OLIVIA ĐỂ LỘ MÌNH
Charlie ôm chồng nhật kí theo Ông Cậu lên lầu. Cây nến Ông cậu Paton giơ lên cao lập lòe và tỏa khói trong khu vực cầu thang gió lùa, và Charlie phải đặt bàn chân cẩn thận để tránh bước hụt bậc thang.
Về tới phòng mình rồi, Charlie đặt chồng sách lên cái bàn cạnh giường và lôi một bức tranh nhỏ từ dưới giường ra.
“Ta nghĩ con sẽ cần ánh sáng cho tử tế, Charlie,” Ông cậu Paton thập thò nơi cửa.
Trong ánh sáng nhập nhoạng từ ngọn nến, Charlie gần như không thấy bức tranh. “Con bật đèn bên giường thì có lẽ tốt hơn,” nó đồng ý.
“Vậy ta đi đây,” Ông cậu Paton bảo. “Nhưng mà Charlie, làm sao con trở lại được? Con có cần ta giúp gì không?”
Charlie lắc đầu. “Con sẽ mang nó đi cùng.” Nó hất đầu về phía con bướm trắng đậu trên giường. “Nó sẽ giúp con trở lại.Trước đây nó đã từng làm thế rồi, Ông cậu biết đấy.”
“Ra vậy. Hừm... chúc con may mắn,” Ông cậu Paton ngọ nguậy chân vẻ bất an rồi rút lui.
Charlie bật đèn lên và đóng cửa lại. Nó đặt bức tranh lên gối và lên giường ngồi cạnh. Trong cánh tay nó ôm mười quyển sách bọc da của ông Bartholomew.
Bức tranh nhỏ xíu này xưa đến hàng nhiều thế kỷ. Những đường nét mờ nhỏ xỉn, nứt nẻ, cùng niên đại của nó khoác thêm vẻ đe dọa cho một khung cảnh vốn đã hiểm ác. Hàng chú thích ghi “thầy pháp” ngoằn ngoèo màu đen ở cuối bức tranh. Và đứng đó, ông thầy pháp áo thụng đen trong căn buồng tựa xà lim của mình, với những hiệu ứng ma thuật rải khắp mặt bàn đằng sau lưng. Mái tóc đen và bộ râu quay nón đen của thầy pháp xen kẽ những sợi bạc và đôi mắt vàng sáng quắc. Đó là con mắt mà Charlie tập trung nhìn vào.
Trước đây Charlie đã thăm Skarpo vài lần rồi. Có dạo nó rất sợ lão già ấy, nhưng giờ thì không sợ nữa. Nó đã quen với cặp mắt hung dữ và giọng nói như tụng kinh trầm đặc của ông ta.
“Charlie Bone?”
Dẫu Charlie đã chủ ý đón chờ điều này, nhưng cái giọng đó vẫn khiến nó dựng tóc gáy và một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.Con bướm trắng đậu trên vai nó sẵn sàng cho cuộc hành trình phía trước.
Khi những đồ vật quen thuộc trong phòng cùa Charlie bắt đầu mờ đi, nó liền thấy một luồng sáng từ căn buồng ẩm thấp của ông thầy pháp, trộn lẫn với mùi hương thỏa mộc rang khét và sáp nến. Đầu nó bơi bơi và bàn chân nó bỗng nhẹ bẫng như không khí. Ôm thật chặt chồng sách, nó nhìn găm vào đôi mắt vàng rực cháy của Skarpo. Giờ thì nó có thể nghe thấy tiếng những lớp áo thụng của Skarpo kêu sột soạt, tiếng sắt va chạm và tiếng lửa lách tách. Charlie cảm giác mình ngã lộn tùng phèo qua nhiều thế kỷ, thân hình bị vùi dập như tờ giấy trước gió.
Khi bàn chân đã chạm xuống nền đá lạnh ngắt, nó mở bừng mắt ra. Ông thầy pháp đứng ngay trước mặt.
“Gì thế này? Ta thấy Charlie Bone trọn vẹn luôn,” Skarpo xoa xoa cái cằm râu rậm rạp. “Lúc trước thấy mỗi cái đầu mi thôi. Công lực của mi bây giờ mạnh lên rồi đấy.”
“Vậy ạ?” Charlie nhìn xuống cánh tay quặp chặt những quyển nhật ký của mình. “Ồ.”
“Mi mang quà cho ta hả?” Ông thầy pháp tia những quyển sách bọc da.
“Không hẳn vậy,” Charlie đáp. “Cháu đến để hỏi xin ngài một ân huệ.”
“À hả!” Ông thầy pháp xoa hai bàn tay xương xẩu lại với nhau. “Ta thích ân huệ lắm. Ý ta là ta có thể cũng xin mi một ân huệ.”
“Cháu nghĩ là được,” Charlie hồi hộp nói.
“Chúng ta hãy ngồi xuỗng đã.” Vén tấm vải đỏ treo phía trên bàn lên, Skarpo rút ra hai chiếc ghế đẩu thô thiển bằng gỗ. Một cái ông ta đẩy về phía Charlie, cái kia ông ta đẩy ra sau lưng mình, loay hoay tém mớ áo thụng nặng nề qua một bên và ngồi xuống. “Mi định nói với ta những quyển sách đó à?”
Charlie đặt mười quyển sách vào cánh tay duỗi ra của ông thầy pháp, “Chúng là những quyển sổ nhật ký, thưa ngài. Những quyển sổ nhật ký này rất đặc biệt. Chúng do một người bà con xa của cháu viết, tên là Bartholomew Bloor. Ông ấy đã đi khắp thế gian, và bất cứ nơi đâu nghe được chuyện về Vua Đỏ, ông ấy đều ghi lại. Những quyển nhật ký này vô cùng quý giá vì trong đó có rất nhiều bí mật – những điều về Vua Đỏ mà chúng ta chưa biết bao giờ.”
“Nếu chúng quý giá thì tại sao mi lại mang chúng đến cho ta?” Skarpo khẽ cười cái khục. “Mi có tin cậy ta không, Charlie Bone?”
“Cháu buộc phải tin,” Charlie đáp. “Có một người... một vật... mà người ta gọi là cái bóng. Hắn ở trong bức chân dung của Vua Đỏ và hắn...”
“Cái bóng?” Skarpo đứng phắt lên, đống áo thụng đen quất một làn gió băng giá qua đôi bàn chân mang dép lê của Charlie. “Khỏi nói thêm nữa. Ta biết cái bóng này. Giới thầy pháp cố tránh nói về hắn, bởi vì hắn làm ô danh giới pháp thuật bọn ta, mang tiếng lắm. Chỉ thì thầm lướt qua tên hắn thôi là anh em thầy pháp bọn ta đã xua tay phản đối rồi.”
“Ừm, cháu sẽ phải nói thêm chút xíu về hắn,” Charlie nói. “bởi vì hắn là lý do khiến cháu mang những quyển sổ nhật ký này đến cho ngài.”
“Ờ, thì vậy.” Skarpo quay lại và đặt những quyển sổ nhật ký thành hai chồng ngay ngắn lên bàn. “Nói coi.” Với tiếng áo thụng kêu phụt một cái, ông ta ngồi xuống.
Căn phòng gống như cái hang của ông thầy pháp là một nơi thích hợp vô cùng cho câu chuyện của Charlie. Nó kể cho Skarpo nghe những gì đã xảy ra kể từ đêm mưa tuyết, khi chim thú rời khỏi thành phố. Nó kể về ngoại Maisie bị đông cứng và chiếc nhẫn của mẹ nó, về cô Chrystal và Gương Thần của Amoret. Và, trong khi nó kể, năm ngọn nến trong những giá cắm nến cao bằng sắt thấp dần thấp dần, và chẳng bao lâu sau, ánh sáng duy nhất trong phòng dường như chỉ còn toả ra từ cặp mắt vàng của ông thầy pháp.
Khi Charlie đã nói xong tất cả những điều cần phải nói, Skarpo lại đứng lên và đi tới bên bàn. Ông ta thắp một cây nến to ở giữa bàn lên, và trong ánh sáng nhảy nhót của ngọn nến, ông ta bắt đầu lật lật từng quyển sách. Charlie nhìn Skarpo, trông chờ một lời nhận xét hay một lời khuyên gì đó, nhưng ông thầy pháp chẳng nói chẳng rằng, mãi cho đến khi mắt ông đã quét hết mọi trang sách. Khi đặt quyển sách cuối cùng lại chỗ cũ xong, Skarpo quay lại Charlie và nói, “Toàn chuyện hay đấy, cậu bé của ta. Những tiết lộ chấn động! Ta sẽ giữ chúng an toàn, nhưng câu thần chú, câu thần chú bằng tiếng xứ Gan ấy, mi phải mang nó trở về với mi. Để ta dịch ra cái đã, bởi vì ta biết tiếng xứ Gan, mi biết đấy, rồi mi sẽ cần tới nó.”
Charlie chờ, tự hỏi liệu đó có phải là câu thần chú mà ông Bartholomew đã nhắc tới không. Ông thầy pháp xé một mảnh giấy da dê từ một quyển sổ bằng da, và nhúng cây viết lông trông lạ mắt vào lọ mực, ông ta bắt đầu viết rột rột lên bề mặt tờ giấy da dê. Thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn vào một trong những quyển sổ nhật để mở trên bàn, gãi đầu, nhìn xa xăm, mỉm cười và rồi lại viết tiếp.
Khi hàng chữ cuối cùng đã viết xong, Skapo đặt cây viết lông xuống và nhìn Charlie với một nụ cười đắc thắng. “Một câu thần chú tuyệt vời,” ông ta tuyên bố.”Không phải của ta. Ồ không. Người bà con của ngươi chắc hẳn đã sưu tầm nó từ một trong những hậu duệ của Mathonwy, bạn ông Vua Đỏ của mi, dĩ nhiên rồi.” Ông ta lại vọt ra một tiếng cười kinh khùng khục đặc trưng. “Chính từ lão ta mà ta đánh cắp cây gậy phép của ngươi đấy, Charlie Bone. À, không phải đánh cắp, không... mà là lúc đó lão đã già khú khụ rồi, và chắc hẳn cũng không có ý để lại nó cho ta trước khi chết. Làm sao mà họ thích truyền tên tuổi của mình cho con cháu thế không biết, cái đám dân xứ Gan ấy.” Ông ta ngừng nói và nghiêng đầu. “Nhân nói đến cây gậy phép, thế nó đâu rồi?”
“Thật tình thì bây giờ nó là con bướm trắng,” Charlie nói.
“À, con bướm trắng kia.Ta thấy rồi.” Skarpo thò tay ra bắt con bướm trắng đang bay chập chờn giữa hai người.
“ĐỪNG!” Charlie hét lên thất thanh. “Nó là của cháu!”
“Đùa thôi, Charlie Bone!Ta sẽ không làm đau con bướm xíu xiu của ngươi đâu.” Ông thầy pháp thổi tấm da dê cho khô rồi chìa ra, “Cầm lấy câu thần chú của ngươi rồi rời khỏi nơi đây. Nấn ná trong những thế giới xa xôi chẳng hay ho đâu.”
“Vâng, cháu đi đây.” Charlie hấp tấp, cầm lấy câu thần chú, “và xin cảm ơn ngài. Ngài sẽ giữ những quyển sổ nhật kí an toàn chứ ạ?”
“Ngươi nghi ngờ sao?” Ông thầy pháp gặc đầu qua bên và nở nụ cười vặn vẹo.
“Không. Không, dĩ nhiên là không ạ.” Charlie giơ bàn tay rảnh rỗi của nó và con bướm trắng đậu vào ngón tay nó. “Nó giúp cháu chu du,” Charlie giải thích.
Ông thầy pháp gật đầu, “Ờ.”
Trước khi Charlie rời đi, nó liếc qua ô cửa sổ nhỏ ở cuối căn buồng tối. Có thể thấy một khu rừng đen ngòm, viền quanh là một biển nước gờn gợn ánh trăng. Có lần, Charlie đã tình cờ viếng thăm khu rừng đó, và việc đó mãi in sâu trong tâm trí Charlie, một kí ức vừa làm nó hoang mang vừa vỗ về, an ủi nó. “Thưa ngài, Vua Đỏ đã từng sống ở gần đây phải không ạ?” Nó hỏi.
“Ậy, đúng thế,” Skapo trả lời, quay về phía cửa sổ. “Và khi nhà vua ra đi, Mathonwy thầy pháp đã đến sống ở đây. Ông thu nạp ta làm đệ tử khi ta còn rất nhỏ; một đứa trẻ mồ côi không nhà, dân tộc ta bị quân lính của nhà vua Anh tàn sát. Mathonwy là một thầy pháp vĩ đại và ông ấy đã dạy ta rất nhiều, nhưng ta không bao giờ giỏi được bằng ông ấy, ở bất cứ khía cạnh nào của cái từ ‘giỏi’ này.” Một bóng đen thoáng qua nét mặt của lão thầy pháp, một tí dấu hiệu hối hận vụt qua, nhưng rồi nụ cười ác độc lại quay về, và ông ta phẩy bàn tay xua Charlie, “Đi, đi đi nhóc. May mắn sẽ đi cùng với mi.”
“Tạm biệt ngài, và cảm ơn.” Charlie nhìn con bướm trắng và dịu dàng hỏi, “Chúng ta đi bây giờ chứ, Clearwen?”
Gương mặt của lão thầy pháp là cảnh cuối cùng Charlie thấy trước khi đám sương mù thời gian trôi đến giữa hai người và Charlie bắt đầu chu du trở về nhà. Đôi mắt vàng chóe của Skarpo trợn lớn kinh ngạc, bởi vì Charlie đã vừa nói tiếng xứ Gan. Những từ ngữ lạ hoắc đã tự nhiên mà đến với nó, tuy nhiên, nó biết rằng điều đó là do con bướm trắng. Claerwen – Tuyết Trắng.
Một lúc sau, Charlie đã ngồi trên giường, với con bướm trắng đậu trên tay. Charlie ngáp dài và hất văng đôi dép lê ra. Chưa bao giờ nó buồn ngủ đến thế. Vài tiếng nữa nó sẽ phải thức dậy và sắp xếp giỏ sách để chuẩn bị đến trường. Nhưng bây giờ thì chưa. Nó cất bức tranh xuống dưới giường, nằm ngửa ra gối và ngủ lịm đi.
Nó tỉnh dậy thì thấy Ông cậu đang lo âu nhìn nó từ khung cửa ra vào.
“Không đời nào ta lại gọi con dậy đi học,” Ông cậu Paton nói, “nhưng ta nghĩ ít nhất cũng nên nhắc chừng con về thời gian. Xem ra chưa có ai thức giấc cả.”
Khi Charlie lăn khổi giường, một mảnh giấy cứng quèo, vàng vàng bay xuống đất. Nhăn mày, Ông cậu Paton bước vào phòng và nhặt nó lên. “Cái này là cái gì?”
“Con không biết,” Charlie nói, dụi mắt.
“Một bài thơ? Ồ không, còn hơn thế nữa, một... một loại như bùa chú.” Ông cậu Paton lật tờ giấy lại và nghiên cứu nét chữ xiên xiên to tướng. “Ối chu cha, ở đâu con có cái này đây, Charlie?”
“Ô, con quên mất. Skapo đưa con đấy ạ,” Charlie nói khi băng qua Ông cậu trên đường ra nhà tắm.
“Skarpo đưa à?” Ông cậu gọi với theo kinh ngạc. “Charlie, ta sẽ cất nó trong phòng ta. Đáng chú ý đấy. Nó có thể thay đổi mọi thứ.”
Charlie không để ý Ông cậu nói gì. Một lần nữa nó lại phải đánh răng trong khi Maisie nằm đông cứng trong bồn tắm bên cạnh. Hừm, bà ngoại, người duy nhất trong cả nhà có khả năng giữ mẹ nó an toàn khỏi bá tước Harken thì lại nằm đấy.
Đến lúc Charlie rửa mặt xong thì Ông cậu Paton đã biến về phòng ông, và tất cả những gì Charlie có thể nghe được là tiếng lẩm bẩm trầm đục tựa như tiếng nước ngoài.
Charlie mặc đồ chỉnh tề, sắp giỏ sách xong rồi xuống nhà bếp. Lò lạnh tanh và cái bàn trống trụi. Không một dấu tích nào chứng tỏ có ai đã ăn sáng ở đó. Mẹ đâu rồi? Đi ra ngoài hay đang ngủ? Charlie sợ tìm ra câu trả lời. Ngôi nhà phả ra mùi trống vắng lạnh lẽo, chìm trong giấc ngủ. Nó vội vã tự nướng cho mình một lát bánh mì rồi ra khỏi nhà.
Học viện Bloor vẫn chưa hồi phục sau kỳ cuối tuần hội họp đình đám. Có chăng là toàn thể ban thậm chí còn bẳn tính, hay cáu gắt hơn cả lúc trước khi một trăm vị hiệu trưởng đến chơi. Những nhánh lá thông, dây kim tuyến, dĩa nhựa rách và thức ăn thừa tràn ngập dưới tiền sảnh. Nhiều quần áo, mũ nón biến mất khỏi các phòng áo khoác và có phàn nàn ca cẩm thì cũng chỉ tổ vô ích.
“Lẽ ra trò không nên để nó ở đó,” Manfred Bloor chắc chắn sẽ đáp như thế trước lời rụt rè nghi ngờ một vị hiệu trưởng ghé thăm có thể đã chôm một cái khăn quàng, một chiếc giày, hay một chiếc găng tay viền lông thú.
Trông Manfred mới gớm ghiếc thật sự – mặt lỗ rỗ những vết thương li ti chắc chắn chỉ có vô số vụn thủy tinh mới gây ra được. Emma Tolly không chút nghi ngờ gì rằng Manfred đã đi cùng với cái bóng tới đập rầm rầm cửa tiệm sách nhà nó đêm hôm trước.
Fidelio có tiết học violin sau buổi Tập hợp, nhưng nó không có ý muốn gặp cô Chrystal. “Anh không biết làm sao mà mình có thể giả bộ không biết cô ta là ai,” nó thì thầm với Charlie khi chúng rời phòng tập hợp. “Ý anh là, anh không phải là diễn viên như Liv.”
“Anh buộc phải vậy thôi,” Charlie nói. “Chỉ cần cô ta đoán ra tụi mình biết chuyện thôi là cô ta sẽ giương móng vuốt ra liền.”
“Anh có cảm tưởng như...”
“Fidelio Gunn,” tiến sĩ Saltweather nói, ông hiện ra từ phòng tập hợp, “hãy nhớ luật.”
“Vâng, thưa thầy,” Fidelio nói, mừng quá xá vì không phải Manfred đã bắt qủa tang mình.
Charlie vọt lẹ tới lớp học toán, để mặc Fidelio tự bình tâm tĩnh trí cho cuộc chạm trán kinh khủng với cô Chrystal.
Giờ nghỉ giải lao đầu tiên không thấy tăm hơi Fidelio đâu. Charlie phập phồng không biết có chuyện gì xảy ra với anh ấy. Sân trường lạnh buốt và sương giá. Bọn trẻ con túm tụm lại thành từng nhóm nhỏ, dậm dậm chân và lầm bầm một cách bất bình. Charlie phải dòm hẳn vào từng đám để tìm cái đầu tóc quăn quen thuộc của Fidelio. Nhưng hình như không đứa bạn nào của nó ở ngoài trời cả.
Khi đi lơ thơ vào lâu đài, Charlie linh cảm có một đoàn học trò theo mình theo mình. Không muốn bị mắc kẹt trong khu đổ nát, nó bèn quẹo vào rừng. Đám đông tiến gần nó hơn. Charlie co giò chạy. Và rồi thì, đột nhiên, nó bị bao vây. Mọi cây cối đều bị bao phủ trong màn sương mù, và nó không còn phân biệt nổi trong những hình thù trôi trôi ấy đâu là những thân cây ốm và đâu là lũ truy sát nó.
“Tụi bay muốn gì?” Charlie hét to. “Tại sao tụi bay đi theo tao?”
Một đứa trong bọn ló lên trước. Charlie có thể đoán dấy là Joshua Tilpin.
“Bạn bè mày vô dụng rồi, Charlie Bone,” Joshua cười khẩy. “Mày phải bỏ chúng nó thôi.”
“Mày nói gì? Vì sao tao phải bỏ bạn?” Charlie căm phẫn quặc lại.
Joshua thảy cho nó một nụ cười thõng thượt, lạnh toát. “Tụi tao đến để dạy cho mày một bài học, Charlie. Tụi tao sẽ dạy đi dạy lại cho mày nhớ, phải không các chiến hữu?”
“PHẢAII!” Đám đông rống vang.
Và bây giờ đến lượt Dorcas Loom lẻn ra từ sau một thân cây và chế nhạo Charlie. “Mày là đồ thảm bại, Bone. Mày đừng hòng thoát. Mày đã mất cha rồi, và giờ mày sẽ mất nốt mẹ. Mày không thể giữ được cái gì thì phải? Nếu mày gia nhập tụi tao thì tụi tao sẽ giúp mày, Tụi tao mạnh hơn nhiều lũ bạn khốn khổ của mày.”
Charlie vẫn từ từ lùi xa khỏi đám đông, và giờ, lưng nó đã tựa vào bức tường cổ xưa. Không suy nghĩ, nó quay đầu và tìm được một chỗ bấu chân. Nó liền leo lên, cao nữa cao nữa, hướng tới mấy lỗ hổng trên bức tường đá, trong khi bàn chân nó cuống quít tìm chỗ mấu bám. Cuối cùng nó đứng ở trên tường, cao hơn đám đông cả hơn ba mét rưỡi.
Bọn chúng nhất loạt cười cợt nó.
Thể rồi chị em sinh đôi nhà Branko xuất hiện. Đứng sát vai nhau, chúng trừng mắt nhìn những phiến đá trên bức tường, cứ thế trừng mắt, trừng mắt... Một viên đá to bung ra và toàn bộ mảng tường sụp lở.
Chúng có thể làm điều đó sao? Charlie nghĩ. Chúng có thể làm sụp một bức tường đã chín trăm tuổi sao?
Chúng làm được chứ. Hai hòn đá khổng lồ trên đỉnh bức tường xục xịch. Rồi một trong hai đứa sinh đôi nói. Chúng hiếm khi nói, đến mức việc chúng nói đã gây sốc.
“Một tai nạn mới thương tâm làm sao!” Đứa con gái mặt trơ như búp bê, tóc đen mắp máy. “Charlie Bone leo lên bức tường cổ và thế là, chòng chành, rùng rùng, nó rớt ập xuống, với Charlie ở trên cùng...”
“Sau đó ở dưới cùng,” đứa sinh đôi khi tiếp lời bằng giọng độc địa, thâm hiểm hơn.
Rồi một tiếng ịch rung chuyển khi một viên đá khổng lồ khác đáp xuống mặt đất cứng, và lần này bức tường rung lắc dữ dội, Charlie ngã bập đầu gối. Ráng bấu chắc vào bề mặt rêu mốc trong khi bức tường rung và lắc, nó cố tưởng tượng ra việc bị chôn sống sẽ như thế nào.
Chợt có tiếng gì đó vang lên, thoạt tiên Charlie nghĩ âm thanh đó là từ một mảng tường lở khác. Nhưng rồi cái tiếng đó càng lúc càng lớn – rù rù giận dữ, căng lên...
Bọn con nít dưới đất ngỏng cổ ngó lên, liền cuống quíu quay lưng ù té chạy.Vài đứa trong bọn thì bạt vía. Ngó theo ánh mắt của chúng, Charlie thấy một đám mây đen đang đổ sập xuống qua những ngọn cây. Tiếng rù rì dần trở thành tiếng gầm rú và nguyên cả đám ăn hiếp Charlie chạy toán loạn, tru tréo và kêu la rầm trời. Joshua Tilpin là đứa cuối cùng chạy đi. “Cho mày bị đốt chết tươi luôn, Charlie Bone,” nó vừa chạy vừa gào.
Ong? Bay vào mùa đông? Ai đã xua chúng đến đây? Cái bóng chăng? Charlie nhắm mắt lại. Cái gì tệ hơn nhỉ, nó tự hỏi, bị chôn sống dưới một bức tường hay là bị ong đốt tới chết?
Tiếng rù rù ngưng bặt. Charlie vẫn nhắm tịt mắt, chờ những cặp chân ngứa ngáy của bầy ong châm vào mặt và tay chân mình. Chờ đợi cú đốt đau đớn đầu tiên. Không có gì xảy ra, Charlie mở một mắt. Không có gì trên bức tường. Trong không khí cũng chẳng có gì.
“Charlie!”
Charlie mở nốt mắt kia ra. Nó trông thấy Emma và Olivia đang ngước lên nhìn nó từ dưới chân tường. Cả hai đứa đều cười toe toét.
“Cái khỉ gì...?” Charlie hỏi.
“Một ảo ảnh!” Olivia la váng trời, nhảy cỡn lên không. “Một ảo ảnh tuyệt đấy chứ nhỉ?”
“Còn phải nói,” Charlie chù chừ leo xuống khỏi bức tường.
Không ai trong số chúng nhận thấy một phụ nữ tiến tới qua màn sương. Cô dừng lại cách chúng vài mét và núp sau một thân cây.
“Tụi này thấy chúng đi theo bồ,” Emma líu lo. “Vì vậy tụi này đi theo chúng, nhưng tụi này không biết phải làm gì bây giờ. Chúng nó đông quá. Lực hút của Joshua rõ ràng là có tác dụng.”
“Và rồi tớ nghĩ ra bầy ong,” Olivia khoái chí nhảy lên cái nữa. “Tớ tự hào về mình quá đi mất.”
“Bồ đã cứu mình!” Charlie ôm chầm lấy con nhỏ. “Phùù! Mình rất vui...”
Bất chợt có tiếng loạt soạt trong hàng cây đằng sau chúng, và cả bọn quay lại thấy một bóng người lủi đi, khá nhanh, vào làn sương mù. Không nghi ngờ gì về bộ com-lê xám chỉnh chu và mái tóc cắt ngắn cụt ngủn đó.
“Cô Brown,” Charlie thì thầm. “Chắc hẳn cô ấy đã nghe thấy bồ nói rồi, Liv.”
“Và bây giờ cô ấy đã biết tài phép của bồ. Ôi không!” Emma vặn vẹo hai bàn tay vào nhau. “Tụi mình phải làm gì bây giờ?”
“Không thể làm gì cả,” Charlie nói. “Tụi mình chỉ còn nước đợi xem chuyện gì xảy ra thôi.”
Rõ ràng, cô Brown đang suy tính thời cơ. Olivia không bị triệu hồi lên thư phòng của ông hiệu trưởng và không ai lôi con nhỏ đi để tra hỏi hay nhốt nó vào phòng học. Việc thắc mắc khi nào gia đình Bloor sẽ ra tay chống lại Olivia gần như còn tệ hơn là biết họ sẽ làm gì con nhỏ. Vào giờ đi ngủ, Charlie lén mò lên phòng ngủ chung của nữ xem sao, thấy Olivia vẫn đi nghênh ngang trong bộ đồ ngủ vàng chóe tô đen, vẫn lách chách như thế.
“Tớ ỔN mà,” nó nói, xua Charlie đi. “Đừng để bị cấm túc vì tớ đấy.”
“Thế thì chúc may mắn, Liv.” Charlie trở xuống lầu. Nó định bụng sẽ dỏng tai nghe ngóng bất kỳ tiếng động lạ nào nào trong đêm, nhưng để đề phòng mình ngủ thiếp đi mất, nó báo sự việc cho Billy, Fidelio và Gabriel.
“May Phúc sẽ cho tụi mình biết nếu có chuyện gì xảy ra,” Billy thì thầm trước khi nhắm mắt lại.
Charlie không tin tưởng lắm vào May Phúc. Con chó này đã điếc ngay từ đầu rồi. Nhưng nếu đó là con chó canh tốt nhất mà chúng có thể có được, thì chúng đành phải tin vào nó thôi chứ biết sao.
Ông cậu Paton Yewbeam đang ăn bữa tối nguội ngắt của mình. Nến lập lòe trong từng góc nhà bếp, và có thêm bốn cây nữa ở trên bàn. Ông cậu Paton tự nhủ mình cần nhiều ánh sáng là để đọc chữ in nhỏ xíu trong một quyển sách hấp dẫn đặc biệt, nhưng thật ra, ông thắp thêm nến là để xua đuổi những ý nghĩ tăm tối cứ manh nha lần mò vào tâm trí ông. Liệu ông tưởng tượng chăng, hay đúng là có một số người thật sự lạ mặt đang bước đi trên đường Filbert? Có những người đàn ông và đàn bà cứ lén nhìn vô các cửa sổ, rờ tay lên những cánh cổng và lan can, nheo mắt nhìn số nhà và vội vàng ghi chép vào những quyển sổ nhỏ màu đen.
Gián điệp, Ông cậu Paton nghĩ. Bị gã bá tước mua chuộc. Lôi kéo, thôi miên, ép buộc hay bất kỳ thủ đoạn nào. Họ bị hắn khống chế.Tất cả chúng ta rồi sẽ ra sao đây?
Ông cậu Paton rùng mình và vội vàng đặt ly rượu vang trắng xuống. Ông lại rùng mình lần nữa và cắn một miếng bánh mì cá hồi lạnh tanh.
Ông định không trả lời tiếng gõ bất thình lình cộc cộc nơi cửa trước. Một tên trong bọn chúng, ông nghĩ. Hừ, chúng sẽ không bắt mình theo kiểu thế này đâu.
Nhưng tiếng gõ cứ tiếp tục, căn cứ theo nhịp gõ thì nó có vẻ dò hỏi hơn là điên cuồng. Ông cậu Paton lần chần đi vô hành thang.
“Ai đó?” Ông hỏi qua cửa.
“Dạ, thưa ông Yeabeam, làm ơn, xin vui lòng, tôi phải nói chuyện với ông.”
Nhận ra giọng nói đó, Ông cậu Paton mở cửa trước ra và cô Brown đúng là ngã nhào vào hành lang.
“Tôi phải nói chuyện với ông, nhất định phải nói,” cô Brown gấp gáp. “Tôi không biết dựa vào ai nữa. Tôi không biết phải làm gì bây giờ.”
“Làm ơn bình tĩnh lại đi, cô Brown,” Ông cậu Paton nhỏ nhẹ. “Cô dùng chút bánh mì hồi cá nhé?”
“Không, không, trừ khi, à... è, vâng, tôi quá đói. Chồng tôi không nói chuyện với tôi nữa rồi.”
“Lạy trời! Thất thố quá.” Ông cậu Paton lọ mọ đi vào nhà bếp thắp nến. “Xin thứ lỗi vì không có điện. Hẳn là cô đã nhận ra điểm yếu nho nhỏ của tôi.”
“Ồ, tôi không gọi đó là yếu điểm, thưa ôngYewbeam,” cô Brown ngồi vào chiếc ghế mà Ông cậu Paton kéo ra cho cô.
“Paton,” ông bảo. “Cô cứ gọi tôi là Paton.”
“Cảm ơn,” cô Brown có vẻ hốt hoảng. “Tôi là Trish.”
“Trish à. Tên đẹp quá.” Ông cậu rót cho cô Brown một ly rượu vang lớn. “Nào, có gì thế?”
“Vâng, à, tôi không biết Charlie có nói với ông chưa, tôi nghĩ là rồi, rằng tôi đang làm việc cho ngài Ezekiel Bloor. Cả hai chúng tôi, anh Brown và tôi.” Cô Brown dừng lại để thở. “Ngài ấy đề nghị chúng tôi rất nhiều tiền để tìm hiểu về những đứa trẻ ở Học viện Bloor.”
“Để do thám chúng chứ, phải không cô Brown?” Nghe có vẻ buộc tội trong giọng nói của Ông cậu Paton.
“Ờm...vâng!” Cô Brown thình lình bật khóc nức nở.
Ông cậu Paton đưa cho cô một chiếc khăn tay rồi đi tới bệ bếp, ông kẹp một miếng cà hồi hun khói vào giữa hai miếng bánh mì, cắt đôi, xếp lên một cái đĩa nhỏ và bưng ra bàn.
“Cảm...cảm ơn ông,” cô Brown thút thít, lau mũi bằng chiếc khăn bàn Ông cậu Paton đưa. “Đã quá đủ rồi.”
“Cứ nói đi,” Ông cậu Paton khích lệ.
“Gì cơ?” Cô Brown có vẻ bối rối. “À, thế này, tôi đã phát hiện ra điều bí mật của một trong những đứa trẻ, cụ thể là Olivia Vertigo, nhưng tôi không thể để mình... khai ra cô bé. Chồng tôi biết được tôi nắm được điều gì đó nhưng tôi từ chối không nói cho anh ấy biết. Bây giờ tôi không biết phải làm gì nữa.”
“Patricia!” (Ông cậu Paton không thích dùng tên tắt *).
Cô Brown ngước lên nhìn ông, sợ hãi. “Dạ?”
“Sao cô lại còn nghi ngờ gì nữa chứ?” Ông cậu Paton nghiêm giọng. “Cô tuyệt đối không được thở ra lời nào về điều cô khám phá được. Hãy suy nghĩ kỹ coi, sự phản bội của cô sẽ gây hại gì cho Benjamin. Charlie sẽ không bao giờ nói chuyện với nó nữa, không bao giờ đến nhà cô nữa, không bao giờ chăm sóc con chó nhà cô nữa. Trước nguy cơ ly dị, tôi tuyệt đối cấm cô nói gì cho chồng cô biết. Anh ta rõ ràng không như cô.”
“Tôi không nghĩ việc này sẽ dẫn đến ly dị,” cô Brown bẽn lẽn bảo. “Chỉ là chúng tôi cần tiền.Ông biết đấy, chúng tôi vừa mua một chiếc xe hơi mới, và tiền trang trải...”
“Nếu cô cần tiền thì có vô khối việc cho những thám tử giỏi giang như cô chú,” Ông cậu Paton nói. “Hàng loạt các vụ cướp giật đột ngột gia tăng trong thành phố kia kìa, đó là chưa kể đến những vụ hỏa hoạn đáng ngờ, những tai nạn ám muội và những vụ giết người chưa tìm ra manh mối. Hãy đi và bảo chồng cô rằng làm việc cho Học viện Bloor khiến cô phát bệnh, rằng cô hoàn toàn không biết gì cả, và rằng cô sẽ gục ngã mất nếu không được nghỉ ngơi.”
Cô Brown mỉm cười, “Vâng,” cô thở phào. “Tôi sẽ làm như thế. Cảm ơn ông, thưa ông Yewbeam. Ông khiến tôi dễ chịu hơn rồi.”
GƯƠNG THẦN CỦA AMORET
Thật là tốt khi chẳng ai cần nhờ cậy đến May Phúc đánh thức mình. Con chó già đã ngủ như chết trong căn phòng dưới lòng đất của bà bếp trưởng.
Nhưng Olivia không bị lôi đi giữa đêm khuya, và Charlie có một giấc ngủ dài yên bình một cách hiếm có. Ông cậu nó, trái lại, cứ trằn trọc bất an.
Không lâu sau khi cô Brown ra về, bốn bà chị của Ông cậu Paton cũng về nhà. Ông đang ở trong phòng mình thì nghe tiếng cửa trước nện một cái rầm, rồi đến tiếng xí xa xí xố trong hành lang. Ông đắn đo xem có nên đi xuống và đối mặt với họ hay không. Cuối cùng ông tự nhủ là mình cần phải xuống. Có thể họ sẽ phớt lờ không thèm nghe ông nói, nhưng ông cần phải cố bắt họ lắng nghe, vì lợi ích của Charlie.
Khi Ông cậu Paton bước vào nhà bếp, ông thấy các bà chị của mình ngồi bên bàn, đang húp một thứ súp trông kinh tởm – nhìn như là súp bạch tuộc. Tất cả đều đang tranh nhau nói và không ai nhìn lên khi ông em của họ xuất hiện. Ông đã lẹ làng tắt đèn đi.
“Ối giời, là nó đấy.”
“Cút đi.”
“Bật đèn lên!” Các bà chị của Ông cậu Paton nhao nhao gầm gừ ông.
“Tôi mà bật đèn lên thì các bà sẽ có mảnh thuỷ tinh trong súp,” Ông cậu Paton nói.
“Thế thì cút đi,” nội Bone nạt.
“Không,” Ông cậu Paton băng tới trạn bát đĩa và thắp lên hai ngọn nến.
“Tao không sao thấy được tao đang ăn cái gì,” bà cô Venetia rít lên.
“Thế còn tốt hơn đấy,” Ông cậu Paton nói, đặt nến lên bàn. “Trông gớm quá.”
Đồng loạt bốn tiếng thở hốc lên điên giận.
“Tôi muốn nói chuyện với các chị,” Ông cậu Paton lôi một chiếc ghế ở đầu bàn ra.
“Nói gì?” Nội Bone lộ vẻ thiếu kiên nhẫn.
“Về con dâu của bà.”
“Hứ!” Bà tiếp tục sục mặt vào món súp.
“Lạy trời, Grizelda, bà phải nhận thấy chuyện gì đang xảy ra chứ. Sự xuất hiện của tay bá tước – tên thầy bùa – đáng lý ra phải làm các bà choáng váng chứ. Các bà chắc chắn khoong thể tán thành những gì hắn đang làm đâu - lật tung thành phố lên, bóp vặn tâm trí người ta, đánh cắp mẹ của Charlie.”
“Bá tước Harken ấy, ngài rất hùng mạnh,” bà cố Venetia miệng nói tay sờ bông hồng lụa màu xanh lá cây gắn trên mái tóc đen của mình.
“Rất hùng mạnh,” bà cô Eustacia đệm nhịp đồng ý, vỗ vào chiếc trâm cài màu xanh lá cây trên ve áo mình.
“Rất mạnh,” bà cô Lucritie rờ một bên bông tai thuỷ tinh màu xanh lá cây lủng lẳng đáp trên vai.
Sự chú ý của Ông cậu Paton bị hút về cái lắc tay bằng đá màu xanh lá cây trên cổ tay nội Bone khi bà ta đưa muỗng súp lên miệng. Ông đứng dậy khỏi bàn. “Các bà làm tôi tởm lợm, tất cả các bà,” ông nói.
“Cảm giác tụi này cũng tương tự,” bà cô Venetia gầm gừ.
Ông cậu chộp lấy vai bà chị lớn nhất. “Grizelda, con trai bà đâu?”
“Chết rồi!” Bà nói, vẩy tay ông ra. “Nào, để chúng tao yên.”
“Không phải!” Ông cậu Paton gầm vang. “Tất cả chúng ta đều biết Lyell không chết. Nhưng mà nó ở đâu? Bộ bà không nhận thấy gã bá tước của bà, cái tên thầy bùa lọc lõi ấy, đang cố làm cho Amy quên chồng cô ấy hay sao?”
“Chừng nào Amy còn nhớ tới Lyell, cô ta còn giữ hắn bám víu vào cái thế giới này,” Eustacia, kẻ tiên tri, nói với ông, “Nhưng nếu cô ta quên chồng đi thì một ngày, một tuần, sau đó một tháng, hắn sẽ biến mất vĩnh viễn. Không bao giờ trở lại.”
“Cô nàng đã tháo nhẫn của cô nàng ra rồi,” bà cô Venetia hể hả.
“Đó là bước đầu tiên,” bà cô Eustacia đế thêm. “Bây giờ chỉ có thằng bé mới có thể giữ cho thằng bố nó thoi thóp thôi.”
“Mà nó thì đến mặt cha cũng chả nhớ,” bà cô Venetia mỉm cười độc địa.
“Sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người nếu Lyell Bone bị quên lãng,” bà cô Lucretia nói, liếc nhìn bà chị lớn của mình.
Gương mặt nội Bone trơ như tảng đá.
Ông cậu Paton trơn mắt kinh hãi nhìn họ. “Tôi không thể tin là mình lại được nghe những điều này. Bá tước sẽ đưa cô Amy vào quá khứ, vào tương lai, Ai biết là đi đâu. Ồ, phải rồi, tôi biết về Gương Thần của Amoret. Các bà thật sự muốn Charlie mất cả cha lẫn mẹ sao?”
“Tụi này hết hy vọng vào thằng Charlie rồi,” nội Bone thẳng thừng. “Có thời bọn ta tưởng nó sẽ theo bọn ta, sẽ đặt tài phép của nó vào việc hữu ích. Nhưng nó quá giống thằng cha nó. Giờ thì ta nhận ra rồi. Không ai trong cha con chúng nó muốn theo bọn ta, muốn là một phần trong kế hoạch vĩ đại, kiểm soát thế giới của Ezekiel. Chúng không chịu phục tùng!”
“Bộ các bà không thấy điều đó là đáng tự hào à?” Ông cậu Paton lẳng lặng nói.
“Đồ ngu!” Nội Bone cay cú. “Đừng hòng có tương lai nào cho kẻ bơi ngược dòng nước. Mi cần phải xuôi dòng nếu mi muốn có quyền lực.”
“Xuôi dòng? Huỷ hoại cuộc đời người ta? Đánh cắp con cái người ta? Đó là những gì các người gọi là quyền lực ư?” Ông cậu Paton quay gót và rời phòng, run lên vì kinh tởm.
Tất cả điều này rồi sẽ kết thúc ở đâu? Ông âu sầu tự hỏi khi leo lên những bậc thang tối thui. Những ngón tay ông nắm phải mảnh giấy da dê trong túi áo và ông sực nhớ rằng vẫn còn hy vọng – nếu tìm thấy nhà vua.
Tại học viện Bloor, nguyên một ngày trôi qua mà cả cô Brown lẫn chú Brown đều không thấy đâu. Charlie bắt đầu hy vọng cha mẹ Benjamin đã đổi ý. Có lẽ họ không đang tâm đi do thám bọn trẻ.
Trong Phòng Nhà Vua tối hôm đó chả ai hé răng lấy một lời. Tất cả đều cắm đầu vào làm bài tập, tuyệt nhiên không đứa nào nhìn vào mắt đứa nào. Cứ như thể một cuộc đình chiến ngầm vừa được tuyên bố, mặc dù Charlie biết là điều đó sẽ không kéo dài. Bọn Joshua, Drocas Loom, hai chị em sinh đôi chỉ đang rình chờ cơ hội tốt và đang vận dụng công lực thôi. Còn về Manfred, chắc chắn ai đó sẽ phải trả giá cho bộ mặt sẹo khủng khiếp của hắn.
Asa không ngồi chỗ thường lệ của nó bên cạnh Manfred, mà hơi tách ra một chút. Kể từ khi cái bóng đến đây, Asa có vẻ căng thẳng, cứ thắc tha thắc thỏm... hệt như một con thú trong đàn thú kia, Charlie nghĩ.
Sau giờ làm bài tập, Charlie đuổi theo kịp Tancred và Lysander trước khi hai anh lớn lên tới phòng ngủ chung của họ. “Ngày mai chúng ta gặp nhau ở đâu đó được không?” Charlie hỏi thầm. “Em cần lời khuyên... à, thật ra là cần sự giúp đỡ của các anh.”
“Trong phòng vẽ, trước bữa tối,” Lysander liếc xuôi hành lang. “Manfred tới kìa,” anh hạ thấp giọng.
Charlie bước lùi lại, “Chúc ngủ ngon, Sander! Chúc ngủ ngon, Tanc!” Charlie la to khi hai anh lớn rảo bước đi khỏi.
Charlie biết mình sẽ không thoát dễ dàng như mấy anh. Ngay tiếp theo, nó cảm thấy một bàn tay nặng trịch đè lên vai mình, nóng bỏng. Charlie nhăn lại đau đớn. “Úi da!” Nó ngước lên nhìn thẳng vào cái mặt lỗ rỗ của Manfred.
“Này, này, chống mắt nhìn kỹ đi,” Manfred hằn học. “Đẹp đấy chứ? Ông cậu mày chịu trách nhiệm cho điều này đấy.” Manfred giơ ngón tay chọc vào hai cái sẹo lớn hơn.
Bị rơi vào tình huống đòi hỏi phải khéo léo, Charlie đáng lý ra phải thông cảm với Manfred, nhưng thay vào đó, nó lắp bắp, “Đó là lỗi tại thầy.”
“Tại tao á?” Manfred đục nắm đấm vào vai Charlie.
“Charlie vặn vai thoát ra. Cơn đau xé gan. Y như một que cời nóng rực đâm vào bả vai. “Úi da! Đó là gì vậy?”
“Tao đã bảo mày trước rồi mà, hãy gọi tao là ngài.” Manfred giơ hai bàn tay lên, chĩa lòng bàn tay ra ngoài. “Cái đó là sự đau đớn, Charlie Bone. Hai bàn tay này chứa đầy sự đau đớn. Đừng có trêu chọc tao kẻo lại khiến tao sử dụng chúng nữa bây giờ.”
Charlie nhìn thò lõ vào tấm lưng của Manfred khi gã thanh niên cao nhòng, xương xẩu bước đi khỏi. Vậy là Manfred có một tài phép mới. Hắn đang trở nên giống như Borlath, con trai lớn nhất của Vua Đỏ, kẻ giết chóc bằng lửa. Tốt hết là loan ngay cái tin tức, Charlie nghĩ.
Buổi tối hôm sau, Fidelio xung phong lãnh phần làm Billy mất tập trung trong khi những đúa khác gặp nhau tại xưởng vẽ. Không phải là chúng không tin Billy, mà bởi vì nhiều đứa có pháp thuật vắng mặt quá thì dễ khiến người ta sinh nghi. Thật ra dùng xưởng vẽ làm nơi tụ họp là khá phiêu lưu. Rất có thể Joshua và Dorcas sẽ đột ngột xông vào. Cả hai đứa chúng nó đều ở khoa Hội hoạ, mặc dầu không đứa nào tỏ ra ham thích vẽ.
Charlie là đứa cuối cùng đến họp. Mãi nó mới xoay xở lẻn ra khỏi phòng ngủ chung được, trong khi Billy và Fidelio cãi nhau với Bragger Braine về việc chuột cống ăn đứt chuột đồng.
Nó thấy bọn bạn ngồi bệt dưới đất bên cạnh dãy cửa sổ dài nhìn ra vườn. Một bức tranh của Emma vẽ một con chim lớn đã che khuất bọn nhỏ – đó một bức tranh hết sức đẹp, Charlie xem xét nó dưới ánh sáng từ chiếc đèn bão mới của Lysander.
“Olivia đã kể cho bọn anh nghe về vụ bức tường,” Lysander nói khi Charlie quỳ gối xuống bên cạnh anh.
“Và bầy ong nữa,” Tancred thêm vào, cười tít.
“Em cho rằng bầy ong đã cứu sống em,” Charlie nói.
“Kể từ bây giờ tụi anh sẽ phải để mắt đến em, Charlie à,” Gabriel đề nghị. “Cái thằng Tilpin nhãi ranh đó đã nhất định ăn thua đủ với em rồi.”
Lysander mang theo một quyển sổ tay. Anh đề nghị cả bọn hãy lập bảng phân công để Charlie không bao giờ phải đi một mình trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên ngày mai, thứ Năm.” Anh mở quyển sổ ra, đặt xuống đất và viết chữ “thứ Năm” ở trên cùng trang đầu tiên.
“Sander,” Charlie ngập ngừng. “Không phải là em lo lắng cho chính em đâu.”
“Ồ, em phải lo chứ,” Tancred nói.
“Em biết, và dĩ nhiên em cũng hơi sợ, nhưng mẹ em mới thật sự là đáng lo. Bằng cách nào đó em phải lấy cho được Gương Thần của Amoret. Nếu không thì em... em...”
“Không thì bồ làm sao?” Emma nhẹ nhàng hỏi.
“Em nghĩ cái bóng sẽ bắt mẹ em ra khỏi thế giới này. Hắn có thể đi chu du bằng chiếc gương, giống kiểu như em vậy. Mẹ em đã bị hắn ếm bùa rồi; mẹ đã quên mặt ba em, mẹ không bao giờ ở nhà; lần cuối cùng em gặp mẹ, mẹ đã nhìn sượt qua em, như thể em không tồn tại vậy.”
Lũ bạn của Charlie lộ vẻ khiếp hãi đến nỗi nó ước chi mình thu lại được những lời vừa nói. Nỗi kinh hoàng dường như đã cướp sạch lời nói của bọn trẻ con, mãi cho đến khi Olivia cất tiếng, “Để tớ làm cho!”
Cả bọn nhìn con nhỏ, và Lysander hỏi, “Làm gì?”
“Để em lấy chiếc gương cho,” Olivia nói, mặt rạng rỡ.
“Em thậm chí còn không biết nó ở đâu cơ mà,” Tancred bảo.
“Chỗ nào có hắn là có nó, đúng chưa nào?” Olivia nói với giọng thực tế. “Charlie bảo bá tước Harken Badlock giờ là quản lý mới của Vương Quốc. Ờm, em biết chắc chắn rằng người chủ cũ sống trong một căn hộ sa hoa ở trên tầng chót của cửa hàng.”
“Vậy em định làm gì? Nẫng chiếc gương ngay trước mũi hắn ư?” Tancred nói. “Đó là chưa kể em có vào được căn hộ gác mái đặc biệt của hắn hay không đấy, khi mà nó được hai tên tay sai đắc lực canh gác nghiêm ngặt suốt đêm ngày.”
“Đừng có giễu đi, Tancred Torsson,” Olivia phản đối kịch liệt. “Chắc chắn em sẽ đợi đến chừng nào tên bá tước đi khỏi. Thể nào hắn cũng sẽ đưa mẹ của Charlie đi du hí cuối tuần trên chiếc limo bóng lộn đó mà.”
“Trông bồ sẽ chẳng ăn nhập gì với Vương Quốc, Liv à,” Charlie nhận xét. “Mình không nói là bồ không bảnh, hay là gì gì, nhưng có điều...”
“Thế mới là chỗ cho mẹ tớ xông vào,” đôi mắt xám của Olivia long lanh phấn khích. “Mẹ tớ mê làm cái gì đó đại loại như thế này chết đi được. Vừa rồi mẹ tớ cũng mới vào một vai gớm ghiếc như thế đấy. Tụi mình sẽ có được coi một màn ngoạn mục. Tin tớ đi. Trông mẹ tớ sẽ cực kì rực rỡ. Đội ngũ nhân viên ở Vương Quốc sẽ lăng xăng xoắn xuýt để làm cho mẹ tớ hài lòng. Tớ sẽ lẻn vô trong khi họ còn đang cúi chào với lại quỳ gối.”
Một quãng im lặng trong khi cả bọn tiêu hoá kế hoạch của Olivia.
“Mình nghĩ ý này tuyệt vời đấy,” Cuối cùng Emma nói.
Tất cả tán đồng.
“Chỉ có một điều,” Lysander nói, “em sẽ để cái gương ở đâu khi mà, à nếu mà em lấy được nó?”
“Nhà em,” Olivia đáp gọn lỏn. “Charlie có thể gặp em ở đó.”
“Tớ nghĩ bọn mình cũng sẽ tới đó luôn,” Lysander nhìn Tancred và Garbiel.
“Tất nhiên,” Tancred nhất trí.
Garbiel gật đầu sốt sắng.
Nguyên đám đứng lên, duỗi cánh tay và ngo ngoe những cẳng chân bị chuột rút vì ngồi lâu. Nhưng Lysander không để cho cả bọn đi về mà chưa lập kế hoạch phân công bảo vệ Charlie. Mỗi phút của mọi giờ nghỉ giải lao đều phải được tính đến. Fidelio sẽ được thông báo về nhiệm vụ của mình trong kế hoạch, ngay khi tụi nó tìm gặp riêng được cậu chàng.
Charlie hơi ngại ngùng trước toàn bộ sự sắp xếp này. Thật xấu hổ khi nghĩ mình không thể tự bảo trọng được cái thân mình. Song, cũng dễ chịu lắm khi biết mỗi bước chân ra ngoài nó sẽ không phải chỉ có một mình.
Kế hoạch của Olivia đầy ắp những nguy hiểm. Có rất nhiều kẽ hở khiến vụ việc có thể chệch choạc, nhưng mà, kỳ nghỉ cuối tuần đã cận kề, tinh thần Charlie đang phấn chấn hơn bao giờ hết. Vụ việc phải thành công. Không thể nghĩ tới thất bại.
Chẳng đứa nào phải biết tính sao với Billy. Thằng nhỏ không muốn ở thêm một cuối tuần nữa trong Học viện Bloor, nhưng nhà của Charlie không phải là nơi tá túc dễ chịu, với một bà ngoại bị đông cứng trong bồn tắm và một bà mẹ bị bùa mê khuất phục. Ngoài ra, không ai nghĩ được tài phép của Billy có thể giúp ích gì cho chiến dịch quá bất trắc này. Thằng bé chỉ tổ vướng chân vướng cẳng mà thôi.
“Billy có thể ở nhà mình,” Emma đề nghị. “Mình không nghĩ mình hữu ích gì nhiều trong vụ này.”
Billy rất háo hức với viến cảnh nghỉ cuối tuần tại tiệm sách cô Ingledew. Không có chó cãi nhau với Rembrandt, chỉ có con vịt hiền lành để trò chuyện. Và dì của Emma lại là một đầu bếp xuất sắc.
Vào lúc mười một giờ ba mươi sáng thứ Bảy, cô Amy Bone ra khỏi căn phòng tầng trên cùng của mình. Charlie chắc hẳn sẽ không thể nào nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của mẹ nếu không cố ý chờ nghe. Khi cô tới chân dãy cầu thang đầu tiên, Charlie bước ra ngoài chiếu nghỉ.
Diện mạo của cô Amy khiến Charlie không thốt được lời nào. Mẹ nó diện áo khoác lông thú hào nhoáng và tóc mượt như lụa vàng. Hai hạt ngọc trai lớn treo tòn teng hai bên tai, còn móng tay thì sơn màu xanh lá cây chói lọi. Tim Charlie hụt mất một nhịp khi nó thấy chiếc nhẫn cưới của mẹ không còn nữa. Mà thay vào vị trí đó là chiếc nhẫn ngọc lục bảo to tướng, sáng chói lói trên ngón tay mẹ.
“Mẹ đi đâu vậy?” Nó nghẹn ngào hỏi.
“Đi chơi.” Cô đi xuống trong dãy cầu thang thứ hai trong đôi giày gót cao chót vót khiến dáng cô nhấp nhô như làn sóng.
Charlie đi theo mẹ, nhưng mẹ nó rời nhà mà không ngoảnh lại lần nào. Charlie chạy bổ vào nhà bếp và ngó trân trối ra cửa sổ khi chiếc limousine vàng choá đỗ xịch bên lề đường. Mất một lúc Charlie mất hết tinh thần đến tê liệt, nhưng rồi, sực nhớ đây là giây phút mình đang trông đợi, nó nhào vô hành lang và gọi điện thoại cho Olivia.
“Alô!” Giọng hớn hở từ phía đầu giây bên kia vang lên.
“Mẹ mình đi rồi,” Charlie thông báo. “Mẹ mình đi với...” Nó ngừng sựng, miệng vẫn còn há ra, nội Bone từ phòng khách xộc vào. “Con không biết nội ở nhà, nội!”
“Không biết hả? Mày đang gọi cho ai đó?”
“Alô! Alô!” Giọng của Olivia nổ lục bục ra khỏi ống nghe. Tất cả những tiết học kịch đã luyện cho con nhỏ một giọng nói rất rành rọt, réo rắt. “Cô ấy đi với ai, tay bá...”
Charlie bịt tay vào ống nghe. “Là bạn con, Olivia ấy mà,” Nó bảo với nội Bone. “Con đang định rủ bạn ấy đi ăn trưa, bởi vì mẹ đi ra ngoài rồi, và con không nghĩ là còn nhiều đồ ăn ở nhà.”
“Mày nghĩ đúng đấy,” bà nội nó nói. “Đi đi, đi mà rủ nó.”
Charlie dí ống nghe sát vào miệng, “Ừm, thì mình đã nói đấy, mẹ mình đi rồi... trên một chiếc xe lộng lẫy.” Nó cười toác hoác với nội Bone, “Vậy thì mình đến ăn trưa nhé? Bà nội mình, bà đang đứng đây này, bảo thế cũng được.”
“Tất nhiên,” Olivia nói bằng giọng khoái chí được kìm lại. “Mẹ mình với mình đã sẵn sàng rồi. Hẹn gặp lại, Charlie.”
Ông cậu Paton đã được thông báo về kế hoạch này, và mặc dù rất lo sợ tụi nhỏ gặp nguy hiểm nếu có gì trục trặc, nhưng ông cũng thừa nhận là kế hoạch đó rất đáng thử, bằng không thì Charlie sẽ mất luôn cả mẹ.
Charlie giật chiếc áo khoác ra khỏi phòng mình và thò đầu qua cửa phòng Ông cậu Paton. “Mẹ con đi rồi, đi với kẻ-mà-ai-cũng-biết đấy, vậy là tất cả hệ thống đã khởi động,” nó báo cho Ông cậu.
Ông cậu Paton ngước mắt khỏi bàn viết. “Chúc may mắn!” Ông bảo. “Ta sẽ đợi.”
Cô Vertigo quyết định mặc áo khoác da màu đỏ bó sát người và đi bốt đen cao gót. Thêm chiếc mũ bê-rê nhung đỏ và túi xách to vàng óng ánh nữa cho hoàn tất lệ bộ. Trông cô đến là choáng. Tuy nhiên, Olivia không muốn nổi đình đám như mẹ. Hôm nay nó đóng vai một tiểu thư rụt rè, bẽn lẽn. Với quần jeans tuềnh toàng, áo khoác vải len thô kiểu lính thuỷ, và mái tóc đã trở về màu nâu nhạt tự nhiên, trông con nhỏ đúng là hiện thân của sự ngây thơ.
“Con có mang theo điện thoại di động của con chưa?” Cô Vertigo hỏi con gái khi họ đến Vương Quốc.
“Trong túi quần con đây rồi,” Olivia đáp.
“Phải hứa gọi cho mẹ khi con gặp rắc rối đấy nhé.”
“Đương nhiên.”
“Hào hứng quá đi mất,” mẹ của Olivia nở với hai gã gác cửa một nụ cười rạng rỡ và họ lập tức nhảy xồ tới mở cửa ra rộng hết cỡ.
Olivia và cô Vertigo bước vào cửa hàng hơi âm u dịu dàng, toả hương thơm ngọt ngào, và đông đến không ngờ.
“Bán giảm giá!” Cô Vertigo reo mừng. “Ôi, Liv, thú vị quá! Chúng ta hãy bắt đầu với khăn quàng cổ chứ nhỉ?”
Olivia theo mẹ sàng tới quầy trưng bày khăn quàng cổ muôn màu sặc sỡ. Cô Vertigo liền thưởng thức thú vui của mình. Cô đã có sẵn bốn cây son bóng từ màu hồng nhạt cho đến đỏ tươi. “Tôi muốn lựa một chiếc khăn tiệp màu với từng cây son này,” cô bảo với người bán hàng. “Chúng phải bằng lụa thiên nhiên, không quá vuông mà không quá dài, và hy vọng, giảm giá chỉ còn nửa giá,” cô chớp chớp hàng mi giả của mình.
Trong lúc một nhóm nhân viên cửa hàng ăn mặc lịch duyệt vây quanh mẹ Olivia, nôn nả, ríu rít mời chào, Olivia lỉnh đi khỏi. Lách len qua đám đông đang săn hang đang trả giá, con nhỏ chạy tới thang máy và nhảy vào, vừa lúc cửa đóng sập lại. Một cặp vợ chồng già mỉm cười với nó đầu kia thang máy. Cả hai đều mặc áo khoác ca rô màu nâu và đội mũ phớt vải nỉ mềm.
“Đôi?” người đàn ông hỏi lớ ngớ giọng nước ngoài.
“Đôi?” Olivia không hiểu.
“Ông ấy hỏi cháu lên tầng hai à,” người phụ nữ già giải thích, thúc vào người ông chồng “Ông ấy hay nói sai lắm. Tiếng Anh của bà khá hơn.”
“Cảm ơn ông bà, không ạ. Không phải tầng hai,” Olivia trả lời.
Người đàn ông lại hỏi. “Ba. bốn?” Ngón tay ông rà rà trên bảng bấm số.
“Đồ chơi,” Olivia đáp
“À, đồ chơi,” người đàn ông thở dài. “Ước gì ta biết nó ở tầng mấy.”
“Nhanh lên, Herman. Chúng tôi đi đây, bái bai.”
Cửa thang máy mở và họ lụm cụm bước ra ngoài, người phụ nữ vẫy tay nhẹ và ông Herman vẫn khổ sở lẩm bẩm về đồ chơi.
Cuối cùng được ở lại một mình, Olivia nhấn một nút không đề số và thang máy vút lên tầng trên cùng của toà nhà. Khi cửa mở, Olivia hé nhìn ra. Cách đó vài mét có một gã đàn ông phương phi đang ngồi đọc báo, bàn chân gã dường như chìm hẳn vào một biển lông màu đen trải khắp, đến tận cùng dãy hành lang dài. Bên cạnh gã đàn ông đó là cánh cửa kính trắng có gắn chữ “Noble” bằng đồng.
Olivia nghĩ nhanh. Cửa thang máy đang bắt đầu đóng. Nó lại nhấn nút lần nữa. Khi cửa thang máy mở ra lại, bỗng nghe có tiếng chiêm chiếp lớn. Gã đàn ông càu nhàu, đặt tờ báo xuống và lao vội tới cuối hành lang, nơi đó một con chim vỗ cánh phành phạch quanh hệ thống đèn chiếu sang.
Olivia vội chạy ra khỏi thang máy, hướng tới cánh cửa đề chữ “Noble”. Cửa không khoá. Olivia lẻn vào trong và nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại sau lưng.
Thảm lông màu trắng ngập tới mắt cá chân, Olivia ngó quanh căn hộ quái dị. “Không có thời gian để dòm ngó, Liv,” nó tự nhủ, trong khi nhìn lướt qua chiếc ngế sofa bằng da ngựa lùn, mấy cái bàn bằng ngà voi và những con chim nhồi bông trông đến phát kinh.
Có hai cánh cửa dẫn ra khỏi phòng khách rải lông. Olivia thử đẩy cánh cửa gần nhất. Cánh cửa mở vào một tủ quần áo rộng thênh thang, có thể đi hẳn vào được. Bộ nào không bằng lông thú thì cũng màu xanh lá cây. Một tấm gương dài treo trên tường. Nhưng không có dấu hiệu gì của chiếc gương nhỏ cổ xưa. Olivia lùi trở ra.
Cánh cửa thứ hai dẫn vào một căn phòng hứa hẹn hơn nhiều. Một cái giường bốn cọc khổng lồ lù lù ngay giữa phòng, phủ kín những tấm tranh thêu trông có đến hàng trăm tuổi.
Làm thế quái nào mà chúng lên được tới đây? Olivia thắc mắc. Cái giường khổng lồ trông như ảo ảnh, một thưa mà chính Olivia cũng có thể làm ra. Ngay lập tức, nó đã có câu trả lời. Cái giường đúng là do phù phép mà thành. Cả cái tủ com-mốt đen thùi dựa vào tường cũng vậy. Chúng không phải là ảo ảnh mà là những vật dụng cổ xưa được mang tới đây bằng ma thuật.
Một cái ghế ghỗ to dềnh dàng dựng ở góc phòng. Trông nó xưa xửa xừa xưa với lưng ghế cao cong gồ lên và hai tay ghế dày bị mối ăn. Olivia đã từng thấy một chiếc ghế như vậy trong viện bảo tàng địa phương.
Lão bá tước cất cái gương ở đâu? Có lẽ hắn không bao giờ để xa khỏi tầm mắt của hắn. Bàn thì trống lốc, còn ghế thì thậm chí không có lấy một miếng lót đệm bên trên. Olivia tiến đến cái giường. Không có gì ở dưới gối hay ở giữa những tấm trải trắng toát, hồ bột cứng. Nó đi đến tủ com-mốt. Bắt đầu từ ngăn kéo trên cùng, nó mở ra, rồi mở tiếp từng cái một.
Rỗng không, rỗng không, rỗng không. Trái tim Olivia chìm lỉm. Nó phải quỳ gối xuống sàn nhà để lôi cái ngăn kéo cuối cùng ra. Cái này rít kin kít và run lên bần bật khi Olivia giật tay nắm, nhưng nó chỉ hé ra được có vài phân. Olivia đút hẳn cả cánh tay vào và khua khoắng lục lọi. Ngón tay nó chạm vào cái gì đó láng láng, dẹp dẹp, ở tuốt trong cùng. Từ từ, Olivia khều vật đó ra trước và lôi khỏi ngăn kéo.
Đáng lẽ ra chẳng có gì ngạc nhiên khi mà món đồ ta hy vọng tìm hóa ra lại nằm ở chỗ mà ta ít mong chờ nhất. Tuy nhiên Olivia sững sờ với khám phá của mình đến mức nó phải ngồi bệt xuống trên hai gót chân và hít thở thật sâu vài hơi liền mới hồi tỉnh để ngắm nghía cái vật đang nằm trên đùi mình.
Đó là một cái gương – rất cổ xưa, xét theo diện mạo của nó. Vòng tròn thủy tinh, nếu ta gọi đó là thuỷ tinh, được khéo léo gắn vào một khung vàng tinh tế. Những hoa văn kỹ xảo được khắc vào vàng: Hình những chiếc lá, những chú chim và hình những sinh vật nhỏ xíu có mắt cẩn đá quý đang nhảy múa. Cán gương hình ô-van dài bằng bạc và vàng xoắn vào nhau, và khi Olivia cầm cái cán, nó cảm thấy một luồng hơi ấm toả khắp người. Từ từ, nó đưa gương lên mặt soi. Không có hình phản chiếu. Mình là ma cà rồng chăng? Olivia chột dạ, nheo mắt vào khoảnh thủy tinh. Mình đang ở đâu đây?
Một màn sương mỏng cuồn cuộn trên bề mặt thuỷ tinh, nhưng dù cố căng mắt, Olivia vẫn không thể thấy gì đằng sau màn sương. Sực nhớ ra sự nguy hiểm của phi vụ, con nhỏ lật đật đóng ngăn kéo lại và nhét tấm gương vào trong túi chiếc áo khoác len thô của mình. Lúc vào nó đã quên không làm cho con chim ảo của mình biến đi, và tự hỏi liệu tên lính gác đã phát hiện ra đó chỉ là ảo ảnh hay chưa. Nó cần phải tạo ra thứ gì đó kịch tính hơn để đánh lạc hướng hắn lần thứ hai. Nhắm mắt lại, nó hình dung khói bốc lên từ tấm thảm len. Nó không quên dặm thêm mùi lông cháy khét lẹt, mà nó phải tưởng tượng ra bởi vì nó chưa ngửi thấy cái mùi đó bao giờ.
Đi nhón gót qua căn hộ, nó áp tai vào cánh cửa chính. Có tiếng chửi rủa đâu đằng xa và tiếng bước chân thình thịch vọng vào tai nó. Nín thở, Olivia mở cửa, lẻn ra và nhẹ nhàng đóng lại ngay. Khói giả đã tạo nên vố lừa. Ở đầu đằng kia hành lang, tên lính gác kinh hoàng đang nhảy bạch bạch cả hai chân trên tấm thảm cháy sém. Ngay khi mảng khói này biến mất thì một mảng khói khác lại xuất hiện.
Olivia chạy bay tới thang máy và nhấn nút. Thang máy đang bận. Nó lại nhấn nữa, nhấn nữa, nhấn nữa.Tên lính nghỉ lấy hơi trong cuộc chiến với tấm thảm. Hắn vò đầu và nhìn xuôi xuống hành lang. Olivia nép rúm vào cánh cửa thang máy. Một tiếng binh lớn, sắc gọn. cửa mở ra và nó lụm chụm chồm vào, hối hả vừa nhấn nút xuống tầng trệt vừa lảo đảo dựa lưng vào bức tường phía sau.
“Ê!” Tên lính gác gọi to.
Nhưng Olivia đang trên đường đi xuống, mừng rơn vì thang máy không dừng lại lần nào cho tới khi xuống tới tầng trệt. Làm ra vẻ tỉnh bơ hết sức, Olivia chạy ù ra chỗ mẹ nó. Mặc dù người đông nghìn nghịt nhưng Olivia chẳng khó khăn gì mà không xác định được cái áo khoác đỏ chói lọi của cô Vertigo. Lúc này cô đang bận rộn ở quầy bán đồ trang điểm. Khi Olivia tới nơi, nó thấy trên quầy sáp lủng củng những kem, phấn, bút chải mascara, chổi và chai lọ.
“Mẹ, chúng ta đi thôi,” Olivia giục.
Cô Vertigo quay qua và thấy gương mặt hớt hải của con gái. “Ờ, ờ,” cô nở với người bán hàng một nụ cười thiểu não. “Xin lỗi, chúng không phải là những thứ tôi muốn. Chả có món nào được cả. Cám ơn cô rất nhiều.”
Người bán hang trợn mắt nhìn đống bừa bộn trên quầy khi Olivia lôi mẹ nó đi khỏi.
“Việc có thành không?” Cô Vertigo hỏi.
Olivia gật đầu.
Vừa ra đến ngoài đường, họ va thẳng vào cô Chrystal, cô này, thật không thể tin nổi, đang nắm tay Joshua Tilpin.
“Cô Chrystal đó à?” Cô Vertigo nói bằng giọng xởi lởi, phô trương quá sức. “Cuộc mua sắm này hay quá, cô nhỉ? Ố, ai đây?” Cô mỉm cười với Joshua.
“Một trong những học sinh của tôi,” cô Chrystal đáp nhẹ hều. “Tên cậu ta là Joshua. Nhà trường yêu cầu tôi đi mua cho nó một chiếc áo sơ-mi mới.”
“Một chiếc sơ-mi đắt tiền cho một thằng bé!” Cô Vertigo nhận xét, nháy mắt tới những cây cột cẩm thạch của Vương Quốc.
Cô Chrystal giả tảng ngó lơ lời nhận xét và hối hả lôi Joshua vào trong cửa hàng.
“Tội nghiệp thằng bé,” cô Vertigo xuýt xoa. “Trông nó lẻo khẻo thương tâm quá.”
“Mẹ đừng có tin như thế, mẹ,” Olivia cặp hẳn cánh tay mình vào cánh tay mẹ. “Làm ơn nhanh lên.”
Charlie đang đứng trên những bậc tam cấp nhà cô Verttgo khi Olivia và mẹ về đến nhà. Nó biết sứ mệnh đã thành công ngay khi vừa trông thấy gương mặt cười cười nhưng lo âu của Olivia.
“Hai mẹ con tớ đã đâm sầm vào Joshua va cô Chrystal,” Olivia bảo với Charlie khi tất cả đi vào tiền sảnh rộng thênh thang nhà Vertigo. “Chắc chắn họ sẽ nghi ngờ và tớ nghĩ tên lính gác đã trông thấy tớ.”
“Hãy cứ hy vọng là không nhìn thấy hắn đi.” Charlie nói. “Cho mình xem cái gương được không, Liv?”
“Đúng đấy, chúng ta cùng xem nào. Cô không chờ nổi nữa rồi,” Cô Vertigo quăng áo khoác lên mắc và đẩy bọn trẻ vào phòng khách.
Olivia rút cái gương ra thì bỗng có tiếng nổ lớn ở trước cửa. Ngay lập tức có hai hình hài xuất hiện bên ngoài cửa sổ kiểu Pháp.
Cô Vertigo thét lên.
“Không sao đâu mẹ,” Olivia nói. “Đó là Tancred và Lysander. Các anh ấy đến để trợ giúp đấy.”
“Và chúng ta sẽ cần các anh ấy,” Charlie nói khi một tiếng nổ nữa rung chuyển cả ngôi nhà. “Xem ra bồ có đuôi bám rồi, Liv.”