Sóng biển xào xạc vỗ vào bãi tuyết khô giòn, dẻ cứng chạy dọc bên lề con đường gập ghềnh. Băng qua chiếc cầu vượt bắc ngang xa lộ, Jonas Concannon cảm thấy rộn lên một nỗi hoài niệm khi vừa nhìn lại ngôi làng thơ mộng nép mình giữa lòng thung lũng. Một chòm mái ngói hiện ra phía trước, tuyết đã tan đi ở những nơi nhô lên các ống khói lò sưởi.
Tháp chuông màu trắng của giáo đường gần như chìm khuất vào trong phông nền của những ngọn núi và những cánh đồng tuyết phủ. Các vòng hoa tuyết choàng khắp cây cối, cả những loại cây thường xanh sum xuê lẫn những cành nhánh trơ trụi của chòm cây thích.
Khi xe của chàng chạy đến đỉnh đồi đằng trước thành phố thì đèn hiệu giao thông chuyển sang màu đỏ. Chiếc xe rung lên vì cú thắng gấp trên sườn dốc của con đường đầy tuyết, Jonas cau mày.
Đèn đường chuyển sang màu xanh, nhưng mấy bánh xe cứ quay tại chỗ một lúc lâu, không thể đi tới hoặc đi lui. Chàng gài số một và chiếc xe có đủ sức kéo để leo qua đỉnh đồi. Một chút hoài nghi điểm trên cái cười nửa miệng của chàng.
Chẳng có gì thay đổi cả. Ít ra là nhìn qua vẻ bề ngoài. Mười năm trước, khi chàng ra đi, Vermont cũng phủ đầy tuyết như thế này đây. Mọi thứ trong làng Randolph có vẻ vẫn như cũ.
Nhưng không thể như cũ được, Jonas nghĩ. Không thể như cũ sau mười năm trời, cho dù trông nó thật giống như trong một bưu ảnh.
Trở vào con đường lớn chạy xuống thành phố, Jonas lái xe chầm chậm qua chiếc cầu đi vào khu thương mại, chàng thoáng thấy một vài gương mặt quen quen trong số những người chen chúc trên vệ đường.
Chàng tự hỏi vì sao mình trở về đây, rồi nhẩm câu trả lời trong trí. Bởi vì chàng cần có một nơi để tránh xa cuộc sống thị thành cùng những yêu cầu của bệnh viện, nơi chàng đang hoàn tất thời gian thực tập nội trú của mình với những ca kíp dài đằng đẵng. Từ khi đăng ký vào đây chàng đã biết là chuyện gì sẽ đến, và chắc chắn là chàng đã làm hết sức mình - nhưng giờ đây chàng sắp kiệt lực. Điều này có lẽ là ai cũng thấy. Chàng cần một thời gian nghỉ ngơi mà chẳng có ai thắc mắc gì nhiều.
Jonas nhìn thấy một bãi đậu xe trống nên cho chiếc xe của mình vào đấy. Chàng đã bảo với Bob và Evelyn Tyler là chàng sẽ đến vào ngày thứ sáu, và đã đến sớm. Có lẽ họ nghĩ là chiều chàng mới đến. Chàng có nhiều thời gian để đi dạo chơi trong phố.
Tuyết đã được cào lại thành đống cạnh lề đường. Chàng phải đẩy mạnh cửa xe mới bước ra ngoài được, và sải dài hai cái chân tê cứng sau bốn tiếng đồng hồ chạy xe. Hơi thở tạo thành đám mây hơi nước khi chàng bước vào trong không khí lạnh, chàng trở lại xe để lấy áo khoác ngắn lót lông cừu nằm ở ghế sau.
Xỏ chiếc áo vào, chàng đóng sầm cánh cửa xe và bước lên trên đống tuyết để đi ra lề đường. Chàng chẳng thèm cài nút chiếc áo mà chỉ thọc hai bàn tay vào hai túi để khép kín đằng trước và bước vào trong phố.
Dửng dưng với nhiệt độ cóng lạnh và bầu trời u ám, chàng đi không chủ đích gì qua các cửa hàng, chăm chăm nhìn vào hàng hóa trưng bày và những người chàng gặp. Chàng nhận ra nhiều người nhưng không có ý bắt chuyện với ai.
Một bông tuyết lớn long lanh bồng bềnh trước mặt, và chàng đưa tay ra bắt lấy theo thói quen đã bị quên mất từ lâu, một công việc mà chàng thường làm cùng với Bridget ngày xưa. Chàng đột ngột dừng lại, nghiến chặt hàm răng nhìn vào bông tuyết trắng tan ra trong lòng bàn tay mình.
Hãy đối diện với sự thật đi, chàng tự nhủ, mình trở về đây là bởi vì nàng. Mình đang lang thang trên phố với chút hi vọng mong manh được gặp lại nàng. Hai bàn tay chàng nắm thật chặt lại, như muốn nghiền nát bông tuyết và những ký ức mà nó gợi ra.
Chàng lại bước đi, chậm rãi hơn trước, hai bàn tay siết chặt bên trong túi áo. Suốt trong mười năm xa cách Randolph, chàng đã không tìm cách liên lạc trở lại, sau khi Bob viết thư trong năm đầu tiên ấy để báo cho chàng biết một tin chẳng vui là Bridget đã lấy chồng.
Thật là hoàn toàn tình cờ mà chàng đã gặp Bob và vợ anh ta ở Manhattan không lâu trước lễ Giáng sinh. Cây thông lớn tại trung tâm Rockefeller năm ấy đã được lấy từ Vermont rồi chở về New York trên một chiếc xe rờ-móoc đáy bằng, nó đã đến đây với những kèn trống và những bản tin rôm rả như thường lệ. Vợ chồng Tyler đã quyết định có mặt tại đây vào thời điểm trọng đại, khi cây thông được thắp sáng, chính thức báo hiệu sự bắt đầu của mùa lễ hội mừng năm mới. Khi ấy Jonas đang vội vã băng qua quảng trường lộng gió, nhưng chàng đã phải chen lách qua những đám người đứng dọc lề đường. Thế rồi một bàn tay đeo găng nắm giữ lấy chàng, và một tiếng reo mừng vui vẻ của Evelyn chận đứng chàng lại ở giữa đường. Ba người sau đó kéo vào trong phố ăn tối, họ ngồi ở một khung cửa nhấp nháy tầng một của Đại lộ số Năm.
Hôm ấy là một cuộc họp mặt ngắn ngủi, và Jonas không thành thật hứa là sẽ đến nhà họ chơi. Chàng đã không hề có ý định đó. Những tháng mười hai, tháng giêng và tháng hai trôi qua với một đám đông bệnh nhân và những rắc rối... rồi đến tháng ba, và ý định của chàng đã yếu dần đi. Chàng phải chịu áp lực quá nhiều của công việc. Một bác sĩ đàn anh khuyên chàng nên nghỉ ngơi và Jonas đã không tranh luận.
Đi không được, mà về cũng không xong. Chàng mỉm miệng cười về cái cách mình tự đánh lừa mình để tin rằng lý do duy nhất của việc mình trở về Randolph là để nghỉ ngơi thư giãn. Tuần vừa qua, khi liên lạc với Bob để báo cho anh ta biết chàng nhận lời mời, Jonas đã đẩy sự đánh lừa mình đi xa hơn khi khăng khăng bảo là đừng để cho ai biết việc đến chơi của chàng. Và chàng đặc biệt yêu cầu là đừng tổ chức một bữa tiệc đón chào ngày về nào cả.
“Tệ thật!”, Jonas lẩm bẩm một mình. Chàng không phải bài bác tiệc tùng, nhưng chàng không muốn có cơ hội gặp lại Bridget giữa đám đông, và đặc biệt không muốn khi một vài ly rượu đắt tiền nổi tiếng của Bob đã làm đờ đẫn đầu óc của chàng. Nhưng đây chính là lý do chàng trở về đây - để được gặp lại Bridget. Chán nản, chàng âm thầm tự nguyền rủa và căm ghét sự yếu đuối đã đưa mình trở về đây.
Dừng chân trước một quầy hàng, Jonas nhìn hình phản chiếu của mình trên mặt khung kính bị phủ mờ bởi hơi nước. Các nhà thơ thường nói gì nhỉ? Người ta không bao giờ quên được mối tình đầu của mình? Có thể là mình đã về đây để đối diện với sự thất bại của bản thân, chàng lí luận, hoặc ít ra là để nhìn thấy những gì đã xảy đến với nàng. Lẽ ra lúc này, mình chẳng nên bận tâm đến chuyện ấy nữa.
Từ khi nghe tin nàng đã lấy chồng trong năm sau khi anh ra đi, Jonas cố hình dung ra nàng với những đứa con tay bồng tay bế, mập thêm khoảng một chục ký, và với một ông chồng... nhưng Jonas không biết gì về người đàn ông mà nàng đã kết hôn. Thậm chí chàng còn muốn xóa bỏ cả cái tên người người đàn ông ấy khỏi trí nhớ của mình. Chỉ cần nghĩ đến người đàn ông lạ kia đang nằm bên cạnh Bridget, vuốt ve làn da mịn màng của nàng, cũng đủ khiến cho chàng thấy vô cùng đau khổ. Một làn sương lạnh bay vào trong đôi mắt Jonas.
Một bàn tay chạm vào vai chàng. “Xin lỗi, có phải anh là...”.
Jonas quay đi. “Chắc bà nhầm rồi”, chàng đáp cáu kỉnh mà không giành ra một giây để nhìn người phụ nữ cao tuổi.
Xấu hổ vì sự thô bạo của mình, chàng bước đi thật nhanh. Những bước chân dài nóng nảy đưa chàng đến cuối dãy phố. Thay vì băng qua, chàng quẹo vào một con đường bên hông vì muốn tránh dòng xe cộ, người quen, và cái cơ nguy bị một ai đó nhận ra mình.
Đi chậm bước lại, Jonas đưa bàn tay lên vuốt mái tóc dày, nâu màu thuốc lá của mình. Chàng thở thật sâu, vừa hít đầy buồng phổi bằng không khí lạnh vừa cố kìm nén dòng cảm xúc chạy qua người mình. Thần kinh và các cơ của chàng đang bị căng thẳng.
Nhìn quanh để xác định mình đang ở đâu, chàng liếc mắt vào cửa hàng gần nhất nơi đó. Như bị sức hút nam châm, cái nhìn ấy bỗng dán chặt vào một ánh tóc màu hạt dẻ phía bên kia ô kính. Trong phút chốc, chàng như ngưng thở vì giật mình nhận ra người ấy.
Đó là Bridget.
Ở nơi đâu chàng cũng nhận ra khuôn mặt nàng, vóc dáng nàng, dù hình ảnh đó có bị nhòa đi sau tấm kính mù sương. Chàng những tưởng rằng khi gặp lại nàng sau mười năm, chàng sẽ cảm thấy nỗi tò mò và có thể là những khát khao của ngày trước. Nay gặp lại nàng thực, chàng như bị giật mình. Chàng đã không dự đoán được một phản ứng cơ thể mạnh mẽ đến như vậy, hoặc những xúc cảm cháy bỏng như thế này. Chỉ một cái nhìn thoáng qua về nàng cũng đủ gợi lại những kí ức êm đềm và mãnh liệt.
Nàng bước đi, biến mất khỏi tầm nhìn của chàng. Jonas biết rằng mình phải thấy nàng gần hơn thế nữa mà không có sự mờ nhạt sau tấm kính mờ sương. Qua tấm kính này nàng có vẻ như không thay đổi, chẳng khác gì với lúc chàng ra đi mười năm trước đây. Chàng không muốn thế. Chàng muốn Bridget biến thành một con người mà chàng đã không còn yêu nữa.
Một tiếng chuông leng keng trên đầu khi chàng mở cánh cửa bước vào bên trong. Bridget xoay lưng về phía cánh cửa, nhưng nàng đã không quay mặt đi. Jonas dừng lại bên trong gian hàng, chăm chú nhìn nàng và cảm thấy sự trôi qua của năm tháng.
Một chiếc áo len chui đầu dày màu xanh lá cây tạo ra cái cảm giác nặng nề, mãi cho đến khi cái nhìn của chàng lướt qua chiếc quần len trắng ôm sát vào người nàng đang mặc. Chàng không thể ngăn được sự ngưỡng mộ cặp đùi thon thả và cặp mông căng tròn chắc nịch của nàng.
Gương mặt nàng đã không thay đổi nhiều sau mười năm. Nàng đứng hơi nghiêng người và Jonas phải thay đổi những cảm nhận của chàng. Cả đến chiếc áo chui đầu nặng nề cồng kềnh cũng không che khuất được sự căng tròn gợi cảm của đôi ngực nàng dưới lớp len dày.
Mạch máu toàn thân bừng bừng bốc nóng và chàng không thể kìm nén nỗi niềm khao khát đang khơi dậy khi nhìn thấy nàng. Đây không phải là cảm giác mà chàng muốn có. Chàng muốn mình phải dửng dưng, thích thú một cách xa xôi rằng mình đã có một thời bị nàng cuốn hút. Chàng thôi không nhìn khuôn mặt trái xoan của nàng nữa và quyết tâm cưỡng lại nét đẹp kinh điển của nó.
Sắc mặt nàng có vẻ xanh xao hơn, nét ngây thơ đã mất, chỉ còn lại sự tươi tắn. Trên môi nàng có một vẻ gì căng thẳng, một đường cong gượng gạo hiện ra khi nàng cười với người đàn bà trước mặt. Jonas còn nhớ lại nét lấp lánh trên đôi mắt màu nâu của nàng. Khi nhìn vào đôi mắt ấy, chàng thấy chúng long lanh sáng nhưng vẫn thiếu một điều gì đó.
Phải một lúc lâu rồi chàng mới nhận ra rằng Bridget không còn nhìn vào người đàn bà đứng trước mặt nàng mà đang chăm chú nhìn vào một cái gì khác. Chàng chuyển cái nhìn mình qua đối tượng của sự quan tâm mạnh mẽ của nàng và bắt gặp hình ảnh của nàng trong một tấm gương đặt ở một góc để cho người bán hàng có thể luôn nhìn thấy ai đang vào tiệm.
Jonas nhận ra rằng Bridget đã nhìn thấy chàng gần như từ khi chàng bước vào trong tiệm. Khi chàng nhìn hình của nàng trong gương thì Bridget cũng nhìn thấy hình của chàng, tấm gương làm đôi mắt họ chạm vào nhau cho đến khi nàng đột ngột né tránh cái đầu của chàng.
Chàng trông đợi nàng nhìn chàng với ánh mắt tha thiết. Nhưng nàng chẳng hề tỏ chút dấu hiệu cho thấy rằng nàng thậm chí đã biết chàng đang ở trong cửa hàng. Tất cả sự chú ý của nàng chỉ tập trung vào người đàn bà đối diện. Giọng nói trầm trầm, ngân vang của nàng mà chàng nhớ rất rõ ấy không phải là đang dành cho chàng.
Sự thôi thúc đi tới giờ phút đối chất sục sôi trong chàng, nhưng chàng kìm nén để cố tình chờ đợi. Chàng cau trán khi nhìn thấy Bridget đi vào phía sau quầy thu tiền, ghi sổ rồi gói nhiều cuộn chỉ cho người đàn bà kia. Đến khi đó chàng mới nhận ra là nàng đang làm việc trong cửa hàng này.
“Nhớ gọi cho tôi khi có thứ chỉ bóng ấy về nhé, Bridget”, người phụ nữ kia nhắc nàng khi bà cầm lấy cái túi và quay ra ngoài cửa.
“Vâng, tôi sẽ nhớ”.
Đến phút cuối cùng chàng mới nhận ra là mình đang đứng chắn lối ra và bước sang một bên, gật đầu chào người đàn bà kia khi bà ta đi qua trước chàng. Bà ta nhìn chàng một cách tò mò mà chàng chẳng hiểu vì sao, cho đến khi nhận ra rằng cửa hàng kim chỉ thường không có nhiều đàn ông ra vào. Cái chuông bên trên cánh cửa leng keng một tiếng ngắn và người phụ nữ kia đã đi khỏi.
Mọi ý nghĩ cho rằng Bridget làm công trong cửa hàng này tan biến khi chàng thấy rằng chỉ có hai người họ với nhau ở đây thôi. Không có khách hàng nào khác. Họ chỉ có một mình, và Bridget không thể làm ngơ với chàng thêm nữa.
“Chào anh, Jonas”.
Thật lạnh lùng, thật bình thản. Jonas thấy bực tức vì sự trầm tĩnh của nàng. Có vẻ như nàng đang chào một người quen biết hờ hững chứ không phải là một người mà nàng đã từng thề ước không bao giờ hết thương yêu. Nhưng dĩ nhiên, Bridget đã hết yêu chàng.
Điều đó được thấy rõ qua chiếc nhẫn cưới bằng vàng trên ngón tay đeo nhẫn của nàng. Jonas có một cảm giác lạnh lẽo dù rằng thậm chí chàng chẳng biết gì về người đàn ông đã đeo chiếc nhẫn này cho nàng. Nhưng con người xa lạ ấy đã được trao cho một số quyền hạn đối với Bridget mà Jonas không thể đòi hỏi.
“Chào em, Bridget”. Chàng bước vào nơi nàng đang đứng trong quầy.
“Trông anh khỏe đấy nhỉ”, nàng nói lịch sự mà chẳng đưa bàn tay ra để chào mừng thân thiện.
Nhưng nghĩ lại, Jonas thấy như thế lại là tốt hơn. Một cái bắt tay có lẽ sẽ là một cử chỉ lố bịch xét trên mối quan hệ trước đây của họ. Chàng giữ hai tay bên trong túi áo, một sự căng thẳng truyền khắp người chàng.
“Em cũng vậy”, chàng khen đáp lại, đưa mắt liếc qua khuôn mặt của nàng. Dò xem nàng đang nghĩ gì - cuộc gặp gỡ này có gây xúc động cho nàng nhiều như mình hay không? - chàng thấy nàng cứng đơ đôi chút trước cái nhìn thân mật của chàng. Nhanh chóng qua cơn căng thẳng, nàng nghiêng đầu hỏi gần như chất vấn.
“Anh trở về Randolph có chuyện gì không?”.
Chàng nhìn vào đôi môi nàng thốt ra những lời nói này và nét cong cuối cùng của nó để biến thành một nụ cười quan tâm lịch sự trước câu trả lời đã được mong đợi của chàng. Chàng nhớ lại sự mềm mại, rung rẩy của đôi môi ấy khi chàng áp môi mình vào. Bên dưới cái vẻ bề ngoài trầm tĩnh kia là niềm đam mê mà chàng biết làm sao để khơi dậy.
Chẳng phải chàng là người đã từng đánh thức Bridget theo kiểu ấy sao? Và chẳng phải là nàng đã đáp lại theo cách của một phụ nữ đó sao? Trong thâm tâm, chàng phải thú nhận rằng nàng chính là nguyên nhân sự trở về của chàng. Đúng vào lúc ấy, chàng cũng nhớ ra rằng một người đàn ông khác đã là người đầu tiên trong cuộc đời nàng.
“Anh về thăm Bob dịp cuối tuần”, chàng giải thích.
“Bob Tyler hả? Phải, anh ấy nói là có gặp anh hôm trước lễ Giáng sinh”. Bridget gật đầu, mái tóc hạt dẻ của nàng ánh lên một màu vàng óng dưới ánh sáng từ trên rọi xuống. “Anh ấy nói rằng anh hứa sẽ đến chơi, nhưng em không nghĩ là anh sẽ đến thật”.
“Em không nghĩ vậy ư? Tại sao?”. Jonas vặn lại, chàng không thích cái ẩn ý mà chàng cảm thấy đằng sau câu nói. Bất chấp sự ngờ ngợ của chàng, các việc diễn ra chứng tỏ chàng đã làm đúng khi rời khỏi nơi này mười năm trước.
Tiếng chuông trên cửa khua to một lần nữa và một người nào đó đóng sầm cánh cửa lại khiến cho tấm kính rung lên. Jonas quay nhìn về phía tiếng động, giật mình vì sự cắt ngang, nhưng chỉ có hai bé gái hào hển chạy qua trước mặt chàng mà chẳng để ý đến ai.
“Mẹ ơi, con qua nhà Vicki chơi được không mẹ?”. Đứa bé nhỏ hơn trong hai đứa hỏi.
Jonas cau mày, chàng chăm chú nhìn vào con bé má hồng đang khẩn khoản nhìn Bridget. Một chòm tóc đỏ nâu ló ra khỏi chiếc mũ kẻ sọc trên đầu, đuôi tóc xõa dài bám quanh cổ nó.
Chiếc mũ này có vẻ như được Bridget đan bằng những sợi len nâu ấm áp rất hợp với màu tóc của con nàng. Jonas hiểu rằng trong thời khắc này, sự gắn bó giữa hai mẹ con nàng hẳn là vô cùng mạnh mẽ - và chàng cảm thấy tội lỗi vì đã quay về cuộc tình đã mất của mình. Chàng không có quyền được ở đây. Chàng không có cái quyền nào cả. Nàng đã có một đứa con, có thể là nhiều đứa, và cả một cuộc sống mà chàng chẳng biết gì về nó cả. Chàng lại nhìn vào đứa con gái của nàng.
Mái tóc màu nâu của con bé hơi sáng hơn tóc của Bridget, nhưng nó cũng có những nét kinh điển giống y như nàng, với đôi mắt màu hạt dẻ và cũng sự mảnh mai như thế. Nó là con của Bridget, chứ không nhất thiết là một hình ảnh thu nhỏ của nàng, nhưng sự giống nhau thật là rõ ràng.
“Kìa, Molly, con không có bài tập ở nhà hay sao?”.
“Không, con làm xong cả rồi”.
“Được, vậy nếu mẹ của Vicki bằng lòng thì mẹ cũng bằng lòng”. Sự cho phép của Bridget được đáp lại bằng tiếng cười rúc rích hân hoan và sự đảm bảo sốt sắng của đứa con gái kia rằng mẹ nó sẽ không phiền đâu”. Quá năm giờ một tí mẹ sẽ đón con ở nhà Vicki. Chờ mẹ ở đó nhé”.
“Vâng, thưa mẹ”. Lời hứa của con bé được thốt lên một cách vui vẻ và thanh thản.
Khi hai đứa bé quay lưng đi ra, chúng mới để ý đến sự hiện diện của Jonas và cùng dừng lại. Cặp mắt hạt dẻ của Molly nhìn chàng chăm chú. Jonas cũng nhìn nó, tìm xem nó còn giống với một người nào khác... cha nó. Sau cùng con bé ngập ngừng nhìn qua Bridget.
“Molly, mẹ muốn con gặp một người bạn cũ của mẹ, bác Jonas Concannon”, lời giới thiệu có vẻ thật miễn cưỡng. “Jonas, đây là Molly, con gái tôi, và bạn của nó là Vicki Smith”.
“À, chào Molly, Vicki”. Chàng gật đầu cộc lốc, vì một lý do nào đó không muốn cho mình nói thêm.
“Chào bác ạ”. Tiếng chào vội vã của Molly được con bé kia bẽn lẽn hùa theo.
“Thôi hai đứa đi đi”. Bridget mỉm cười, và hai đứa bé phóng nhanh qua trước Jonas để ra ngoài cửa, cũng với sự hớn hở như lúc chạy vào.
Jonas nhìn theo Molly cho đến khi nó đi khuất rồi mới nhìn trở lại Bridget. “Trông nó rất giống với em”, chàng bình phẩm một cách dửng dưng.
“Em...”. Có một sự tắc nghẹn trong giọng nói của nàng, và Bridget ngượng nghịu cười xòa. “Em xem câu ấy như một lời khen”.
“Ý anh là thế”, chàng xác nhận. “Nó được mấy tuổi rồi?”.
“Tám tuổi. Tất nhiên Molly muốn nói rõ rằng nó đã gần được chín tuổi. Thật buồn cười là khi người ta còn nhỏ tuổi thì lại cứ muốn cho mình già đi”.
Bridget đưa bàn tay lên để hất nhẹ mái tóc dài chấm vai ra khỏi cổ áo hình tròn của mình, cử chỉ bối rối đầu tiên mà Jonas ghi nhận ở nàng. Một chút thỏa mãn khi thấy rằng nàng không phải điềm tĩnh và thản nhiên như cái vẻ bề ngoài của nàng.
Chàng nghĩ là mình đang khiến cho nàng bối rối. Chàng biết những gì nàng đã gây ra cho mình, chàng biết rõ mà! Chàng dúi hai tay sâu hơn vào trong túi áo.
“Em còn đứa con nào nữa không?”. Đó là câu hỏi đương nhiên, nhưng chàng cứ nhẩm lại nhiều lần trong trí rằng lẽ ra Molly đã là đứa con của họ.
“Chỉ có Molly thôi. Nó sống hạnh phúc, khỏe mạnh, và em thấy mãn nguyện”. Bridget cố nở một nụ cười, hai khóe miệng nàng run run gắng gượng.
Jonas tự hỏi không biết nàng có nghĩ rằng Molly lẽ ra là con của họ hay không, nhưng có lẽ nàng không nghĩ thế. Một người đàn ông khác đã là cha của nó, và Jonas cảm thấy nhói buốt một nỗi ghen tuông không nhầm vào đâu được.
“Ba má em dạo này ra sao?”. Chàng đột ngột thay đổi đề tài.
“Họ đang làm ăn lớn”. Nàng trả lời mà đôi mắt màu hạt dẻ không đáp lại cái nhìn của chàng. “Bây giờ là mùa bận rộn của họ vì nhựa cây đang chảy. Chắc anh không còn nhớ đến rừng cây thích. Giờ đây ba có nhiều đường ống dẫn đi khắp nơi. Như thế hiệu quả hơn là giao hàng bằng xe trượt tuyết như cách thường làm trước đây. Nhưng ba phải mất một thời gian mới lắp đặt được một hệ thống ống dẫn tân tiến hiện đại. Giờ đây ông ấy tự hỏi sao mình phải chờ lâu đến thế”.
“Xi rô cây thích Vermont chính hiệu”. Đó là một đề tài an toàn. Jonas nghiêng đầu về phía sau, nhớ lại. “Đã nhiều năm rồi mình không được nếm một tí nào”.
Không phải mười năm. Jonas đang nhớ về mười một năm trước. Chàng đã tình nguyện giúp Brideget và cha nàng thu hứng nhựa cây vào dịp cuối tuần. Một khi nhựa bắt đầu chảy thì sẽ bận rộn suốt ngày và chàng đã từng có lần tham dự vào công việc ấy.
Jonas nhớ lại mình đã lặn lội qua vùng tuyết lạnh để đến các chòm cây thích lớn trong trang trại cùng với Bridget đi bên cạnh, bàn tay đeo găng của nàng nắm chặt trong bàn tay chàng. Cha nàng đi theo sau cái xe trượt tuyết do con ngựa Morgan kéo, tiếng lục lạc trên cổ nó khua rổn rang trong bầu không khí khô lạnh.
Bầu trời xanh biếc, mặt trời chói chang và những nhánh cằn cỗi của cây thích in hình chằng chịt trên nền tuyết. Cảnh vật này thật mới mẻ trong trí chàng như là vừa mới hôm qua.
“Để xem anh nhớ có đúng không nhé. Những cây thích vào khoảng bốn mươi năm tuổi, và phải lấy bốn cây mới đủ một thùng nhựa”. Rồi Jonas nhắc lại những bài học mà bố của Bridget đã giảng trở lại cho chàng như thể chàng là một đứa con trai thành phố. “Và phải một thùng nhựa mới làm ra được một ga-lông xi-rô cây thích. Không phải búng đầu ngón tay một cái là có xi-rô đâu nhé. Không, phải đun sôi cho nó quánh đặc lại, xem thử nhiều lần cho đến khi có sự cô đặc đúng mức. Sau đó phải lọc, phải phân loại, vào lọ và dán nhãn. Cả một công trình đấy”.
“Anh nói nghe giống ba em quá”.
“Như vậy là tốt hay là xấu?”.
“Em chẳng biết”, nàng lẩm bẩm. “Dù sao nó cũng khiến em nhớ lại ngày xưa”.
Chàng nhìn Bridget, một nụ cười nhẹ làm dịu mềm vành môi rắn rỏi của chàng. “Em còn nhớ ngày ấy hay sao?”.
“Làm sao em quên được?”. Ánh sáng long lanh lại trở về trong đôi mắt nàng, nhảy múa, cười vui, tất cả như chìm trong cái ma lực huyền bí của hồi ức. “Anh đã ném những quả cầu tuyết vào người em”.
“Chỉ là để tự vệ thôi. Tại em cứ nhét tuyết vào cổ áo của anh”. Jonas nhắc cho nàng nhớ lại.
Đôi môi nàng nhoẻn một nụ cười hối tiếc, nhớ lại cách nàng đã chọc ghẹo chàng mấy năm trước. Những quả cầu tuyết chỉ là một phần trong sự trả đũa của chàng. Những gì còn lại đã xảy ra với Bridget khi nàng bị lọt bàn chân trong tuyết và ngã xuống khi cố trốn chạy khỏi chàng.
Nàng cười rũ rượi nằm yên ở đó, không còn sức để vùng vẫy, và Jonas đã cùng nằm với nàng trên chiếc giường tuyết, chỉ cốt làm cho nàng phải im lặng bằng một cái hôn. Không, sự thật không chỉ là thế. Chàng đã muốn làm tình với Bridget tại đây, xa khuất hẳn con mắt của cha nàng hay bất cứ ai khác. Chàng đã sắp xếp cho một cái hôn. Một cái hôn khá kỳ lạ.
Nhưng cái hôn ấy vẫn còn là ngây thơ cho đến khi Bridget cảm nhận được cái nhìn ngầu đục trong đôi mắt chàng và đã có một tiếng rên tùng phục gần như không nghe được. Sau đó chàng còn gặp riêng Bridget một lần nữa trong một chòi nhỏ thật xa nhà của cha mẹ nàng, sau khi nàng đã lẻn ra để đến với chàng. Không còn vẻ ngây thơ trong nụ hôn thứ hai này, và trong các nụ hôn thứ ba, thứ tư. Jonas nhớ lại là mình đã len lách qua những lớp áo ngoài mùa đông dày mo của nàng để đến được với tấm thân thể đàn bà mảnh dẻ bên trong.
Nhưng không phải để tìm sự thỏa mãn ở đây. Chàng muốn được cảm thấy sự mềm mại ấm áp của da thịt nàng, và nàng để mặc cho chàng làm theo ý thích... chừng nào cả hai cùng thấy ham muốn. Có lần Jonas đã muốn dừng lại, tưởng chừng như nghe tiếng cha nàng đang đi tìm họ, tiếng lục lạc rổn rang của con ngựa báo cho họ biết ông đang đến gần.
Chính Jonas cũng e ngại vì chàng yêu nàng quá nhiều. Nhưng chàng không thể kiềm chế mình được, không thể tin là mình yêu nàng đến thế. Sau đêm hôm ấy, chàng có cảm giác là bố nàng đã biết chuyện gì xảy ra, đã biết là họ đã đi xa hơn là sự nô đùa trong tuyết, nhưng ông ta đã không nói gì.
Cuộc hẹn hò trong căn lều nhỏ là cuộc hẹn đầu tiên trong nhiều cuộc hẹn khác mà Bridget đã đưa Jonas từ từ và thích thú ra ngoài sự tự chủ của chàng. Có những giờ phút mà chàng biết chắc rằng nàng thích thú vì đã làm cho chàng cuồng dại vì ham muốn nàng.
Đó chỉ mới là sự khởi đầu. Nhưng đã có khởi đầu thì cũng phải có kết thúc. Cho đến giờ đây, Jonas nghĩ là giờ phút ấy đã kết thúc, vào lúc mà chàng thấy ham muốn nàng hơn bao giờ hết từ trước đến nay.
Giằng kéo cái nhìn chằm chặp của mình ra khỏi cặp môi run rẩy của nàng, chàng thấy rằng Bridget cũng cảm nhận được điều đó. Điều đó được thấy nơi cái góc sầm tối trong đôi mắt màu hạt dẻ của nàng, sự dằn vặt ngọt ngào của những ham muốn thể xác.
“Bridget”. Giọng nói khàn khàn của chàng gọi tên nàng với sự khát khao tha thiết.
Nàng nhìn đi nơi khác, hít một hơi sâu và rùng mình thở ra. “Chuyện ấy đã xa xưa rồi, Jonas ạ”.
“Xa xưa à?”. Chàng nói cộc cằn, không hiểu làm sao nàng lại có thể kiềm chế cảm xúc của mình trong khi chàng lại không kiềm chế được.
“Em... Ồ, xin lỗi, có ai trước cửa”. Muôn nghìn cám ơn Dorothy Pomfret, Bridget nghĩ. Dotty tạt vào bất cứ nơi đâu bà thích và ngồi lên xe của bất cứ ai mời. “Xin lỗi, người giao hàng của em”. Ngoại trừ giây phút ngập ngừng ấy, Bridget trở lại lạnh lùng và điềm tĩnh như trước.
Liếc nhìn bực bội về phía cửa, Jonas thấy một bà già với bím tóc xám dày, khoác một chiếc áo màu sặc sỡ, rủ mềm, chân đi đôi giày ống và mang những túi vải bạt căng đầy các cuộn chỉ len. Bà ta chỉ còn cách cửa vào một bước. Chàng tức thời quay trở lại phía Bridget với cái nhìn cứng cỏi và nghiêm khắc. “Đuổi bà ấy đi đi”, chàng ra lệnh. “Bảo với bà ấy là hôm nay em đóng cửa sớm”.
Nét bướng bỉnh trên cái cằm của nàng đã cho chàng câu trả lời trước khi nàng nói. “Em không nên làm thế, Jonas”, nàng bình tĩnh. “Không phải là không thể, mà là không nên”.
Cánh cửa gian hàng mở ra rồi đóng lại với tiếng leng keng của cái chuông phía trên.
“Chào bà Dotty”, Bridget nói.
“Xin chào”. Bà lão liếc nhìn Jonas, rồi quay sang Bridget.
Chỉ một cái nhìn ngắn của bà nhưng chàng có cảm giác rằng mình đã bị bắt bài trong chớp nhoáng. Jonas cảm thấy một sự khôn ngoan sắc sảo ở bà Dotty trái ngược với cách ăn mặc xốc xếch khó coi của bà.
“Cô có nghe bản tin thời tiết không?”. Bà hỏi Bridget.
“Không, tôi không nghe”.
“Này nhé, tôi không thể ở đây lâu. Sắp có tuyết rơi rồi đó”, bà lão nói lớn, rồi bâng quơ nhìn quanh gian hàng. “Mấy con cừu đã cho tôi biết. Chúng không chịu rời khỏi chuồng”.
Jonas thở dài một mình. Giây phút trọng đại của chàng đã bị cắt ngang bởi một bà già nói về chuyện đàn cừu. Vermont vẫn còn đầy rẫy những con người kỳ quặc và lập dị như thế. Chàng nhìn trở lại Bridget, nàng đang tập trung chú ý vào người đàn bà tóc bím.
“Cô xem đây”, bà lão nói và đưa lên một túi vải bạt căng đầy những cuộn len. “Tất cả cùng một lô nhuộm, cho nên màu sắc rất hợp với nhau”.
“Tốt quá, rất cám ơn bà”. Bridget cầm quai nhấc chiếc túi lên và nhìn vào bên trong. “Ôi chao, tuyệt vời. Bà dùng thuốc nhuộm thiên nhiên đấy chứ, phải không?”. “Phải”
“Tất cả các thứ này có thể bán ngay được đây”.
“Tốt. Tôi đang cần tiền”, bà Dotty nhanh nhảu. “Người khách ấy là ai vậy? Ở gần đây à?”.
Phải mất một giây Jonas mới nhận ra rằng bà ta không phải ám chỉ chàng. Bà ta chỉ muốn hỏi xem lô hàng len thủ công của bà được bán cho ai, chỉ có vậy thôi. Chàng quên mất rằng một thành phố ở Vermont vốn rất nhỏ. Ớ đây ý thức cộng đồng vẫn còn rất mạnh mẽ, khác với sự lạnh lùng, hờ hững của Manhattan.
“Không phải”, Bridget nói. “Một bà ở tận Stowe, miền bắc. Bà ta muốn may một tấm chăn cho hợp với các tấm trải giường của bà và đã gởi mẫu cho tôi. Một màu lục nhạt phơn phớt như thế này hẳn là tuyệt vời”.
Bà Dotty Pomfret cau mày. “Ý tôi thì tôi gọi đó là màu rêu. Hoặc có thể là ngọc bích”.
“Sao cũng được. Miễn là bà ta chịu mua”.
Người đàn bà kia gật đầu. “À, nhân tiện tôi muốn lấy một ít sợi đay. Cô để ở đâu vậy?”.
Jonas đâm ra bực bội. Chàng muốn bà ta lẹ lẹ rồi đi. Chàng quan sát gương mặt Bridget trong khi nàng ta rõ ràng là không để ý đến chàng. Nàng là chủ tiệm này hay chỉ là người làm công? Phần nào cái vẻ thành thạo, đảm đang của nàng ở đây khiến chàng nghĩ rằng nàng là bà chủ. Chàng nhìn vào cái kệ đóng theo yêu cầu. Một người thợ mộc - chồng nàng? - khéo tay đã làm ra cái kệ này. Những món hàng trưng bày khá hấp dẫn kia nhất định là những tác phẩm của nàng. Chàng tình cờ nhìn vào các tấm danh thiếp nơi cái hộc nhỏ gần bên quầy thu tiền và thấy một danh thiếp của nàng. Nàng là chủ gian hàng này. Chàng muốn hỏi rõ thêm nữa, nhưng bà lão với bím tóc bạc có vẻ như muốn chiếm độc quyền sự chú ý của Bridget.
“Ở trên cái kệ gần bên chỗ bày cây đan ấy, nhưng có nhiều loại. Bà muốn tìm loại nào?”, Bridget hỏi.
Jonas nghiến răng. Kiểu nói chuyện cà kê của ấy bà già có thể kéo dài đến bất tận. Gian hàng ấm cúng này có những chiếc kệ và thùng hàng đầy những len sợi, vải vóc cùng những vật liệu khác để thêu đan cho hết thì giờ suốt những mùa đông đằng đẵng.
“Tôi không biết nữa”. Bà kia nhún vai, thò tay vào trong túi áo để tìm một mẩu giấy nhỏ. “Tôi lấy giùm cho cô em tôi. Elizabeth đã viết ra đây những gì nó cần. Hừm, thứ gì không phải từ con cừu mà ra thì tôi chẳng biết là thứ gì. Tôi chỉ biết len thôi. Cô ấy nói về vật liệu trang trí”.
Jonas muốn trợn mắt lên nhưng rồi lại thôi. Thêu đan không phải là nghề của chàng.
“Để tôi lấy giúp cho bà”. Bridget từ sau quầy bước tới trong khi người đàn bà kia hướng về cái kệ mà nàng đã chỉ.
Một cơ hội cuối cùng. Bà lão Dotty không thể thấy họ. Jonas quay người lại để chắn lối Bridget, chàng ôm lấy đôi vai để giữ nàng lại trong khi nàng định lách qua trước chàng. Bridget cương quyết kháng cự, quắc mắt nhìn chàng bực tức.
“Tối nay đi ăn với anh nhé”. Lời mời có vẻ lưng chừng giữa một mệnh lệnh và một sự van xin. Mấy ngón tay chàng ve vuốt trên vai nàng. “Hãy vì chuyện ngày xưa”.
Một sự thôi thúc bảo chàng kéo nàng vào trong ngực mình và hôn nàng, nhưng Jonas không thể làm thế được, không thể được sau mười năm trời, và không thể được sau cái tình huống ra đi của chàng, bất chấp những gì xảy ra trong thời gian ấy.
“Không được đâu, Jonas”. Bridget cương quyết nhấc hai bàn tay chàng ra khỏi vai mình. Lạnh lùng, nàng còn nói thêm, “Chúc anh chơi vui dịp cuối tuần này. Em biết Bob và Evelyn sẽ rất mừng khi anh đến”.
Với sự từ chối sau cùng, nàng lách qua bên cạnh chàng. Chiếc nhẫn cưới bằng vàng lấp lánh trên bàn tay trái của nàng, và Jonas tự trách mình đã quên mất sự hiện diện của nó. Chàng dõi theo khi nàng mất hút đằng sau vách ngăn mà không liếc mắt nhìn trở lại.
Chàng đã tự biến mình thành một thằng ngốc. Lẽ ra không nên quay lại. Đã nhiều năm từ khi chàng ra đi, và tro đã lạnh. Giờ đây đã quá muộn để thổi lên ngọn lửa tình yêu. Nàng đã có chồng. Một người đàn ông khác đã thế chỗ của chàng.
Jonas lao nhanh ra khỏi gian hàng mà không liếc nhìn trở lại. Đi nửa đường tới chiếc xe thì không khí miền núi đã làm nguôi đi tâm trạng của chàng và làm cho bước chân chàng chậm lại. cầm chiếc chìa khóa trên tay, vừa chạm vào cánh cửa xe thì chàng liếc thấy tấm ván trượt tuyết trên mui.
Quyết định thật nhanh, chàng quay đi để bước vào một tiệm thuốc tây. Chàng không có số điện thoại của vợ chồng Tyler trong máy di động của mình, nhưng dám chắc gia đình Tyler thế nào cũng có tên trong danh bạ điện thoại địa phương. Cái quầy cũ kỹ với cánh cửa xếp nằm ở phía sau tiệm thuốc. Ngộ thật. Máy điện thoại ở đây còn dùng số quay. Jonas hi vọng là nó còn hữu ích cho mình. Chàng lục lọi một hồi lâu trong cuốn sách mỏng cho đến khi tìm được tìm được con số mình cần. Bỏ đồng tiền vào khe, chàng quay số rồi chờ đợi.
Một giọng đàn ông trả lời và Jonas nói ngay. “A lô, chào Bob, Jonas đây”.
“Jonas! Bạn đấy ư? Evie đã dành sẵn một phòng cho bạn và đang làm bữa ăn tối chờ bạn đây”. Ngưng lại một lát rồi anh ta nói thêm, “Evie không muốn nghe chuyện xe hỏng của bạn đâu nhé. Không thể lấy lý do gì để bỏ bữa ăn tối hôm nay đấy”.
“Này, Bob, mình xin lỗi”, Jonas vội nói ngay, “nhưng có một chuyện xảy ra. Mình không thể làm khác được”.
“Bạn không bảo tôi tin vào chuyện ấy đây chứ?”, Bob cười. “Nàng là ai? Tóc vàng hay tóc nâu?”.
Jonas không khẳng định mà cũng không bác bỏ rằng quyết định của chàng có liên quan đến một người phụ nữ. “Cho tôi khất lại lời mời của bạn, Bob, một lần khác tôi sẽ đến chơi”, chàng nói dối.
“Bạn đến lúc nào cũng được hết, bạn biết mà”.
“Mình đã cho bạn số điện thoại của mình ở New York rồi phải không? Và số nơi làm việc nữa?”.
“Có rồi”.
“À, vậy thì khi nào trở lại Manhattan, hãy gọi cho mình nhé”, chàng lịch sự mời.
“Có thể là tháng tới. Evie đã nói về chuyện trở lại đấy từ chuyến đi hồi tháng chạp của chúng tôi. Nàng muốn mua sắm vài thứ quan trọng ở đây”.
“New York đúng là nơi để mua sắm như thế”.
Bob rền rỉ. “Thế mà mình chẳng biết. Thôi được, Jonas. Rất tiếc là vợ chồng mình không được gặp bạn. Hãy cẩn thận và đừng làm điều gì mà mình lẽ ra đã không nên làm”.
Vài phút sau, Jonas đã ngồi sau tay lái chạy ra khỏi thành phố này. Có lẽ khi về mình sẽ gọi cho Eileen, chàng nghĩ một cách hờ hững. Chàng đã không gặp cô ta một thời gian rồi, không phải là từ trước lễ Giáng sinh. Gặp phải những người nhà Tyler tại New York có nghĩa là kí ức về Bridget đang sống dậy trong chàng như trước đây vậy.
“Chán thật!”. Chàng bực tức đấm mạnh trên tay lái và nhăn mặt.
Khi đã bắt đầu nói chuyện thì bà Dotty chẳng hề ngừng lại, Bridget nghĩ. Nàng lơ đãng nghe trong khi vừa lật nhanh cuốn danh mục các nguồn hàng thủ công. Bà Dotty chỉ vào thành phố trong mùa đông khi được mấy người hàng xóm cho đi nhờ xe. Chiếc xe tải nhỏ của bà thường không chạy được khi trời lạnh.
Mấy chị em nhà Pomfret sống một mình trong một trang trại đổ nát mà họ không có tiền để sửa chữa lại. Thỉnh thoảng họ bán vài thửa đất cho những người từ xa muốn tìm nơi xây thêm một ngôi nhà thứ hai ở vùng Vermont thơ mộng, họ sống qua ngày nhờ vào đó và vào khoản thu nhập của bà Dotty qua việc xe sợi và nhuộm len lấy từ đàn cừu khó tính của bà. Bà là một con người thật thà, nhưng khách ở cửa hàng sẵn lòng trả giá cao hơn cho các cuộn len của bà.
Bridget thầm cám ơn khi sự xuất hiện đột ngột của bà đã cắt ngang cuộc thăm viếng ngắn của Jonas.
Jonas Concannon. Một trong những người từ nhiều nơi khác đến đây. Vì sao chàng đến và đến bằng cách nào, thậm chí nàng chẳng buồn suy đoán nữa. Chàng ta đã nhìn vào nàng quá mãnh liệt, như đang uống lấy nàng sau bấy nhiêu năm xa cách. Giữ sự bình tĩnh và phải cố gắng lắm, Bridget hi vọng là mình đã tỏ ra thờ ơ. Đừng nên để cho chàng biết rằng việc gặp lại chàng đã khiến cho tim nàng đập nhanh như hồi mười chín tuổi và chàng đã trao cho nàng nụ hôn đầu tiên. Rồi mọi việc xảy ra sau đó... nàng không muốn nhắc tới nữa. Chuyện ngày xưa là ngày xưa. Chuyện bây giờ là bây giờ. Nàng đã có cuộc sống riêng, nàng đã có một đứa con. Jonas dứt khoát không phải là một phần trong cuộc đời nàng.
Phải chăng chàng đã tìm nàng trên mạng, thấy được trang web của nàng, nên đến đây? Nàng đã không hỏi và cũng chẳng có cơ hội để nói. Bridget nhìn quanh gian hàng thân yêu của mình, gian hàng mà nàng đã gầy dựng thành cơ sở thịnh vượng để nhận đơn đặt hàng từ khắp mọi miền đất nước.
Những người thêu đan chuyên nghiệp đã loan truyền rộng về các loại len của nàng, và công việc vẽ mẫu chăn mền cho khách hàng mà nàng thêm vào đã làm gia tăng lợi nhuận, đến mức hiện nay nàng đang có cuộc sống vững vàng và không phải lệ thuộc vào cha mẹ mình. Năm nay thậm chí nàng còn thuê thêm người phụ việc, dù lúc này chẳng thấy bà Dutton đâu.
Có lẽ bà qua quán bên cạnh để nhâm nhi cốc cà phê với miếng bánh ngọt. Bridget không thể trách bà. Mùa đông dài đang kết thúc và những người dân Vermont đang thức dậy sau giấc ngủ mùa đông. Nàng thở dài vì thấy mình vẫn còn nghĩ về Jonas. Với sự có mặt của bà
Dotty, Bridget đã không muốn giải thích chàng là ai hoặc bộc lộ cho thấy sự hiện diện của chàng đã tác động đến nàng về mặt tình cảm ra sao.
Rồi khi Molly chạy vào và nhìn hai người họ bên nhau - gần như nàng không chịu nổi. Lẽ ra Bridget đã bảo Molly qua nhà Vicki chơi nếu Molly không xin. May mắn thay giây phút gặp nhau của họ chỉ ngắn ngủi thôi.
Bridget liếc nhìn bà cụ già đang lang thang các nơi trong gian hàng, có lẽ muốn tìm một việc gì đó để làm mà quên mất trận mưa tuyết sắp đến. Thêm vài người vào trong cửa hàng khiến Bridget khuây khỏa được một lúc những ý nghĩ rối beng về Jonas.
Nếu không phải vì những mùa đông dài đằng đẵng, nàng đã không bao giờ bước vào cái nghề này, Bridget vừa bán hàng cho khách vừa suy nghĩ. Dĩ nhiên với việc ai ai cũng mở mạng vi tính như ngày nay, họ đang làm tốt hơn là Bridget mong đợi. Thực vậy, đôi khi nàng cảm thấy muốn ngưng công việc này, nhưng không được. Nàng đã quyết không làm việc với e-mail vào những dịp cuối tuần - ma lực của màn hình vi tính khiến nàng cứ ngồi rịt trên chiếc ghế quay, nhưng ngay sau đó Bridget đã đi ra ngoài cùng với Molly để đi bộ hoặc cưỡi ngựa qua các cánh rừng xung quanh khu đất nhà họ. Đứa con gái của nàng đang lớn quá nhanh.
Đó có thể là do con bé không có người cha bên cạnh. Nhưng gian hàng giúp cho Bridgret có những thời gian dành cho Molly. Nó thường lưu lại đây sau giờ học và thích tự mình có những kế hoạch riêng. Họ đang cùng may một bộ mền mẹ-con, mỗi tháng xong một bộ. Bridger thực hiện những hoa văn theo hình vẽ của Molly. Đến nay họ đã làm xong được ba bộ: một bộ bông tuyết đơn giản cho tháng giêng, một bộ quả tim cho tháng hai, và cây nghệ tây màu nhạt cho tháng ba. Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ và tự trấn an rằng có những cụm hoa bên dưới lớp tuyết, đang chờ tuyết tan... và sự ẩm ướt không sao tránh khỏi của một mùa xuân New England.
Bridget nhìn lên đồng hồ. Năm giờ kém năm. Gần đến giờ đi đón Molly. Bà Dutton hối hả bước vào, đôi tay đeo găng ôm những túi hàng.
“Xin lỗi nghe cưng. Họ đang bán xúp cà chua và em cũng biết là Elwood thích món này như thế...”. Bà vừa nói lắp bắp vừa giấu cái túi hàng đàng sau quầy, cởi bộ đồ ấm ra và vẫy tay với các khách hàng. “Xin chào, có phải Dotty đó không?”.
Người đàn bà với bím tóc bạc nghe gọi tên mình liền bươn bả đi tới, tiếng áo soàn soạt và tiếng giày ống nện thình thịch. Bridget rời khỏi chiếc ghế và tìm chiếc áo choàng cho mình, nàng mừng rỡ để mặc cho bà Dutton tán gẫu với bà Dotty một lát. Nếu người đã đưa bà Dotty ra phố không thấy xuất hiện thì bà Dutton cuối cùng sẽ chở bà già này về nhà. Ớ đây người ta sống thật quan tâm và chân thành với nhau.
Nàng lái xe đi đón Molly bên nhà bạn của nó, vừa đi vừa nghĩ đến Jonas. Đậu xe bên lề đường và bằng một cuộc gọi di động, nàng khỏi phải băng qua đống tuyết và bấm chuông. Molly chạy ào ra, nhảy vào xe, đặt một nụ hôn thơm mùi kẹo dưa lên má của mẹ nó.
“Chào cưng”. Nàng chưa cho xe chạy vội mà muốn xem chắc chắn là con mình đã cài dây an toàn rồi mới cho xe rời khỏi lề đường. Molly thường hay quên những chuyện như thế, nhưng Bridget thì không. Nàng chỉ có một đứa con và không thể có thêm một đứa nữa.
Không nghe tiếng cài đánh tách, “Mẹ đang đợi con đấy”, Bridget nói lạnh lùng.
“Ồ, mẹ”, Molly nói. Nhưng nó đã phải tuân lời, xếp hai bàn tay trước bụng sau khi dây đai đã được cài nút. “Con và Vicki đã thêu xong cây nghệ tây”.
“Vicki và con chứ”, Bridget chỉnh lại.
Molly gật đầu. “Thì con đã nói thế. Con và Vicki. Nhưng có một vài mũi khâu trông không đẹp cho lắm”.
“Các con có thể sửa lại. Có sai thì mới học được chứ”. Trong cuộc đời mình chắc chắn là nàng đã có vài sự sai lầm, và khi ấy nàng đã lớn tuổi hơn Molly nhiều, Bridget nghĩ. Nàng tự cho phép mình nở một nụ cười hối tiếc mà trong bóng tối lờ mờ, Molly không thể nhìn thấy được.
“Con không muốn sửa đâu. Trông cũng khá đẹp mà. Mình có thể bắt đầu một bộ mền mới cho tháng tư được không mẹ?”.
“Được chứ. Con muốn thêu hình gì?.
Molly đắn đo suy nghĩ. “Mưa. Tháng tư đầy mưa mẹ à”.
Bridget bật cười khi cho xe chạy khỏi nhà Vicki. “Thế còn những quả trứng tô màu, những con thỏ sô-cô-la và những chú gà con búp len thì sao?”.
“À phải. Con quên mất lễ Phục sinh nhỉ”.
Bridget xốc vào tóc nó. “Mẹ thì không quên. Mùa xuân đang đến đó con. Hãy đợi rồi xem”.