SỰ THẬT CHOÁNG VÁNG
m thanh duy nhất trong phòng phát ra từ tiếng những bước chân bắt đầu từ gần cửa ra vào. Đanh và nhẹ, những âm thanh từ một phụ nữ mang giày cao gót chót vót.
Charlie sửng sốt, nó bắt đầu cảm thấy buồn nôn. Mặt Billy, trong bóng tối, trông xám ngoét lại sợ hãi. Đến điều này mà xảy ra được thì bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra.
Tiếng những bước chân tiến tới cái bục, và tiến sĩ Bloor mãi cuối cùng cũng mở miệng lại được, “Cô Chrystal, làm ơn bước lên đây và nói cho chúng tôi tất cả những gì đã xảy ra nào.”
“Cám ơn,” bốn tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới cái bàn trên cao.
“Ai đó cho cô ta ngồi với nào,” lão Ezekiel nói.
“Tôi thích đứng hơn,” cô Chrystal đáp.
“Cô sẽ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của... của cô chứ, cô thân mến,” tiến sĩ Bloor hỏi, “và cô đã giải phóng ngài bá tước như thế nào? Chúng tôi tất cả đều đang nôn nóng muốn biết chi tiết đây.”
Giật tỉnh khỏi cơn chết lặng, khán thính giả thét lên đồng ý.
“Đương nhiên rồi,” giọng cô Chrystal vẫn nhẹ nhàng và du dương, nhưng đã mất đi tất cả sự dịu ngọt. Giờ đây chỉ còn cái lạnh tanh đằng sau mỗi lời cô ta nói – một giọng nói vừa dễ vỡ vừa bạo liệt khiến Charlie rùng mình.
“Cách đây mười bốn năm, tôi là một cô gái hạnh phúc nhất trần đời. Tôi đang yêu và tôi nghĩ người đàn ông mình yêu cũng đáp lại những cảm xúc của mình. Nhưng anh ta đã chối bỏ tôi mà cưới một người khác. Trái tim tôi tan vỡ. Tôi tưởng mình sẽ chết chắc. Cuối cùng, tôi lấy một người tên là Matthew Tilpin. Chúng tôi có một đứa con trai, Joshua.”
Đến đây Charlie suýt bật kêu. Billy cẩn thận ụp một bàn tay vào cái miệng há ra của Charlie.
“Không lâu sau khi Joshua ra đời,” cô Chrystal tiếp, “chồng tôi đã bỏ rơi mẹ con tôi. Anh ta bảo anh ta sợ đứa con của chúng tôi. Mọi thứ đều dính hút vào Joshua, quý vị biết đấy. Đất, bụi, lông chim, côn trùng, mẩu giấy, và hễ ta chạm vào đôi bàn tay nhỏ xíu của thằng bé thì chúng sẽ níu chặt lấy. Thật khó mà rút ra được. Matthew bảo rằng nếu anh ta mà ở lại thì một ngày nào đó đứa bé sẽ bắt anh ta phải làm điều gì đó rất khủng khiếp. Anh ta đã cảm thấy Joshua đang bẻ cong ý chí của mình.”
“Mẹ tôi vẫn luôn bảo rằng chúng tôi là hậu duệ của Vua Đỏ,” cô Chrystal tiếp tục, “và tôi cũng đã thực hiện thành công một số phép thuật ngay từ hồi còn nhỏ. Nhưng phép phiếc chả được tích sự gì trong những việc dính tới trái tim, vì vậy tôi thà vứt bỏ nó đi còn hơn. Và rồi, vào Giáng sinh năm ngoái, ông chú của tôi chết, để lại cho tôi một rương đầy ụ giấy tờ. Một số đã được cất giữ trong gia đình tôi suốt chín trăm năm. Rất nhiều cái không thể nào đọc được, nhưng rồi tôi đã khám phá rằng chúng tôi là con cháu của chính Lilith, con gái cả của Vua Đỏ, và chồng bà, bá tước Harken Badlock.
Tất cả một trăm vị hiệu trưởng nhất tề thốt lên kinh ngạc, nhưng cô Chrystal vẫn phăm phăm, hầu như không thở lấy hơi. “Trong số những giấy tờ đó có một tấm bản đồ, trong tình trạng còn nguyên vẹn, nhưng rất, rất nhỏ. Quý vị không thể tin nổi nó... à... nó nhỏ thế nào đâu. Chắc hẳn nó đã bị người ta bỏ qua, không được chú ý đến suốt nhiều thế hệ. Tôi chịu, không biết là ai đã vẽ nó – có lẽ chính bá tước cũng nên. Tôi phải hỏi ngài mới được, “cô ta bật cười nhẹ. “Bản đồ chỉ cho tôi biết nơi tôi có thể tìm thấy gương thần của Amoret. Đó là tấm gương có thể đưa ngài bá tước trở lại thế giới này. Tôi chỉ việc đem nó tới đứng trước bức chân dung Vua Đỏ, để cho ánh sáng phản chiếu xuống cái bóng đằng sau ngài và,” cô ta dừng lại, “và tôi đã làm đúng như thế – và nó đã linh nghiệm. Ngài bá tước đã trở lại!” Khi nói những lời cuối cùng đó, giọng cô Chrystal vỡ vụn ra bởi niềm phấn khích ngây ngất.
“Cho một ly nước,” tiến sĩ Bloor phán.
“Ghế đây,” ai đó đẩy một cái ghế qua sàn nhà.
Tiếng chuyện trò rôm rả chợt bùng lên trong đám khách khứa. Nếu Charlie và Billy muốn chuyển đổi vị trí của chúng thì hẳn lúc này đúng là thời điểm để xê dịch, nhưng Charlie điếng người đến nỗi chẳng cựa quậy gì được.
Cô Chrystal vẫn chưa xong bài nói với thính giả của mình. “Tôi còn một điều nữa cần nói,” cô ta thông báo. “Con trai tôi, Joshua, rất hùng mạnh. Giống như Charlie Bone, nó mang dòng máu của hai thầy pháp chạy trong huyết quản. Nếu cần khống chế Charlie thì chính Joshua sẽ có thể làm được điều đó. Còn về vấn đề cha của Charlie, ngài bá tước cam đoan rằng hắn sẽ không bao giờ trở lại được nữa.” Cô ta buông ra một tiếng cười khô khốc, “Vâng, đúng vậy, bá tước đảm bảo Lyell Bone sẽ biệt tăm, biệt tích, mất dạng mãi mãi.”
Sau một quãng im lặng ngắn, một giọng phía trên đầu Charlie hỏi, “Thưa cô Chrystal, tôi muốn hỏi cô một câu.” Charlie có cảm giác như giọng nói này là của người đàn ông đội khăn xếp. “Làm ơn cho tôi biết tên của người đàn ông đã từ chối cô?”
“Ông nghĩ đó là ai chứ?” Cô ta lạnh lùng. “Đó là Lyell Bone.”
Charlie giật nảy mình đến nỗi Billy phải túm lấy cánh tay nó.
“Tụi mình phải ra khỏi đây mau,” Charlie thì thào.
Giờ thì sảnh ăn tối huyên náo như ong vỡ tổ, cú bò chối chết ra đến cuối bàn của hai thằng con trai không bị phát giác. Những chiếc ghế bắt đầu rít lên. Người ta đứng dậy và di chuyển. Những chiếc xe đẩy lại tiến vào và hai đứa nó có thể nghe thấy tiếng tách sứ kêu lạch cạch.
“Còn cà phê nữa, tất cả mọi người!” Tiến sĩ Bloor hét lớn. “Xin mời uống cà phê và bánh tráng miệng Thổ Nhĩ Kỳ. Làm ơn ngồi xuống ghế của quý vị thêm vài phút nữa.”
“Làm sao tụi mình ra khỏi đây bây giờ?” Billy lầm thầm.
Charlie nhún vai vô vọng. Những cửa ra vào cách xa các dãy bàn ít nhất phải hai mét. Cho dù chúng có bò thì thể nào cũng có người sẽ tình cờ thấy chúng. Nó nảy ra một ý. Hy vọng những người phục vụ sẽ đẩy xe đến đằng cuối bàn; nó chờ, ngay ngoài tầm duỗi của cặp chân cuối cùng.
Hai chiếc xe đẩy lăn đến gần, mỗi chiếc kè một bên bàn. Vận hết sức có thể, Charlie “diễn kịch câm” điệu bộ bò lên tầng thấp nhất của xe đẩy. Billy hiểu ra và gật đầu.
Cuối cùng hai người phục vụ đã ra đến đầu mút cái bàn. Nhìn lần cuối vào gương mặt lo âu của Billy, Charlie cười động viên thằng bé rồi bò xuống dưới tấm khăn màu đỏ phủ trùm một trong những chiếc xe đẩy. Kệ thấp lúc này trống trơn và anh bồi đang mải lo phục vụ cà phê. Nằm rúc còng queo trên kệ, Charlie nhận thấy tấm khăn trải đỏ không trùm kín được mình. Thầm khấn trong lòng, nó vẫn nằm im re trong khi chiếc xe đẩy lăn chậm rãi đến đầu đằng kia phòng dạ tiệc. Ngay khi họ an toàn đi qua cánh cửa xoay, người phục vụ dừng lại và bắt đầu cằn nhằn, “Cái khỉ...?” Anh ta nhìn xuống tấm vải và thấy Charlie.
“Í ồ, một thằng nhóc!” Anh bồi ồ lên, đó là một thanh niên trẻ có gương mặt hơi nhọn. “Nhóc làm gì ở đây vậy?”
“Em bị cấm túc, và em chán quá,” Charlie nói, hy vọng anh này là người biết thông cảm.
Anh thanh niên cười to. “(Anh thấy nhóc không chán mới lạ). Nào, cảm phiền ra khỏi xe đẩy của anh đi? Lưng anh đây rệu rã vì bao thứ ác mộng rồi.”
“Anh làm ơn đưa em đi xa xa một chút đi,” Charlie năn nỉ, “chỉ qua khỏi khu nhà bếp thôi mà.”
“Giỡn hả nhóc. Anh mày đã làm việc suốt từ sáu giờ sáng đến giờ.”
“Thế thì qua khỏi nhà bếp xanh lá cây cũng được ạ,” Charlie nài thêm. “Em không muốn bị bà Weedon bắt.”
“A, hiểu rồi. Thôi được, bám chắc vào.”
Charlie nghiến chặt răng khi họ đi ngang qua lãnh địa của mụ Weedon. Nó có thể thấy phần dưới thân hình to bạnh của mụ, đi lạch phạch giữa một đám mây hơi nước bên những bồn rửa rộng mênh mông. Và rồi họ tới dãy tiếp theo của khu nhà bếp, đằng sau căn-tin khoa kịch. Người phục vụ lái Charlie qua căn-tin và vào hành lang.
“Nào, biến đi,” anh bồi đuổi, “kẻo không anh cũng gặp rầy rà chung với nhóc đấy.”
Charlie lăn ra khỏi chiếc xe đẩy, rối rít cảm ơn anh bồi. “Em có một người bạn đang...” nó vừa mở miệng thì anh bồi đã đi mất rồi.
Hy vọng Billy cũng rơi vào tay một người biết cảm thông. Charlie vọt lẹ lên những bậc thang phía sau và đi dọc theo các hành lang tối mịt mù cho tới khi về đến phòng ngủ chung của mình.
Billy không xuất hiện. Charlie chờ, chờ mãi. Chuông nhà thờ lớn điểm mười hồi. Đã nghe thấy tiếng những vị khách ra về từ mảnh sân gạch. Có gì bất trắc xảy ra với Billy chăng? Charlie nhần nhần móng tay lo âu. Nếu Billy mà bị bắt thì liệu nó có khai với gia đình Bloor rằng Charlie cũng đã cùng đi với nó không?
Khi đồng hồ đánh mười một tiếng, Charlie vun quần áo của mình thành một đống hình người và đẩy xuống dưới tấm vải trải giường của Billy. Vài phút sau, bà giám thị ngó vào. Charlie nhắm mắt lại và nằm im thít. Bà giám thị bỏ đi.
Charlie không sao ngủ được. Nó đi ra cửa sổ và nhìn xuống mảnh sân gạch. Không đèn đóm gì ở mấy khung cửa sổ chái phía tây. Toàn bộ toà nhà chìm trong bóng tối. Charlie vừa quyết định đi tìm Billy thì một thân hình nhỏ thó mò vô.
“Billy, nãy giờ em ở đâu vậy?” Charlie la lên.
“Em bị nhốt trong một buồng kho,” Billy mệt mỏi nói.
“Sao lại vậy?”
“Anh bồi đẩy chiếc xe của em vào một chỗ giống như cái tủ rồi khoá cửa lại.” Khi Billy đi qua căn phòng tối thui, mặt nó thình lình được chiếu sáng từ dưới lên bởi một đóm sáng run rẩy, nhỏ xíu. Charlie thấy thằng bé đang cầm một cây nến mỏng manh, rõ ràng là tự phát sáng.
“Rồi sao nữa? Chuyện thế nào hả?” Charlie hỏi.
Lần tới giường mình rồi, Billy thổi phù ngọn nến và chui xuống chăn, đồng thời ném đụn quần áo ra ngoài. “Lừa khéo ghê,” nó chép miệng kèm theo một cái ngáp.
“Billy, anh đang tỉnh như sáo đây này,” Charlie bảo. “Trước khi em ngủ, làm ơn kể cho anh nghe coi em đã ra khỏi buồng chứa thế nào, mà làm sao cây nến đó tự sáng được thế?”
“Ừm,” Billy lại ngáp, “em chờ cho đến khi yên thật yên, sau đó tìm thấy một mẩu giấy, em liền đẩy nó xuống dưới cửa. Em thọc một cây viết chì vào lỗ khoá và bẩy cái cần khoá lên, sau đó em kéo nó về phía em. Trời tối thui, em sợ, sợ quá chừng. Em lúc nào cũng mang theo mấy cây nến này bên mình, chú Crowquill giám hộ của em cho em trước khi chú ấy chết. Mãi đến đêm nay em mới biết chúng có công dụng gì. Em lấy một cây ra và... và...” Cái ngáp tiếp theo của Billy nghe gần như một tiếng rên.
“Và sao,” Charlie giục.
“Em cố tìm diêm, nhưng trời tối quá tối, và em sợ quá sợ, và... và...”
“Và sao?” Charlie điên tiết thét lên, giờ thì nó chẳng thèm quan tâm bà giám thị có nghe thấy mình hay không.
“Và... và em khóc,” Billy thú nhận, “và em nói ‘Ôi ước gì mình có thể thấy đường’ và thế là cây nến tự nhiên... sáng lên.”
“Chao!” Charlie cuối cùng cũng nằm xuống trở lại. “Tuyệt thật. Em giữ mớ nến ấy biết bao nhiêu lâu rồi mà không hề biết chúng làm được gì. Tội nghiệp chú Christopher Crowquill.”
“Bây giờ em có tới năm cây nến, bởi vì Ông cậu của anh đã đưa lại cho em cây nến mà chú Crowquill có gởi ông ấy. Em ước gì người giám hộ của em còn sống,” Billy sụt sịt và sấp mặt xuống.
Charlie thấy mình cũng mệt đứ đừ, nhưng trước khi ngủ, nó hỏi Billy xem thằng bé có muốn về nhà với nó vào tối thứ Bảy không.
“Không, cảm ơn anh,” Billy lẩm bẩm. “Em nghĩ em sẽ ở lại đây. Em chưa bao giờ xem Đại Dạ Vũ cả.”
Charlie cũng chưa bao giờ xem Đại Dạ Vũ, nhưng không gì có thể níu kéo nó ở thêm một đêm nữa trong Học viện Bloor.
Sáng hôm sau, bữa sáng của hai thằng bé bị cắt ngang bởi một người đàn ông cao lớn, hói xọi, mang bộ ria mép màu vàng gừng. Thò đầu qua cánh cửa căn-tin xanh da trời, ông ta thốt lên, “Á. Không phải ở đây thì phải?”
“Thưa, ngài đang tìm gì vậy?” Charlie hỏi, miệng đầy cốm bắp.
“Miệng đầu thì đừng có nói,” bộ ria mép vàng gắt gỏng.
Bà bếp trưởng từ trong bếp hiện ra, người lạ liền nói, “Trông bà có vẻ là một người biết điều phải lẽ đấy. Phòng họp ở đâu?”
Bà bếp trừng trừng nhìn người đàn ông, ngực bà phập phồng căm phẫn. “Chắc chắn tôi phải biết điều hơn ông nhiều. Lẽ ra ông nên quẹo phải, chứ không phải quẹo trái.”
Ria Gừng Vàng rụt đầu lại và đóng cánh cửa một cái kịch bực bội.
“Hiệu trưởng đấy!” Bà bếp trưởng lầm bầm. “Chả có phong thái gì hết trọi. Tưởng mình là thượng đế chắc. Vài người trong đám đó còn không kìm chế được thói phô trương, khoe khoang. Ta đã gặp thôi thì đủ nhà biến hình, kể hô biến và bọn phỉnh lừa. Họ hô biến đồ ăn, cho nó bay lên trời, biến nó thành sô-cô-la hay bất cứ thứ gì họ khoái; rồi có người còn táy máy biến đồ sứ thành đồ vàng hay bạc nữa chứ, chỉ vì thích thế đấy. Hừ, tối nay họ sẽ phải kiềm chế lại thôi. Chứ ngài thị trưởng không chịu nổi những thứ kiểu ấy đâu.”
Hai đứa đã không hề hay biết gì về những màn làm phép diễn ra trong khi chúng núp dưới gầm bàn, và tiếc hùi hụi vì đã bỏ lỡ mất. Nhưng không phải lỡ tất cả.
“Thưa bà bếp trưởng,” Charlie hạ thấp giọng. “Cô Chrystal là...”
“Ta biết, Charlie. Ta đã nghe nói rồi. Ta không thể nói chuyện đó vào lúc này! Một phút nữa thôi là tất cả họ sẽ tràn vào đây. Tất cả những hiệu trưởng. Họ sẽ bắt đầu trong nhà hát và rồi sau đó sẽ gặp nhau ở khắp mọi nơi; số thì gặp nhau trong các phòng học; số thì vô nhà thi đấu. Ta không biết hai cháu định sẽ đi đâu.”
Hai đứa ngay sau đó biết ngay mình sẽ đi đâu. Chúng đang trên đường trở về phòng ngủ chung của mình thì tông thẳng vào Manfred Bloor.
“Hai tụi bay làm gì ở đây?” Manfred sủa.
“Chúng em không biết đi đâu nữa,” Billy nói.
“Ra kia!” Manfred chỉ tay ra cầu thang chính.
“Kia?” Charlie hỏi lại. “Đến khi nào ạ?”
“Đến khi nào tao đến kiếm tụi bay,” Manfred phán.
Không có chuyện tranh cãi ở đây. Charlie và Billy lần chần lui lại cầu thang, ở đó chúng nhìn xuống đám đông lố nhố các ông bà hiệu trưởng. Một số người vẫn đang khoe tài phép. Charlie trông thấy một con lừa và một con gấu, và chứng kiến một con đà điểu châu Phi biến thành một bà váy xoè màu vàng. Một ông bận áo khoác đen biến mất vào không khí, và rồi thì có một con thằn lằn khổng lồ treo tòn teng trên xà nhà.
Charlie và Billy cẩn thận đi xuống tiền sảnh. Xuống đến nơi rồi, chúng phải luồn lách qua biển người tụ tập nói liên tu bất tận. Không luật nào bắt họ im lặng được, Charlie nhận thấy như vậy. Chả ai để ý tới hai thằng bé đang vất vả tìm đường đến những phòng để áo khoác, cho tới khi chúng chạm mặt người đàn ông đội khăn xếp xanh da trời.
“À hả, chúng ta lại gặp nhau,” ông Khăn Xanh mỉm cười phóng khoáng. Ông đặt một ngón tay lên môi và nháy mắt với Charlie, “Chúc may mắn!”
Một phụ nữ phốp pháp xô Charlie qua bên, và khi nó trấn tĩnh lại thì người đàn ông đội khăn xếp xanh da trời đã mất hút vào đám đông.
“Ai đó?” Billy hỏi khi chúng đã an toàn bên trong phòng để áo khoác xanh da trời.
“Ông ấy trông thấy anh ở dưới gầm bàn tối qua. Nhưng ông ấy không chỉ điểm anh,” Charlie mặc áo khoác và mang giầy bốt vào.
“Vậy không phải tất cả bọn họ đều xấu. Trông ông ấy không giống một vị hiệu trưởng nhỉ?” Billy ngồi xuống băng ghế để cởi giày ra.
“Ông ấy là người nước ngoài,” Charlie chỉ ra. “Có lẽ ở xứ ông ấy hiệu trưởng là như vậy.”
Vừa ra đến bên ngoài là Charlie hướng ngay tới khu đổ nát. Cỏ đẫm sương rào rạo dưới chân chúng và một màn sương giá giăng là là mặt đất. Mái cửa vòm đồ sộ màu đỏ của khu đổ nát hầu như không thấy đâu.
Billy lết bết đằng sau Charlie, hy vọng bên trong khu đổ nát sẽ ấm hơn. Nó không nhận ra Charlie có một mục đích khác hẳn.
“Vụ gì thế này?” Billy bước vào cái sân lam nham và ngó sững vào những viên đá phiến bị vỡ.
“Cô ta đã tìm kiếm cái gương thần và đấy là nơi cô ta đã tìm ra nó,” Charlie chỉ khối đất đen xì hình vuông. “Cô Chrystal, cô giáo mà tất cả tụi mình đều nghĩ là tốt nhất và tử tế nhất trường.”
“Té ra cô ta là kẻ xấu nhất,” Billy nói.
“Một mụ phù thuỷ,” Charlie thêm. “Anh phải cảnh báo cho những người khác biết ngay, nhưng chúng ta không được để cho cô ta biết bọn mình đã biết cô ta.”
“Thế thì ta phải cảnh giác,” Billy đồng tình.
Chúng quờ quạng đi xuống một trong năm lối đi tối mù dẫn ra khỏi sân. Ở cuối lối đi mở ra một khoảnh cỏ rộng, cây cối và những bức tường dày đổ nát bao quanh. Bọn chúng ngồi lên một bức tường và Charlie chà sát hai bàn tay lạnh cóng vào nhau, nghĩ về ông Bartholomew Bloor. “Vua Đỏ vẫn còn trong lâu đài” – nhà thám hiểm đã nói như vậy – “nhưng ngài bị che khuất”.
“Vậy ngài ở đâu?” Charlie buột miệng, gần như tự nói với mình.
“Ai ở đâu?” Billy hỏi.
“Vua Đỏ. Chúng ta cần ngài, Billy à.”
Một cơn gió lạnh thốc vào mặt chúng và những cành cây trụi lá kêu lắc rắc trên đầu. Một cành khô gãy, rồi lại một cành khác. Charlie hoảng hốt quay phắt đầu lại, tưởng bắt gặp Asa trong bộ dạng thú của hắn xồ ra khỏi bụi rậm. Nhưng không phải Asa. Đứng im lìm, bên dưới một cây to, Charlie thấy một con ngựa trắng.
“Hoàng hậu đó,” Charlie khẽ khàng.
Hai thằng tuột khỏi bức tường và hoàng hậu đi nước kiệu về phía chúng.
“Đúng bà rồi, đúng thật bà rồi,” Charlie vừa nói vừa vuốt ve vòng cổ mềm như lụa.
Billy ậm ậm ừ ừ và hí lên, và thế là hoàng hậu hạ thấp đầu xuống để nghe cho rõ hơn những tiếng ngâm nga và khụt khịt kỳ dị từ Billy phát ra như những cái hắt xì. Bà đáp lại theo cách của bà, bằng vài tràng hí dài.
Charlie, nóng lòng quá, đòi Billy cho biết hoàng hậu đang nói gì.
“Em hỏi bà nhà vua có ở đây không,” Billy nói, “và bà bảo ngài ở rất sâu, sâu bên trong lâu đài của ngài. Em hỏi bà làm sao chúng ta có thể đến chỗ ngài, bà bảo với em rằng khi thời điểm đến ắt sẽ tìm thấy ngài.”
“Thế thôi à?” Charlie thất vọng. “Nhưng khi nào thì thời điểm đến.”
Con ngựa trắng sục mõm vào tai Charlie, và Charlie quàng cánh tay lên cái bờm dài của ngựa. Ngựa âu yếm dụi đầu dụi mặt cả hai đứa, và rồi bất thình lình, ngựa ngó lên trời.
Có tiếng rung chuyển trong không trung, ghê rợn đến nỗi không thể là sấm. m thanh đó kéo theo một bầu trời đen kịt; tựa như tấm màn nặng chịch che ụp xuống mặt đất.
Trong ánh sáng âm u, đôi mắt của hoàng hậu trợn trắng lên kinh hãi. Bà thét lên một tiếng, quay đầu và phóng nước đại đi khỏi, tiếng móng guốc nện lộp cộp của bà càng lúc càng xa thì tiếng gầm trên trời càng lúc càng buốt óc.
Charlie và Billy vắt giò chạy trối chết ra khỏi khu đổ nát, bàn chân chúng lượt trượt, líu quíu hướng về nơi trú ẩn trong trường.
“Đó là tiếng gì vậy?” Billy thở hồng hộc. “Động đất hả?”
“Chắc ngày tận thế,” Charlie hét to.
Chúng nhào tới cánh cửa vào trường thì thấy nó đã bị khoá. Charlie dộng thình thình vào khối gỗ sồi vững chắc cho đến khi, mãi cuối cùng, cánh cửa xịch mở và Manfred ngó xuống bọn chúng.
“Tí sấm đó mà cũng sợ à?” Manfred châm chọc đầy khinh miệt.
“Không phải sấm,” Charlie hổn hển. “Nó là... là... Làm ơn cho chúng em vào đi?”
“Mày phiền phức quá, Charlie Bone, nhưng, ờ, thôi được, về phòng ngủ chung của tụi bay mau,” Manfred nhích qua một bên và hai thằng bé xông vào tiền sảnh. Lúc này tiền sảnh vắng tanh vắng ngắt, các vị hiệu trưởng đã toả vào các lớp học khác nhau.
“Đó không phải là sấm, thưa ngài,” Billy nói.
“Ta tự hỏi thế thì nó là cái gì,” Manfred dường như đã biết câu trả lời nhưng không muốn tiết lộ cho bọn nhóc biết.
“Khi nào thì tới Dạ Vũ, thưa ngài?” Billy hỏi, cảm thấy can đảm hơn vì đã ở bên trong toà nhà.
“Khách khứa sẽ tới vào lúc bảy giờ rưỡi, và tốt hơn mày hãy tránh xa ra, Billy Raven. Sẽ có năm trăm người đi qua cánh cửa này của chúng ta đêm nay.”
“Năm trăm!” Charlie kêu lên.
“Dịp mười năm một lần mà,” Manfred khoe khoang, “Ông thị trưởng sẽ đến đây, và toàn thể hội đồng thành phố nữa. Có ba thẩm phán, một công tước và công nương, rồi chủ mọi doanh nghiệp lớn của thành phố, một giám mụ, những vị chủ tịch, giám đốc, rồi tổng... không phải tổng thống Mỹ[1] đâu,” Manfred nói tới đâu miệng Charlie trễ xệ xuống tới đó, “ý ta muốn nói đến các tổng giám đốc công ty.”
[1] Nguyên văn: “president” vừa là chủ tịch công ty, vừa là tổng thống. Manfred nhắc tới “president”, liền nói lại cho rõ hơn là không phải tổng thống Mỹ. (ND)
“Phù!” Charlie đành kinh ngạc một cách bất đắc dĩ.
Manfred mỉm cười hài lòng, “Tụi bay có muốn xem phòng dạ vũ không?” Hắn đề nghị.
Hai thằng bé thắc mắc không biết có gì nảy ra trong đầu hắn vậy. Manfred vốn thường không thân thiện thế này. Có lẽ tại hắn không cưỡng nổi ý muốn phô trương.
Billy nói, “Dạ muốn” trước khi Manfred kịp đổi ý.
“Theo ta.” Manfred mở khoá cánh cửa nhỏ dẫn lên Tháp Nhạc. Khi cánh cửa vừa bung ra, Charlie choáng ngợp trước khung cảnh hành lang lù mà lù mù ngày thường đã biến đổi hoàn toàn nhờ lớp thảm dày trải dưới sàn và mái trần nhấp nháy những vì sao.
Hồi nào tới giờ nó đâu có để ý đến cánh cửa đôi dẫn vào phòng dạ vũ. Giờ đây, cánh cửa vòm bừng sáng lên lấp lánh, trở lại vẻ huy hoàng trước kia của mình. Manfred hẩy nhẹ cánh cửa một cái, mở ra một căn phòng lộng lẫy đến độ Charlie nín cả thở.
“Tụi bay nghĩ sao, hả?” Chính Manfred dường như cũng nghẹt thở. Hắn bật công tắc điện và bốn chùm đèn pha lê đột ngột sống dậy, bừng lên một quầng sáng vỡ oà. Treo lơ lửng từ trần nhà xuống, chúng được tô điểm bằng những tạo vật bằng thạch cao. Không phải những tạo vật có thật trong đời thường, mà là những quái vật: yêu tinh, thần lùn, người khổng lồ, dơi nanh dài, quỷ đuôi chĩa ba, yêu quái và các loài rồng trông gớm ghiếc.
Charlie ráng tìm ra vài lời để nói, nhưng cuối cùng lại là Billy thốt lên, “Dễ sợ quá!”
Sàn nhà sáng loáng dốc dần lên tới một sân khấu đặt cây đàn piano to đùng ở một góc và nhiều giá nhạc ở góc kia. Charlie tưởng tượng ra một phòng dạ vũ nghẹt cứng những thân hình lay động, xiêm y xúng xính, loè xoè, bắt ánh sáng đèn chùm loá choá.
“Hay chứ nhỉ?” Manfred tắt đèn và xô mạnh bọn nhỏ ra ngoài.
“Dạ, hay!” Chúng đồng ý.
Trong khi cả bọn từ phòng dạ vũ bước đi khỏi, bỗng có tiếng bước chân nhẹ thật nhẹ làm tất cả quay đầu lại. Thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, hiện ra ở đầu kia hành lang. Charlie sửng sốt khi thấy thầy. Nó tưởng thầy Pilgrim đã rời trường rồi chứ.
“Chào thầy Pilgrim à,” nó lên tiếng.
“Chào em, em là...” ông thầy giáo lộ vẻ bối rối.
“Tôi đề nghị ông về lại phòng nhạc, ông Pilgrim,” Manfred hống hách.
“Tôi nghĩ...”
“Bà bếp trưởng sẽ mang đồ ăn cho ông.”
“Tôi không đói,” thầy Pilgrim hoang mang, lập chập gạt một túm tóc đen ra khỏi gương mặt tái xanh của mình.
“Tùy ông. Đi đi, các trò,” Manfred xua hai thằng nhỏ xuống hành lang. Khi tất cả xuống tới tiền sảnh rồi, hắn khoá cánh cửa cổ xưa sau lưng lại.
“Thầy nhốt thầy Pilgrim ngoài đó rồi,” Charlie nói.
“Trong chứ,” Manfred chỉnh lại. “Khoá lão trong ấy là để tốt cho lão. Lão không thể chịu nổi đám đông mà.” Hắn hếch cái cổ gầy ngẳng ra và trừng trừng nhìn Charlie. “Cởi áo khoác ra rồi về phòng ngủ chung của mày ngay.”
Charlie không sợ đôi mắt thôi miên đen thùi của Manfred. Nó táo tợn nhìn trở lại và chính Manfred là kẻ phải quay mặt đi. Hắn đã mất quyền phép, Charlie nghĩ. Nhưng bây giờ có cái gì đó khang khác... Đó là cái gì nhỉ?
Manfred thọc hai tay vào túi quần và hùng hục bước đi khỏi.
Trở về phòng ngủ chung, Charlie và Billy ngồi trên giường và chờ đợi. Bụng chúng bắt đầu sôi ục ục. Còn cả tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ ăn trưa. Charlie không nghĩ mình có thể cầm cự được chút nào nữa nếu không có miếng gì ăn đỡ. Nó vừa quyết định tới chỗ bà bếp trưởng thì kẻ đưa tin của bà xuất hiện.
Mấy tiếng chó sủa bên ngoài cửa thông báo May Phúc tới.
“Đồ ăn!” Billy bay chíu khỏi giường. “May Phúc nói đã có thức ăn ở căn-tin.” Nó mở cửa và vỗ vỗ cái đầu nhăn nhúm của con chó già. “Cảm ơn nha, May Phúc.”
Trong căn-tin, hai đứa thấy một đống bánh mì kẹp để sẵn trên bàn. Chúng nghe thấy tiếng bà bếp trưởng ra lệnh trong nhà bếp. Xem ra nơi này lại đang náo động rung chuyển lần nữa, với hơn một trăm suất ăn trưa đặc sản cần chuẩn bị để dọn vào phòng ăn. Khi Charlie và Billy ăn xong phần bánh của mình, chúng dòm vào nhà bếp, hy vọng ít nhất cũng sẽ được một cái bánh bích quy sô-cô-la.
“Trong trạn kia kìa,” bà bếp trưởng chỉ tay nói. Mặt bà đỏ phừng phừng, chiếc tạp dề lem luốc những vệt vàng và nâu. “À này, Charlie, con lấy giỏ xách rồi ra cửa chính vào lúc mười hai rưỡi nhé. Ông cậu của con sẽ đến đón con đấy.”
“Ông cậu Paton? Sao ông ấy đi được. Ông ấy không bao giờ...”
“Không được cũng phải được thôi,” bà bếp trưởng thở phù phù. “Chả ai rảnh mà đi cả. Ta nghe báo là tất cả đã thu xếp xong rồi. Nào, đi đi!”
Chộp vội mấy thanh sô-cô-la của mình xong, hai thằng bé lủi ra. Charlie nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Mười hai giờ hai mươi. Nó còn mười phút để gói ghém đồ đạc và đi ra cổng chính.
“Em có chắc là em không muốn về với anh không?” Charlie hỏi khi chúng chạy lên tới phòng ngủ chung.
“Em muốn xem những quý bà diện đầm dạ hội,” Billy nói. “Để sau đó còn kể lại cho tất cả các anh chị nghe.” Thằng nhỏ không nói thêm rằng nó còn muốn tưởng tượng một trong những quý bà khiêu vũ xinh đẹp đó là mẹ nó.
Lão Weedon đang chờ ở tiền sảnh khi Charlie ôm giỏ xách chạy rầm rầm xuống cầu thang. Còn đúng một phút nữa để ra tới cổng.
“Suýt nữa thì không xong hả, Charlie Bone?” Lão Weedon có kiểu nói kháy khiến Charlie lúc nào cũng muốn độp lại câu gì đó vô lễ. Nhưng nó hơi chợn cái lão tạp vụ đầu trọc râu ria xồm xoàm này. Nếu bây giờ mà nói gì đó hớ hênh thì coi chừng lão Weedon nhốt nó vào phòng chứa đồ, hoặc tệ hơn nữa.
“Cảm ơn,” Charlie rặn ra nói khi lão tạp vụ to bè rút những cái chốt và mở khoá cửa ra.
“Cửa chưa mở hay sao ấy nhỉ?” Lão Weedon trêu chọc.
“Chưa, thưa ngài.”
Lão Weedon mở hi hí một cánh cửa. Charlie thót mình lách qua khoảng hở tí ti ấy và chạy băng qua mảnh sân gạch. Nó nhảy tưng tưng từ cầu thang xuống quảng trường rải sỏi, suýt nữa thì ngã chúi nhủi ở bậc thang cuối cùng. Nó quá sung sướng khi thấy chiếc xe hơi của Ông cậu Paton đậu ở đầu quảng trường.
Ông cậu Paton không nghe thấy tiếng gọi hồ hởi của Charlie. Ông đeo kính râm và đang mê mải thả hồn vào tờ báo đặt trên đùi.
“Ông cậu Paton!” Charlie giật mạnh cánh cửa xe và chui tọt vào ghế, “Con đây.”
Ông cậu Paton nhìn lên. “À, đây rồi,” ông mỉm với Charlie một nụ cười mờ nhạt.
“Mọi thứ đều ổn chứ ạ? Ý con là ngoại Maisie. Ngọai có còn... còn...?”
“Không có gì thay đổi, ta e là vậy,” Ông cậu Paton thở dài.
“Con xin lỗi làm ông phải đi ra ngoài vào ban ngày. Ông đã gây ra tai nạn nào chưa?”
“Đến giờ thì chưa,” Ông cậu Paton rồ máy. Ông dường như đang ở tận đẩu tận đâu.
“Ông có khỏe không, Ông cậu?” Charlie hỏi.
“Ta á? Ừ, khỏe. Chỉ là... ờ, ta lo lắng cho mẹ mày đó, Charlie.”
“Sao ạ?” Charlie hoảng hồn.
“Mẹ mày sẽ đi dự Đại Dạ Vũ.”
“Mẹ?” Charlie không thể tin nổi. “Làm sao mà được? Họ đời nào cho mẹ con đi. Mà đi với ai? Mẹ con ấy hả? Không đời nào?”
“Hờ, có thể chứ.” Ông cậu Paton dận bàn chân xuống và họ chồm lên con đường sỏi, phóng ra khỏi quảng trường.