhà vô địch ấy,” Charlie nói. “Ông cố của anh sống gần biển.”
“ồ!” Billy kêu lên vẻ ngưỡng mộ.
Thật vậy. Charlie đã trở thành một người chèo thuyền xuất sắc trong suốt những chuyến viếng thăm biển với ông cậu Palton nhưng nó chưa bao giờ phải chèo qua một chặng đường xa như chặng đường mà nó đang phải cố gắng vượt qua. Nó chèo chống lại thủy triều và biển đang trở nên hung dữ. Liên tiếp những đợt sóng khổng lồ tràn vào mạn thuyền và Billy lại hét lên kinh hoàng. Cố gắng che dấu nỗi sợ hãi của chính mình, Charlie khuyên Billy nên nhắm mắt lại cho tới khi chúng được an toàn.
“Chúng ta liệu sẽ an toàn không?” cái giọng thê thiết của Billy bắt đầu khiến Charlie cáu tiết.
“Nếu em không thể nói ra cái gì hay ho hơn thì ngồi im đi!” nó quát.
Nhận ra rằng cuộc sống của mình đang ở trong tay của Charlie, Billy thôi không nói nữa. Hai cánh tay của Charlie đau nhức tới nỗi nó những tưởng chúng sẽ rớt ra trước khi hai đứa nó đến được hòn đảo. Mỗi khi nó ngoái đầu nhìn, thì cái hình dạng xám xanh với cái vương miện bằng gương ấy trông xa vời hơn bao giờ hết. Có vẻ như nó đang ngày một xa dần và Charlie bắt đầu nghi ngờ sự tồn tại của nó. Có lẽ nó chỉ là một ảo ảnh mà chúng không bao giờ tới được – và cái trò chơi khăm độc ác này đang kéo chúng ngày càng xa khỏi đất liền và chúng đang tiến vào lòng đại dương mênh mông.
Charlie quyết định sẽ không nhìn lại cho tới khi nó đếm tới năm trăm. Nó nghỉ ngơi một lát, hít một hơi thật sâu, và rồi nó trông thấy con bướm trắng đang đậu trên tay áo của nó. Chợt nó nhớ ra rằng cây đũa phép trước kia của nó cần sự chỉ dẫn, Charlie nói. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi!”
Nó không chắc là mình đang mong chờ điều gì, nhưng không có phép màu nào xảy ra. Những đợt sóng khổng lồ vẫn tiếp tục dội vào thuyền, bắn những giọt nước tung tóe lên lưng Charlie. Nhưng còn rất lâu trước khi Charlie đếm được tới năm trăm, con thuyền va vào một tảng đá, và lần này khi Charlie ngoái nhìn thì chúng đã tới được đó.
Cẩn thận lái thuyền quanh tảng đá, Charlie nhảy ra, hướng dẫn Billy ngồi cho vững khi nó kéo thằng bé vào dòng nước cạn.
Hai mắt của Billy bây giờ mở to, và nó không thể đợi để được ra khỏi thuyền. Nó nhảy xuống, bắn nước tung tóe bên cạnh Charlie, nước đã ngập tới thắt lưng của nó.
Sự vững tâm trở lại khiến hai đứa nói cùng cười khúc khích. Chúng kéo con thuyền ra khỏi nước, lên một cái bờ đầy cỏ dại, vừa làm vừa cười vang trong khi vẫn run lên lập cập vì lạnh.
“ chúng ta sẽ hong khô quần áo trong tòa lâu đài,” Charlie nói. “anh không muốn đến đó chỉ với bộ đồ lót không thôi.”
“Không đâu nếu như nhà vua có ở đó,” nó vừa nhận xét vừa cười.
Giày của chúng đã khô. Mặt đất xung quanh chúng lổn nhổn đầy những đá và cây kế. Theo cuốn sách của Amadis, cánh đồng quanh lâu đài đã từng là nơi mùa màng được chăm sóc tốt tươi. Nhưng bây giờ chỉ có những cây cỏ dại mọc cao ngang thắt lưng, giống như đang đi qua một biển đầy gai vậy.
Mặt đất bắt đầu dốc lên dẫn đến một ngọn đồi đầy đá điểm một vài cái cây méo mó, dị dạng. Vượt lên trên những ngọn cây là những bức tường bằng gương sáng chói của tòa lâu đài, chúng cắt vào bầu trời xanh thẳm những điểm nhọn hoắt và kì dị. Nếu có một cái cửa sổ nào trong tòa nhà bí ẩn kia thì chắc chúng cũng được làm bằng gương vì không có cái gì trông giống một cái cửa sổ cả.
Hai đứa nó bắt đầu bước đi qua những cái cây đã bị gió vặt trụi lá trong khi mặt trời sưởi ấm sau lưng chúng và hong khô quần áo. Chúng bước thẳng tới, ngày một gần hơn, tòa lâu đài đang hiện ra trước mắt, ngày một cao hơn. Charlie chợt nhận ra là mình đang run rẩy một cách sợ hãi. Một cục gì đó đang dâng lên chẹn họng nó lại và khiến nó không thể thốt ra lời.
Thình lình, Billy chạy tới tòa lâu đài. Nó chạm vào những bức tường đang tỏa sáng và nói không ra hơi “Nó thật sự được làm bằng gương.”
Charlie đã tới bên cạnh nó. “Nhưng cửa ra vào đâu?”
Chúng sục sạo quanh tòa lâu đài, tìm kiếm đường vào nhưng chỉ thấy bóng dáng của mình phản chiếu trong gương.
Tòa lâu đài rộng hơn so với tưởng tượng của Charlie rất nhiều. Nó nhận ra rằng chúng chỉ mới tới được bức tường thành bên ngoài. Bên trong chắc hẳn là phải có một cái sân lớn và tòa tháp. Nó chỉ có thể thấy đỉnh của tòa tháp cao vượt lên trên những bức tường.
Chúng sắp sửa trở lại vạch xuất phát ban đầu thì Billy, khi chỉ cách Charlie vài mét, đột nhiên biến mất.
Ch nhảy bổ tới và hét lên, “Billy em đang ở đâu vậy?”
“Em ở đây!’ một giọng nói vang lại.
Ngay dưới chân nó, Charlie để ý thấy một cái lỗ đã được che phủ một cách vội vàng bằng những bụi cỏ. Nó quỳ xuống, nhìn vào trong và chỉ thấy bộ mặt xanh xao của Billy đang mỉm cười với nó.
“Không sao.” Billy nói “Có một đường hầm và em đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối con đường.”
Ch leo vào cái lỗ và trượt vào bóng tối. Thật là một điều phấn khích khi trượt trên bề mặt láng mướt và sáng lóa, nhưng hạ cánh xuống bằng mông thì cũng hơi ê ẩm.
“ối chà!” Charlie đứng dậy và đụng đầu vào trần nhà thấp. “Lại ối chà!” nó đang đứng trong một khoảng trống dưới đất nhỏ xíu vừa đủ chỗ cho hai người.
“Nhìn kìa!” Billy reo lên. “Một hành lang.”
Charlie quay qua và thấy một cái khe tối trong tảng đá. Nó cúi xuống và nhìn vào trong. Một con đường hẹp dẫn đến một tia sáng xa xa. “Đó không phải là hành lang, đó là một đường hầm.”
“Cũng vậy thôi.”
“Không giống. Chúng ta sẽ phải bò đi.”
“Vậy thì bò thôi.” Billy quỳ gối xuống và bắt đầu bò dọc theo đường hầm. Vẻ miễn cưỡng khi phải đến tòa lâu đài này đã biến mất. Bây giờ trông nó còn phấn khích hơn Charlie nữa.
Chúng đang đi được nửa đường hầm thì Charlie bắt đầu nghe thấy âm thanh của tiếng đàn piano. Tim nó đập nhanh hơn, tuy thế nó vẫn ngập ngừng khi treo ra khỏi đường hầm. Có lẽ nó e ngại những gì nó sẽ phải thấy. Khi đã ra khỏi bóng tối, nó nhận ra mình đang đứng ở một cái sân rộng lớn, được bao phủ bởi những viên đá đang tỏa sáng. Tiếng nhạc phát ra từ tòa tháp vuông ở chính giữa. Một dãy cầu thang hẹp dẫn đến vòm cửa trong tòa tháp; cả cánh cửa và những bậc thang đều được làm bằng những tấm kính màu đen thô cứng.
Những bậc cầu thang cứng như giấy nhám và rất dễ trèo. Billy đi trước và khi chúng lên đến đỉnh, nó gõ cửa một cách lịch sự.
Tiếng nhạc ngừng lại nhưng không ai xuất hiện. Charlie cẩn thận đẩy cửa vào. Hai đứa nó cùng bước vào căn phòng ấy.
Cái nhìn đầu tiên của Charlie đối với người đàn ông ở bên trong đưa lại một cảm nhận dễ vỡ, bởi vì căn phòng được xây bởi những tấm gương mờ hình chữ nhật và người chủ nhân đang đứng đàng sau Charlie. Rất chậm, Charlie quay lại. Nó thấy một người đàn ông tầm thước với mái tóc đen và đôi mắt to màu xanh lá cây. Ông có một chiếc mũi khoằm dài và một cái miệng rộng. Nước da tái như thể ông đã ở trong ngôi nhà này lâu lắm rồi. Có điều gì đó quen thuộc về người đàn ông này khiến cho Charlie khấp khởi hy vọng.
Người lạ cười thăm dò “Các cháu mang cho tôi cái gì?” ông hỏi.
“Không có gì ạ” Charlie bối rối “Ông đang mong chờ điều gì à?”
“Đôi khi họ gửi đồ ăn.” Người đàn ông ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và thở dài. “Một cậu con trai hay mang thức ăn đến từ đất liền.”
Biết rằng cha mình đã mất trí nhớ, Charlie hỏi, “Họ gọi ông là gì?”
“Tôi được gọi là Albert Tuccini nhưng mà tất nhiên đó không phải là tên thật của tôi.”
“Ông … ông biết tên thật của mình sao?”
Albert Tuccini lắc đầu. “Có lẽ là không.”
Ch bước lại gần người đàn ông. “Cháu nghĩ là cháu biết ông.”
Người đàn ông gật đầu. “rất nhiều người biết tôi. Tôi là một người chơi đàn piano nổi tiếng.”
“Vậy tại sao ông lại ở đây?” Billy hỏi.
“À,” Albert Tuccini đặt một ngón tay lên môi. “Tôi ở ngoài sẽ không an toàn. Tôi không thuộc về nơi đây, cháu thấy đầy. Tôi đã mất tổ quốc, gia đình và tên thật của tôi nữa.”
Charlie nghĩ nó nhận ra cách phát âm mang hơi hướng nước ngoài trong lời nói của Albert nhưng nó tự nhủ rằng điều này có thể được giải thích vì người đàn ông này không biết mình là ai. Nó tiến tới Albert Tuccini và chạm vào vai ông. “Cháu nghĩ tên thật của ông là Lyell Bone. Có lẽ cháu có thể giúp ông nhớ lại.”
“Cái gì?” một tia hy vọng lóe lên trong đôi mắt xanh buồn bã.
“Cháu nghĩ tên của ông là Lyell Bone”
“Lyell Bone,” người đàn ông lặp lại. “Một cái tên hay đấy chứ.”
“Và cháu là Charlie, con trai của ông,” Charlie nói trong hơi thở dồn dập.
Billy kéo lại cổ áo. “anh không biết điều đó có phải hay không.” Nó nói nhỏ.
“anh biết” Charlie nói. “Và anh chắc chắn điều đó.”
Người đàn ông trông hết sức bối rối. “Con trai?” ông nói một cách nghi ngờ. “Không thể nào.”
“Có thể chứ.” Charlie hét lên, hoàn toàn bị thuyết phục rằng đây thật sự là cha nó. “Và bây giờ con đã tìm thấy ba, mọi chuyện rồi sẽ ổn. Con sẽ đưa ba về nhà, ba sẽ gặp lại ông cậu Palton. Ba nhớ ông ấy chứ? Palton Yewbeam.”
“Palton?” người đàn ông lặp lại. “Tôi nhớ Yewbeam. Đó là bà cô Yewbeam đã mang tôi đến đây. Bà cô Eustacia Yewbeam. Đôi khi bà ấy cũng mang thức ăn cho tôi nữa.”
“Tất nhiên rồi!” Charlie quá phấn khởi tới nỗi nó khó mà có thể giữ yên lặng. “Có tới ba bà cô Yewbeam. Họ là những bà cô của con, và con biết là chính họ đã làm cho ba biến mất.”
Người đàn ông nói, “ừm, ừm.” rồi lắc đầu. “gọi tôi là Albert được không? Tôi đã quen với cái tên đó rồi.”
“Chỉ bây giờ thôi đấy.” Charlie đồng ý.
Billy đột nhiên lên tiếng, “Em không thể sống ở đây được! nhà Yewbeam sẽ đến đây.”
Charlie nhận ra hoàn cảnh của Billy tệ hơn bao giờ hết. “Chúng ta sẽ tìm một nơi khác,” nó bảo Billy “Ngay khi chúng ta có thể.”
Nhưng khi chúng đang nói chuyện, thời tiết bỗng nhiên thay đổi một cách đột ngột. Gió từ hướng bắc bắt đầu rít lên xung quanh lâu đài, những trận mưa đá đập lên những bức tường bằng gương. Một cuộc hành trình qua biển lúc này thật là nguy hiểm. Họ sẽ phải đợi cho tới khi cơn bão đi qua.
Albert đề nghị nấu cho bọn trẻ một bữa ăn. Nhấc cái nắp của một cái rương lớn làm bằng gỗ sồi, ông lấy ra vài cái hộp và trút vào một cái chảo. Một cái bếp nhỏ ở trong góc phòng và Albert bắt đầu nấu ăn. Sau đó Billy và Charlie được trao cho hai cái tô đậu rang và hai cái thìa.
“Tôi sẽ ăn bằng chảo,” người chủ nhà vui vẻ chọc cái thìa làm bằng gỗ vào phần đậu còn lại. “Thức ăn trong hộp có thể rất ngon mà, phải không?”
“Vâng” Charlie nói, tự hỏi là cha nó có phải toàn ăn đậu để sống không.
Hai đứa con trai ngồi trên một cái chiếu rơm bao phủ một phần nền nhà bằng gương thô cứng. Tuccini ngồi trên một cái ghế duy nhất. Trong khi ông dùng bữa, Charlie nhìn quanh căn phòng bằng gương. Nó được trang bị đồ đạc hết sức sơ sài. Sát tường là một tấm nệm với đống chăn trên đó. Một cái túi đã cũ nằm bên cạnh cái nệm, và Charlie cho là nó chứa toàn bộ gia tài của người chủ, bởi vì ngoài những thứ đó ra chẳng còn gì cả, trừ một vài cuốn sách, vài cái đĩa và thìa, một đống tạp chí trên cái bàn tròn. Bên dưới cái bàn là một cái tô lớn, một cái bình và một vài cái hũ nhỏ. Một cái máy hát đã được đặt trên nền nhà ngay bên trong cánh cửa.
Ở phía bên cánh cửa, một dãy cầu thang dẫn lên phía trên tòa tháp. Billy đã ngó chăm chăm những bậc thang này khi nó đang ăn; thật ra, nó không thể rời mắt khỏi chúng. “Chúng dẫn đi đâu vậy?” nó hỏi, nhìn về phía các bậc thang.
“Chúng dẫn đến bức tường lịch sử,” Albert nói, “Tôi đã đến đó nhưng không tìm hiểu được gì thêm. Đôi khi, tôi nghe tiếng người ta ca hát, cười nói những lời mà tôi không hiểu và những âm thanh mà tôi không muốn kể.”
“Hồn ma à?” Charlie hỏi.
“Có lẽ thể.” Albert nói, vẻ lảng tránh.
“Cháu muốn đến đó,” Billy nói.
Nhưng khi họ vừa ăn xong, những đôi mắt bắt đầu nhắm lại và chẳng mấy chốc chúng thiếp đi.
Khi Charlie thức dậy, căn phòng bằng gương đang phản chiếu lấp lánh ánh nến. Nó đang nằm trong chăn với Billy bên cạnh, vẫn còn đang ngủ.
“Cháu đã rất mệt, phải không,” Albert nói, nhìn xuống Charlie. “Chắc là cháu đã đi một quãng đường rất dài.”
“Vâng, rất dài.” Charlie nói. “Con sẽ kể cho ba nghe nếu ba muốn.”
“Tôi thích lắm. Thật là tốt khi được nghe tiếng người.” Albert đến ngồi bên mép chiếu.
Trước khi Charlie mô tả về chuyến hành trình của nó với hoàng hậu Berenice, nó cảm thấy nên kể sơ về những đứa con của vua Đỏ và học viện Bloor. Albert hơi quay đầu đi khi Charlie đề cập đến nhà Bloor, như thể cái tên ấy làm ông rúng động. Nhưng sau đó, ông chăm chú nghe Charlie kể chuyện và nhìn nó với một sự tập trung rất ân cần.
“Con nghĩ là nó hơi khó tin một chút,” Charlie nói khi nó kể đến chỗ con bướm trắng đã phát hiện ra cái thuyền.
“Chẳng có gì là khó tin với một người đã không thể nhớ về cuộc sống của chính mình,” Albert nói với một nu cười buồn bã. “Nhìn kìa, đó là con bướm trắng của cháu.”
Charlie nhìn thấy con bướm đang đậu gần mái tóc trắng của Billy.
“Nó ở đó khi các cháu đang ngủ,’ Albert nói với Charlie, “Như một người bảo vệ vậy.”
Billy thức dậy và tự động đi tìm cặp mắt kín. Nó gần như không thấy gì nếu không có kính và nó luôn cảm thấy mất bình tĩnh nếu cặp kính chưa được đặt chắc chắn lên mũi nó.
“Em nghĩ là em đang mơ,” Billy ngồi dậy “Nhưng tất cả đều là sự thật phải không?”
“Đúng thế. Chúng ta đang ở lâu đài gương,” Charlie nói.
Billy lập tức tìm kiếm cầu thang cạnh cửa. “Và em đã đi lên đó phải không? Thật sự em có cảm giác là em phải đi tới đó.” Nó ném cái chăn qua một bên và đứng dậy, vẫn nhìn chằm chằm vào cái cầu thang. Chúng hút lấy nó như một thỏi nam châm.
“anh sẽ đi với em,” Charlie nói.
Albert trao cho Billy một cây nến vốn được cắm rất nhiều trên những cái hộp rỗng quanh phòng. “Cháu sẽ cần cái này đấy,” ông bảo. “Trên đó tối lắm.”
“Tổ tiên của cháu sống ở đây.” Billy nói một cách tự hào, “Và anh Charlie nghĩ là cháu có thể tìm thấy họ. Ngày hôm qua cháu đã rất sợ hãi nhưng bây giờ thì không như vậy nữa đâu.” Nói rồi, nó dậm bước lên cầu thang và bắt đầu leo lên. Charlie chậm rãi bước theo sau.
Những bậc thang được sắp xếp gập ghềnh và thô nhám dưới chân. Charlie thấy chúng rất khó trèo. Cầu thang xoắn lên phía trên và càng ngày càng trở nên dốc hơn và hẹp hơn. Billy đã đi khỏi tầm mắt nhưng Charlie có thể nghe tiếng bước chân của nó đang gấp gáp tiến lên trên tòa tháp. Ánh sáng của cây đèn cầy trở nên yếu ớt khi Billy dẫn đầu. Chẳng mấy chốc, Charlie chỉ có thể nghe tiếng bước chân của Billy dẫn đường cho nó. “Billy anh không thấy gì hết!”. nó hét lên.
Billy đã đi đến bức tường lịch sử. Nó không nghe tiếng Charlie hét bên dưới, và Charlie phải dò dẫm tìm đường lên các bậc thang và vào căn phòng kì lạ phía trên cùng. Ở đây, những ô cửa kính tạo nên bức tường đang phản chiếu cái đầu tóc trắng và cặp kính cận lấp lánh của Billy, và ánh sáng từ cây đèn cầy đang nhảy múa khắp mọi nơi. Khi Charlie đứng bên cạnh đứa thằng bé, hình ảnh phản chiếu của nó trông mờ ảo, mơ hồ.
“Họ đang đến đấy,” Billy thì thầm. Nó đứng đó, mê hoặc, nhìn trừng trừng vào bức tường kính.
Charlie bắt đầu nhận ra những hình dạng không rõ ràng đang trôi dật dờ đằng sau hình ảnh phản chiếu của Billy. “Em thấy gì?” nó hỏi khẽ.
“Mọi người,” Billy thì thào, “Cả một gia đình. Một người đàn ông đang mặc bộ áo giáp nhưng không có mũ sắt. và một phụ nữ tóc vàng đang cười. Họ đang ngồi quanh một chiếc bàn và đang ăn uống – có lẽ họ đang có yến tiệc. Họ đói nhưng rất vui vẻ. Một trong số họ trông rất giống em. Anh có nghe không, Charlie?”
“Không. Chẳng nghe thấy gì cả.”
“Em có thể nghe thấy những cái tên. Và có ai đó đang hát.”
“Tên gì?” Charlie hỏi.
“Người phụ nữ tóc vàng gọi người đàn ông là Amadis – và bà ấy gọi đứa con trai trông giống em là Owain. Và rồi Amadis nói, “Hát lại đi, Amoret. Anh thích bài hát đó.”
“Amoret!” Charlie kêu lên.
“Suỵt! anh làm họ sợ biến đi mất.”
“Amoret?” Charlie nói, hạ thấp giọng xuống. “Em có chắc là ông ta nói là Amoret không?”
“Vâng,” Billy thì thầm. “Người phụ nữ đang hát là Amoret. Bà ấy có mái tóc đen và rất xinh đẹp.”
Charlie nhìn trừng trừng vào bức tường lịch sử, trừng trừng, mong muốn gặp một người nào đó, một người nào đó mà có thể kéo nó vào. Cuối cùng, nó bắt đầu nghe thấy tiếng hát xa xa và nó thấy mình đang trôi bồng bềnh tới một khuôn mặt xanh xao được đóng khung bởi mái tóc đen quăn.
“Charlie!” Billy hét lên “Không phải anh đang định đi vào trong đó chứ? Đừng! Đừng! Anh sẽ không bao giờ ra ngoài được đâu.”