Biệt viện ẩn cư giữa vùng núi non, yên bình tựa tiên cảnh chốn trần gian.
Đám cận vệ
canh giữ bên ngoài, thị nữ hầu hạ bên trong, đều là các nam nữ trẻ tuổi. Đi đi lại lại trên hành lang, những khuôn mặt quen thuộc, thỉnh thoảng
ánh mắt họ chạm nhau, đôi má thêm hồng, trái tim thêm loạn nhịp. Hương
vị mùa xuân đã vương vất đâu đây.
Thấy Túy Cúc bầu bạn với Sính Đình, Hồng Tường vui mừng trốn ra ngoài chơi. Sính
Đình và Túy Cúc cũng chẳng buồn để ý đến nha đầu ấy.
Tuyết đã bớt rơi, mặt trời ấm áp xuất hiện trên cao, vùng đất lạnh lẽo tí tách, tí
tách dần hóa thành những cánh đồng nước. Sợ Sính Đình trượt chân, mỗi
khi nàng ra ngoài dạo, Túy Cúc đều đi theo như hình với bóng.
“Cẩn thận dưới chân, cẩn thận trượt đấy.”
Sính Đình
dạo bước trong hương mai thoang thoảng, nàng bẻ cành hoa, quay lại cười
với Túy Cúc, “Ta đi một bước, ngươi nhắc một câu. Phí lời như thế chi
bằng lại đây giúp ta.”
Túy Cúc đành bước qua, kéo cành mai xuống giúp Sính Đình. Nàng chọn những nụ hoa mới hé, cẩn thận hái xuống.
“Chẳng phải bẻ hoa để cắm trong phòng sao?”
“Không”, đôi mắt thông minh sáng lấp lánh, “Làm món ăn.”
“Làm món ăn?”
Dùng những nụ mai mới hé? Thật khiến người ta nghĩ tới việc “đốt đàn, nấu hạc.”[1]
[1] Ý chỉ lãng phí những thứ đẹp đẽ, có giá trị.
Sính Đình
thích thú, nhẹ nhàng đặt những bông hoa mai vừa hái được trên đĩa, nói:
“Ta bỗng nhớ tới một cuốn sách đã đọc trước kia, trong đó nói đến việc
ướp hương hoa mai, một cuốn sách cổ khác lại nói hoa mai có thể dùng làm thuốc. Ta định lấy nụ mai làm theo cách của Quy Lạc, thêm rượu Thiệu
Hưng, đường trắng, muối thô, cuống cải thảo, cho tất cả vào hũ, đậy kín, lấy bùn trét bên ngoài rồi cho vào hun, đợi đến lúc Vương gia trở về là có thể mang ra nếm thử.”
Túy Cúc líu
lưỡi, vội vàng nhắc nhở: “Túy Cúc chưa từng nghe sư phụ nói đến việc
dùng hoa mai làm thuốc, cũng không biết công hiệu thế nào. Vương gia nếm thử thì được, Bạch cô nương tuyệt đối không được tùy tiện.”
“Ta biết rồi. Giờ ngày nào ta chẳng ăn uống nghỉ ngơi theo sự chỉ bảo của Túy Cúc thần y.”
Tâm tình tốt đẹp, Túy Cúc lại bồi bổ đúng cách, nên sắc mặt Sính Đình đã khá hơn nhiều.
“Tiếc rằng
giờ là mùa đông, không nhiều loại hoa. Đến mùa xuân và mùa hạ, ta có thể làm thêm vài món từ hoa tươi. Chỉ riêng hoa thược dược, ít nhất cũng có năm cách chế biến rồi.” Sính Đình hái một lúc, trán lấm tấm mồ hôi.
Trong bụng mang cốt nhục của Sở Bắc Tiệp nên không dám cậy khỏe, vừa
thấy mệt, nàng đã đưa đĩa hoa trong tay cho Túy Cúc. Hai người cùng trở
về phòng.
“Trời sắp tối rồi.”
Sính Đình nhìn áng mây xán lạn phía chân trời xa xa: “Vương gia… chắc đã nhận binh phù.”
Nàng đoán đúng một nửa.
Sở Bắc Tiệp đã nhận binh phù, nhưng chưa lên đường trở về.
Chàng lặng lẽ trông coi điện của Lệ phi, ngoài mặt vô cùng bình tĩnh, nhưng trong lòng như lửa đốt.
Hôm thứ năm, chàng đã lỡ mất ngày về.
Sính Đình đang chờ Sở Bắc Tiệp về để cùng đón sinh thần của chàng, không biết nàng sẽ thất vọng đến mức nào?
Chàng không nhẫn tâm tưởng tượng vẻ thất vọng ngập đầy đôi mắt ấy.
“Vương gia có thể ở bên thiếp không? Ngày mai sẽ có tuyết, hãy cho thiếp được đàn vì Vương gia, cùng Vương gia thưởng tuyết…”
Nàng đã thất vọng một lần.
Nàng sẽ phải chịu đựng thêm lần nữa.
Vương huynh, Vương tẩu, Lệ phi, Sở Tại Nhiên, mọi người đâu hiểu rằng, tiếng đàn của nàng, giọng ca của nàng, mười ngón tay thon nhỏ của nàng, bờ môi nhợt
nhạt của nàng, dáng vẻ tao nhã của nàng, tất cả khiến Sở Bắc Tiệp khổ sở nhớ nhung đến nhường nào.
Vương cung hùng vĩ mà trống rỗng, sơn hào hải vị, mỹ nhân vô số, nhưng chẳng thể khỏa lấp nỗi nhớ nhung của chàng.
“Ta sẽ cố gắng trở về.”
Chàng chỉ
muốn ôm thật chặt thân hình mảnh mai của nàng trong vòng tay, cùng nàng
ngắm xuân hoa thu nguyệt, ngắm trăng tròn trăng khuyết, cưỡi ngựa ra sa
trường, tung hoành ngang dọc. Chàng sẽ bảo vệ nàng, không cho phép bất
cứ ai lại gần Sính Đình của chàng, không để nàng phải chịu khổ.
Nhưng đại sự quốc gia liên tiếp gặp chuyện, tâm nguyện của một nữ nhi, dù là nữ nhi
chàng yêu thương nhất cũng không thể bì được. Sinh thần năm nào cũng có, huyết mạch của Đại vương có thể chỉ còn tia hy vọng này.
Sở Bắc Tiệp không biết, thị vệ chàng cử đi báo tin cho Sính Đình đã bị Vương hậu cử người chặn ngoài cung.
Sắc mặt
không được tốt, Vương hậu lặng lẽ bước vào tẩm cung của Đại vương, chậm
rãi hành lễ, rồi ngồi bên Đại vương, giơ tay ra hiệu cho những người
đứng cạnh lui ra.
“Sao sắc mặt Vương hậu lại thế kia?”
Đợi cho tả hữu lui hết, Đông Lâm vương mới lên tiếng, “Chẳng phải vương đệ đã lưu lại cung sao?”.
Vương hậu
đầu đội mũ phượng với những hạt trân châu, ngồi nghiêm trang ở đó, như
đang cất giấu nỗi phiền não vô hạn trong lòng, nhất thời không biết nên
nói gì.
Chỉ đến khi
đã cân nhắc ổn thỏa, Vương hậu mới lấy trong người ra một bức thư, đặt
trước mặt Đông Lâm vương, giọng khản đặc: “Thần thiếp vừa nhận được,
suýt chút nữa đã chuyển vào trong cung. Người nhận là Trấn Bắc vương.
Chắc Đại vương không thể đoán được người gửi là ai.”
Đông Lâm vương cầm bức thư lên, nhìn qua đã thấy vô cùng ngạc nhiên: “Thượng tướng quân Tắc Doãn của Bắc Mạc?”.
Dường như đang rất xúc động, Vương hậu cắn chặt môi, run rẩy: “Nội dung thực sự kinh hoàng, xin Đại vương đọc kỹ.”
Bức thư thật dài, Đông Lâm vương không dám chậm trễ, đọc từng chữ một, đến khi cháy
hết một tuần hương mới đọc đến dòng kết: Cầm đầu tội ác chính là Hà
Hiệp. Đông Lâm vương bỗng thấy đầu óc như nổ tung, không còn rõ mọi vật
trước mắt, bèn thở dài một hơi, gắng gượng ngồi vững trên ghế, nhìn ánh
mắt thảm thiết của Vương hậu, cố bình tĩnh hỏi: “Vương hậu thấy thế
nào?”.
“Thần thiếp
đã sai người biết rõ Tắc Doãn giám định bức thư này, đích thị là bút
tích của Tắc Doãn. Bên trên còn có ấn triện Tắc Doãn chuyên dùng, không
thể là giả.”
“Vốn chẳng có giao tình gì với vương đệ, hà cớ gì Tắc Doãn lại gửi tới vương đệ bức thư này?”.
“Dù thế nào, Tắc Doãn cũng không cần thiết dối trá trong việc này. Tắc Doãn vạch
trần âm mưu câu kết của Bắc Mạc vương với Hà Hiệp, đã là bất chấp mạo
hiểm bị Bắc Mạc vương trừng phạt.” Vương hậu nhìn chăm chăm vào các
đường nét trên khuôn mặt Đại vương, rồi nhắm mắt, không thể tiếp tục
kiềm chế đôi vai run rẩy, giọng thê thảm: “Hà Hiệp… Hài nhi đáng thương
của ta, là do Hà Hiệp…”.
Vương hậu gục đầu vào vai Đông Lâm vương, khóc thảm thiết.
Ánh mắt trĩu nặng đau đớn, Đông Lâm vương vỗ lưng ái thê, hạ giọng: “Thế có nghĩa
là, Bạch Sính Đình không phải hung thủ.” Ngừng một chút, Đại vương lại
hỏi, “Vương đệ đã biết chưa?”
Vương hậu
nghẹn ngào lắc đầu, hồi lâu mới khống chế được tình cảm của mình, hỏi:
“Nếu Bạch Sính Đình không phải hung thủ, thì việc Hà Hiệp sai người bắt
nàng ta đi nên xử trí thế nào?”.
Đông Lâm vương không đáp.
Chậm rãi
đứng lên, biểu cảm giằng xé, Đại vương quay người, xoay lưng về phía
Vương hậu, trầm giọng: “Bạch Sính Đình có phải hung thủ hay không thì
liên quan gì đến việc này? Chúng ta vì không muốn binh sĩ Đông Lâm đổ
máu vô ích, nên mới mang Sính Đình ra trao đổi với Hà Hiệp. Người của
vương tộc Đông Lâm chỉ có quốc hận, đâu có thù nhà.”
Vương hậu kính cẩn nhìn bóng lưng phu quân, bờ vai rộng chỉ tồn tại vì Đông Lâm, đủ để chống đỡ một phương trời.
“Thần thiếp
hiểu rồi”, Vương hậu gật đầu, “Dù Bạch Sính Đình có vô tội hay không,
việc quan trọng nhất hiện giờ là đẩy lui đại quân đang uy hiếp biên
cương. Đội binh mã của đối phương tối mai sẽ đến biệt viện ẩn cư. Trấn
Bắc vương vẫn không nghi ngờ gì, lại phải bảo vệ thai nhi trong bụng Lệ
phi, chắc không bỏ về giữa chừng.”
Nghĩ đến
việc phải giao dịch với Hà Hiệp, kẻ đã ra tay hãm hại hài nhi của mình,
lòng Vương hậu càng quặn đau. Đường đường là quốc mẫu, đâu phải việc
thường dân có thể đảm đương?
“Đúng rồi,
nói đến Lệ phi…”, Đông Lâm vương chau mày, “Tối qua ngự y bẩm báo, Lệ
phi nương nương bị kinh hãi, hài nhi có chút không ổn định.”
Vương hậu
thất kinh, vì muốn giữ chân Sở Bắc Tiệp mà Vương hậu phải tạo nguy hiểm
quanh Lệ phi, lại sai người dẫn đường chỉ lối, hướng Lệ phi cầu cứu Sở
Bắc Tiệp.
Lệ phi ngây
thơ không hiểu điều ẩn chứa bên trong, mới thật tình cầu cứu, làm động
lòng nhân vật tinh anh như Sở Bắc Tiệp, khiến chàng trúng kế. Nếu không
tạo ra nguy hiểm ảnh hưởng đến huyết mạch của vương tộc Đông Lâm, sao có thể giữ chân Sở Bắc Tiệp đang muốn quay về gặp Bạch Sính Đình lưu lại
trong cung?
Nhưng, hài
nhi trong bụng Lệ phi đích thị là cốt nhục quý báu của Đại vương, nếu vì lần kinh sợ này mà xảy ra điều gì ngoài ý muốn, thì làm thế nào cho
phải?
“Thai nhi
không ổn định? Đại vương đừng lo quá, hài nhi là cốt nhục của người, nên sẽ được liệt tổ liệt tông phù hộ. Thần thiếp xin lui…”
Tiếng bước chân hoảng loạn bỗng ngắt lời Vương hậu.
“Đại… Đại…
Đại vương!” Cung nữ cạnh Lệ phi luống cuống chạy vào, quỳ sụp xuống đất, vừa thở vừa bẩm báo, “Bẩm, Lệ phi nương nương bị động thai, sắp lâm bồn rồi!”.
Vương hậu sững sờ, tiến về trước một bước, vội hỏi: “Sao lại nhanh thế? Lần trước ngự y bắt mạch nói còn bảy, tám ngày mà.”
Cung nữ liếc trộm Vương hậu một cái, nghĩ đến lời chủ nhân từng nói rằng chưa biết
chừng người đứng đầu hậu cung là kẻ ra tay hạ độc thì sợ hãi cúi đầu,
lên tiếng: “Nô tỳ cũng không biết, nương nương đang ngồi trong điện, đột nhiên bụng đau dữ dội, lăn lộn trên đất. Nô tỳ sợ quá chẳng biết làm
thế nào.”
Cảm tình của Vương hậu đối với Lệ phi nương nương hoàn toàn bình thường, nhưng hài
nhi trong bụng nàng ta vô cùng quý báu. Phu quân anh minh nhân từ, sao
có thể không người nối dõi? Nghe thế, Vương hậu vô cùng lo lắng, thét
hỏi: “Ngự y đâu? Ngự y đến chưa?”
Cung nữ lắp bắp: “Đã… đã có người đi mời rồi.”
“Đại vương!”
Ánh mắt vô
cùng lo lắng, Đông Lâm vương nắm chặt tay Vương hậu, an ủi: “Vương hậu
không nên lo lắng quá. Sức khỏe Lệ phi vẫn ổn, hơn nữa, lâm bồn sớm bảy, tám ngày cũng là chuyện thường.” Bỏ lại Vương hậu, Đông Lâm vương vội
vã đến tẩm cung của Lệ phi.
Ngoài tẩm cung đã đầy thị vệ và cung nữ, những cung nữ già phụ trách việc lâm bồn của các nương nương đi lại như mắc cửi.
“Nước nóng! Mau mang nước nóng vào đây!”
“Vải trắng sạch!”
“Canh nhân sâm! Mang canh nhân sâm lên đây!”
Các cung nữ ra vào liên tục.
“A… A… Đại vương!…” Những tiếng kêu thét của Lệ phi liên tục vang lên, xen lẫn tiếng sai bảo của các cung nữ già.
Giữ đúng lời hứa, Sở Bắc Tiệp ôm kiếm đứng ngoài điện, chờ hài nhi chào đời. Thấy
Đông Lâm vương và Vương hậu đích thân giá lâm, chàng khẽ cúi người:
“Vương huynh, vương tẩu!”
Đông Lâm vương dẫn theo đám người vội vã đến trước cửa điện, triệu ngự y: “Tình hình thế nào?”
“Bẩm Đại
vương, mấy ngày nay Lệ phi nương nương ăn uống thất thường, mất ngủ cả
đêm, ảnh hưởng đến thai nhi trong bụng”, ngự y mồ hôi đầm đìa, “E là
sinh non.”
“Đau quá!”, tiếng kêu thảm thiết của Lệ phi lại vang lên.
Ngự y vội vã chạy vào trong.
Đông Lâm vương đứng bên ngoài, cất giọng: “Ái phi đừng sợ, quả nhân ở đây. Ngự y nói thai nhi ổn định, mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Lệ phi vẫn kêu lên thất thanh, chẳng biết có nghe thấy lời an ủi của Đông Lâm vương không?
“Đại vương,
làm thế nào bây giờ?” Vương hậu hạ giọng, ánh mắt không giấu nổi lo
lắng. Lợi dụng Lệ phi vào kế lần này, ai ngờ lại ảnh hưởng đến thai nhi.
Nếu cốt nhục của Đại vương có mệnh hệ gì, Vương hậu chỉ có cách tìm đến cái chết để tạ tội với thiên hạ.
Sở Bắc Tiệp đứng một bên, quan sát thần sắc của Đông Lâm vương và Vương hậu, ánh mắt thoáng tia nghi ngờ.
Tuy đang vô
cùng lo lắng, nhưng vẫn còn chút tỉnh táo phát giác ra ánh mắt khác lạ
của Sở Bắc Tiệp, Vương hậu càng thêm lo lắng. Đông Lâm vương cũng nhìn
thấy khoảnh khắc ấy, khi gặp ánh mắt Vương hậu, cả hai đều nhận ra nỗi
lo lắng của người kia.
Cứ nghĩ Lệ
phi phải bảy, tám ngày nữa mới lâm bồn, đủ để cầm chân Sở Bắc Tiệp trong cung cho tới lúc Hà Hiệp đưa Bạch Sính Đình đi, đổi lấy giao ước lui
quân biên giới.
Thai nhi bị động, thời gian cầm chân Sở Bắc Tiệp đã rút ngắn trầm trọng.
Huống hồ, Sở Bắc Tiệp là bậc tướng tài cực kỳ thông tuệ, một khi đã nghi ngờ, thế cục dù kín kẽ đến đâu cũng lộ rõ sơ hở.
Vương hậu cố ổn định tinh thần, việc đã đến nước này, một lúc không thể lo quá nhiều chuyện, giữ được thai nhi mới là việc quan trọng hàng đầu. Vương hậu
mím môi đứng bên Đông Lâm vương chờ tin tức.
Phía rừng núi không xa, chim chóc bay hoảng loạn.
Sính Đình mở choàng mắt, ngồi bật dậy.
Vầng trăng sáng lơ lửng treo giữa tầng mây, soi rõ từng lớp tuyết mỏng trên nền đất. Các vì sao lại trốn tới tận phương nào.
“Cô nương?”
Mấy hôm nay ngủ trong phòng Sính Đình, Túy Cúc dụi mắt, khoác thêm chiếc áo, bước xuống giường, đến bên Sính Đình, “Khát à?”
Sính Đình lắc đầu.
Dưới ánh trăng, khuôn mặt nàng càng thanh tú, thêm đôi chút ưu tư, “Chim chóc hoảng loạn, trên núi đối diện có người.”
Túy Cúc nhìn về phía núi xa xa ngoài cửa sổ, đêm tối đen như mực, rừng vẫn im lìm như mãnh thú đang say ngủ: “Chắc tiều phu?”
“Giờ này,
tiều phu lên núi làm gì? Rừng núi tối om, đất trời ngập tuyết, dã thú
chịu đói lâu ngày, có muốn lên núi họ cũng phải đợi đến khi trời sáng.”
Sính Đình khẽ nhắm mắt, rồi ngẩng lên, nói với Túy Cúc, “Tìm Mạc Nhiên.”
Túy Cúc nhanh nhẹn vén tấm rèm, bảo đại nương vẫn túc trực bên ngoài đi tìm Mạc Nhiên.
Một lúc sau, Mạc Nhiên xuất hiện, y phục chỉnh tề, không chút lộn xộn như người vừa
ngủ dậy. Bước vào phòng, thấy Sính Đình đang ngồi trên giường, Mạc Nhiên hỏi: “Bạch cô nương có việc gì?”.
“Muộn thế này Tướng quân vẫn chưa ngủ sao?” Sính Đình nhìn Mạc Nhiên, “Đã xảy ra chuyện gì?”
Mạc Nhiên
đáp: “Mạc Nhiên thân mang trọng trách bảo vệ, giờ này hằng đêm đều phải
đi tuần một vòng. Lúc nãy trên núi đối diện chim chóc bỗng bay tán loạn, Mạc Nhiên vừa cử mấy thị vệ đi điều tra, chắc không có chuyện gì, nhưng cẩn thận vẫn hơn.” Mạc Nhiên bỗng như tỉnh ngộ, “Bạch cô nương bị đám
chim chóc đánh thức sao?”
Sính Đình
nghe nói đã cử người đi xem xét, trong lòng cũng yên tâm hơn, khẽ gật
đầu: “Ta từng tòng quân, đêm khuya tĩnh lặng, chim chóc bay tán loạn,
thông thường sẽ là dấu hiệu kẻ địch đang bí mật tiếp cận.”
Mạc Nhiên nở nụ cười, gật đầu: “Đúng thế. Ở trong quân lâu, nghe tiếng chim bay cũng phải cảnh giác. Có điều, Bạch cô nương không cần lo lắng, ở đây có Mạc
Nhiên cùng các cận vệ canh giữ. Đêm khuya gió lạnh, cô nương vẫn nên ngủ sớm thì hơn.”
Đang có việc cần xử lý, Mạc Nhiên an ủi đôi ba câu rồi cáo lui.
Túy Cúc che
miệng ngáp, uể oải nói: “Cô nương nghe Sở tướng quân nói rồi đó, không
cần lo lắng, Tướng quân còn lo lắng hơn cô nương nhiều. Gió lạnh quá,
Túy Cúc đóng cửa sổ nhé.”
Sính Đình
vốn ngủ không sâu, xảy ra việc như thế đã hoàn toàn tỉnh táo. Hai mắt
sáng ngời, nàng đâu chịu nằm xuống, cười đáp: “Trăng tròn mùa đông đẹp
nhất, chiếu xuống mặt tuyết sáng lung linh. Đắp thêm cái chăn sẽ không
lạnh.”
Túy Cúc lườm nàng một cái, biết cố khuyên cũng chẳng ích gì, đành thở dài bất lực,
“Rõ ràng một người thông minh, lanh lợi là thế, sao có lúc lại như hài
tử?” Nói rồi, Túy Cúc chui vào chăn, nằm cùng Sính Đình, ngó đầu ngắm
trăng.
“Vương gia cũng đến lúc trở về rồi?”, ánh mắt Sính Đình dịu dàng nhìn trăng, giọng xa xăm.
Túy Cúc cười khúc khích, xuýt xoa: “Túy Cúc cũng đoán trong lòng cô nương đang nghĩ
đến câu này, ai ngờ còn nói ra thành lời.” Túy Cúc vừa cười vừa nắm cổ
tay, bắt mạch cho Sính Đình, một lúc sau mới đặt tay nàng xuống, không
cười nữa, nói, “Tình ái quả thực hại người, Vương gia là bậc anh hùng uy vũ trong thiên hạ, cô nương vốn phong lưu khoáng đạt, nhưng hễ vướng
phải chữ tình, đều lo được lo mất, khiến người khác phải đau lòng”, rồi
lặng lẽ thở dài.
Sính Đình
quay người, chăm chú nhìn Túy Cúc: “Giờ ngươi cứ chê cười ta đi. Chỉ ai
vướng vào chữ tình mới biết hương vị của nó thế nào.” Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, như bị ánh trăng bàng bạc hút hồn, thích thú: Trăng đẹp quá,
nếu đánh đàn trên tuyết, tiếng đàn hòa với ánh trăng, thật đẹp biết
chừng nào.”
Túy Cúc lập
tức ngăn: “Đừng nghĩ nữa. Trời lạnh như vậy, cô nương còn muốn đánh đàn
trên tuyết sao? Chẳng biết nghĩ cho bản thân gì cả. Khó khăn lắm mới
tĩnh dưỡng được thế này, cô nương lại muốn giày vò mình ư?”
Biết Túy Cúc nói có lý, Sính Đình không nói gì thêm.
Đánh đàn dưới trăng hay thì hay thật, nhưng thiếu tri âm, sao gọi là thập toàn thập mỹ?
Nàng lặng lẽ ngắm sắc tuyết chìm đắm trong ánh trăng, chợt nhớ tới Hoa phủ ngày
trước, Sở Bắc Tiệp vì mộ tiếng đàn của nàng mà đến, nghe một khúc lại
muốn nghe thêm khúc nữa.
Lúc đó, chưa biết thân phận của Sở Bắc Tiệp, nhưng cũng đoán ra chàng dùng tên giả, nàng đã làm khó chàng.
“Công tử đến để nghe đàn, có việc cậy nhờ ta, tất phải thành tâm thành ý, khai báo tên thật.”
“Không lẽ tiểu thư lại không cầu bất cứ điều gì?”
“Ta cầu việc gì?”
“Thứ mà tiểu thư cầu, đương nhiên là một vị tri âm.”
Nàng vẫn nhớ tiếng cười thấp trầm đầy tự tin của Sở Bắc Tiệp.
Nam nhân điềm tĩnh dường ấy, cứ ngỡ thiên hạ này sẽ chẳng gì có thể khiến chàng cau mày.
Nay nghĩ lại mới biết, nàng không hề quên bất cứ cử chỉ, lời nói nào của chàng hôm
đó. Tất cả thời khắc nàng được ở bên chàng đều còn nguyên, chưa từng bị
lãng quên.
Điều không
ngờ là họ vẫn có được ngày hôm nay. Nếu đây là ân huệ của ông Trời, thì
quả thật ông Trời đối với nàng không bạc. Nàng đã mang trên mình một
sinh mạng, sinh mạng ấy sẽ lớn lên, ngoan ngoãn nằm trong bụng nàng.
Sính Đình
khẽ khàng ôm vùng bụng vẫn bằng phẳng của mình. Bụng nàng ấm áp, khiến
bàn tay và cả trái tim cũng ấm áp, dường như có dòng máu nóng đang chảy
trong sinh mạng nhỏ bé ấy, giống hệt như chàng, tràn đầy nhiệt huyết,
rất đỗi cao ngạo.
Nàng quay đầu, khẽ bảo: “Túy Cúc, cảm ơn ngươi.”
“Cảm ơn Túy Cúc vì điều gì?”
“Cảm ơn
ngươi đã đồng ý để ta được nói với Vương gia tin vui này”, ánh mắt nàng
dịu dàng, tựa như đang chìm trong giấc mộng, “Đó chắc là thời khắc xúc
động nhất đời ta.”
Sính Đình nhìn ra ngoài, phương Đông yên tĩnh, bức tường mờ mịt và những cành cây cổ thụ ngăn trở tầm nhìn của nàng.
Đó là đường về của Sở Bắc Tiệp.
Sắc trời dần sáng.
Tiếng khóc
vọng ra qua khe hở của cánh cửa khép chặt nơi tẩm cung Lệ phi, sức mạnh
như sấm rền, vang dội vào trái tim những người đã thức cả đêm.
“Sinh rồi?”, Đông Lâm vương đứng bật dậy từ chiếc ghế được kịp thời mang ra.
Ngự y đã bận rộn cả đêm, vội vã bước ra từ sau cánh cửa, sắc mặt nhợt nhạt, cố dốc
chút hơi sức cuối cùng hành lễ với Đông Lâm vương và Vương hậu, “Chúc
mừng Đại vương, chúc mừng Vương hậu nương nương, cuối cùng Lệ phi nương
nương cũng bình an sinh hạ.”
“Là trai hay gái?”, Vương hậu xen vào.
Ánh mắt của tất cả mọi người đều dồn về phía ngự y.
“Bẩm Vương hậu nương nương, là tiểu công chúa.”
Khuôn mặt mọi người dường như đều trầm hẳn xuống.
Không phải vương tử.
Đông Lâm vẫn chưa có được một vị tân thái tử.
Ngự y cũng
biết đây chẳng phải tin tốt, khẽ bẩm báo: “Mẫu tử Lệ phi nương nương đều bình an. Đại vương có muốn vào thăm không?”. Ngự y ngước lên nhìn trộm
sắc mặt Đông Lâm vương.
“Được.” Đông Lâm vương gật đầu, bỏ lại Vương hậu, hàng mày cau lại cả đêm giờ mới
giãn ra, “Lệ phi cũng vất vả rồi”. Bất chợt, ánh mắt của Đông Lâm vương
quay lại phía sau, dừng ở đệ đệ của mình.
“Chúc mừng
vương huynh.” Sở Bắc Tiệp bước tới, trịnh trọng hành lễ, sau đó đứng
thẳng dậy, “Chiến sự nơi tiền tuyến đã cận kề, không thể chậm trễ. Đệ sẽ về cung lấy binh phù rồi lập tức xuất phát, không quay lại từ biệt
vương huynh nữa. Đợi đến khi khải hoàn, đệ sẽ cùng vương huynh uống chén rượu mừng.”
Đông Lâm vương ngạc nhiên: “Vương đệ gấp gáp quá. Chủ soái xuất phát, ít nhất cũng để quả nhân ra đầu thành tiễn biệt.”
Sở Bắc Tiệp
trầm giọng đáp: “Việc quân khẩn cấp, giờ không phải lúc cho những lễ
nghi rắc rối.” Tuy nói với Đông Lâm vương, nhưng đôi mắt đen của Sở Bắc
Tiệp lại hướng về phía Vương hậu, chú ý từng thay đổi trên khuôn mặt đó.
Lòng thầm
kinh hãi, nhưng ngoài mặt Vương hậu vẫn tỏ ra bình tĩnh nói với Đông Lâm vương: “Đại vương, Trấn Bắc vương nói có lý. Việc quân nguy cấp, Trấn
Bắc vương đã ở lại trong cung mấy ngày rồi, các tướng sĩ nơi biên cương
cũng đang nóng lòng chờ chủ soái.”
Đông Lâm
vương quay về phía Vương hậu, ánh mắt quét qua ái thê, thuận nước đẩy
thuyền: “Vậy vương đệ hãy xuất phát, đi đường cẩn thận. Quả nhân sẽ thết sẵn yến tiệc, đợi đệ khải hoàn.”
Trấn Bắc vương đáp một tiếng, rồi quay người lùi đi, bước chân uy vũ.
Đợi bóng
dáng hiên ngang kia khuất sau hành lang, Vương hậu lập tức vẫy tay, ra
hiệu cho tổng quản thị vệ Đổng Chính vừa nhậm chức: “Lập tức sai người
phong tỏa cung Chiêu Khánh. Đã chuẩn bị đủ những điều ta nói chưa?”.
“Bẩm Vương
hậu nương nương, đã chuẩn bị chu toàn. Cung tên đều đã đổi sang loại
dùng khi tập trận, bên trên có tẩm thuốc mê, bắn vào người không sâu quá nửa tấc. Thị vệ bên đó cũng chẳng người nào quen thuộc với Vương gia.”
“Được.” Vương hậu gật đầu, ngước mắt nhìn Đông Lâm vương bên cạnh, vẻ đầy kiên định, trầm giọng, “Đi đi.”
“Tuân lệnh!”