Trời vừa tờ mờ sáng, Ani đã nghe tiếng những người hàng xóm của mình khua động mọi thứ. Tiếng khung giường gỗ cọt kẹt vì thời gian, tiếng những đôi bốt lẹt xẹt trên nền đá. Cô vớ lấy chiếc áo dài vàng và chiếc váy màu xanh từ trên cái móc thay vì bộ đồ mới màu cam. Cô thích mặc bộ đồ cũ hơn trong buổi sáng này. Ani quấn tóc thành búi trên đầu và giấu nó vào trong mũ. Cô hi vọng không ai thắc mắc tại sao cô lại đội một chiếc mũ rộng vành trong khi bình minh mới hé rạng và ánh mặt trời không thể chiếu qua những tòa nhà cao để rọi ánh nắng xuống con đường đá cuội.
Cô cột dải ruy băng thành gút dưới cằm và lèn búi tóc cho chặt hơn. Cầm lấy cây gậy, Ani ra khỏi căn phòng nhỏ, tiến tới bàn ăn sáng của Ideca.
Vừa mở cửa, Ani đã ngửi thấy mùi thức ăn nóng lẫn với mùi của chuồng bò, mùi bánh mì cho bữa sáng quyện với mùi của những con người vốn dành nhiều thời gian cho súc vật, ít khi kịp tắm táp. Ani tự hỏi liệu mình có thể ăn với những mùi như thế không, mặc dù có hơn ba mươi người làm công đang ăn như thể đói lâu ngày trên những băng ghế dài. Họ đều còn rất trẻ, một vài cậu bé trạc tuổi Tatto, vài cô gái trông lớn hơn Ani, hầu hết đều có mái tóc màu nâu của vỏ cây phong hay màu đen của bùn. Căn phòng ồn ã tiếng trò chuyện, tiếng muỗng kim loại va vào đĩa sứ, tiếng cửa nhà bếp đóng mở mỗi khi những cô con gái của Ideca mang những đĩa thức ăn đầy ụ vào và đi ra với những chiếc đĩa bẩn. Tiếng những người bạn gọi nhau í ới từ bàn này sang bàn kia.
Ani nhận ra không có cô gái nào đội mũ cả. Cô sờ sờ vành mũ một cách hồi hộp và tìm kiếm chỗ ngồi cho mình.
Không lâu sau cô đã bị chú ý.
“Conrad, cô gái của cậu kìa!”, ai đó hét lên.
“Một cô gái mới”.
“Nào, Conrad, hãy lại hôn cô ấy một cái đi”, một cậu bé nói. Cậu ta đẩy một cậu bé khác đội chiếc nón màu cam ra khỏi hàng ghế. Cậu bé đó nhanh chóng kéo chân cậu ta và chộp lấy những quả trứng luộc. Nhưng trước khi bàn tay nhớp nháp của cậu ta chạm được vào mặt cậu bé gây sự, Ideca đã bước tới, một tay nắm lấy cổ tay và nón của cậu ta, một tay nắm tóc cậu.
“Conrad, ta sẽ phạt cậu lau trứng trên sàn nhà vào giờ ngủ, tin ta đi, ta sẽ làm thế đó, giờ thì hãy đi gặp Isi đi và ngồi xuống”.
Conrad sụt sịt. Cậu nhặt trứng vào đĩa, phủi phủi những vết bẩn dính ở ống quần và đưa tay cho Ani. Cậu ta có đôi mắt màu xám buồn với rất nhiều vết tàn nhang trên mặt.
“Tôi tên là Conrad”, cậu nói, “Tôi chăn đàn ngỗng”.
“Hôn cô ấy đi”, ai đó hét lên trong tiếng ồn ào.
Conrad quay ngoắt đầu về phía người vừa hét và gào lên.
“Ngậm miệng lại, nếu không tao sẽ nhét đồ ăn vào lỗ mũi mày, và nếu có phải dọn bàn, dọn sàn nhà cho đến sáng mai tao cũng làm!”.
Cậu ta quay lại, tiếp tục cử chỉ ôm người chào đón Ani và cô nắm tay cậu, sau đó bí mật phủi vết trứng bám phía sau lưng mình.
“Rất vui được gặp cậu”, cô nói.
“Cậu từ đâu tới?”, một cô gái ở phía sau hỏi.
“Từ trong rừng”, Ani trả lời.
“Tất nhiên là từ rừng rồi, cô bé chim sẻ ạ. Nhưng từ vùng nào?”.
Ani nhận ra rằng hầu hết những người ở đây đều đến từ vùng Forest, tới kinh thành làm việc rồi gửi tiền về cho gia đình họ.
“Gần Darkpond”, cô nói, lặp lại tên vùng đất cô từng nghe bạn của Finn nói đến.
“Nghe giọng cô ấy như một người tôi quen ở Darkpond”, Ani nghe tiếng một cô gái nói.
Vài người gật đầu, và mọi người quay trở lại bữa sáng, không chú ý Ani nữa. Ani ăn chậm, cố gắng nuốt thứ thức ăn nóng, khó tiêu và có vẻ như chưa chín kỹ lắm. Cô nhìn Conrad và bạn cậu ta, chú ý vào rất nhiều đĩa trứng, đậu, những miếng thịt cừu với những chiếc bánh yến mạch nướng béo ngậy được họ tiêu thụ với tốc độ chóng mặt. Khi những chiếc đĩa trống trơn, họ lau miệng bằng mu bàn tay và lau tay vào quần hay phủi phủi hai tay vào nhau, những dãy ghế bắt đầu trống dần kèm với tiếng kèn kẹt của ghế gỗ cọ vào sàn đá.
“Cầm lấy gậy đi”, Conrad nói và cầm lấy gậy của cậu ta đặt cùng với những chiếc gậy khác ở gần cửa. Khi đi ra, họ nghe mọi người đồng thanh nói: “Conrad có một cô gái, Conrad có một cô gái”.
“Lẹ lên, cô gái chăn ngỗng!”, Conrad nói một cách gắt gỏng, và họ đi về phía con đường hẹp.
Ani dùng đầu gậy chống để trèo lên các tảng đá. Conrad không đợi cô. Ani đuổi kịp cậu ta khi độ dốc giảm dần. Cuối cùng Ani cũng có thể nghe tiếng kêu của các loài vật - cừu, heo, gà, dê - chúng lẫn vào nhau không thể biết số lượng chính xác từng loài. Conrad mở một cánh cửa thấp. Tiếng huyên thuyên từ chuồng ngỗng chào đón sự xuất hiện của họ và ngay lập tức Ani nhận ra rằng ngôn ngữ của chúng khác xa ngôn ngữ của những con thiên nga. Cô nhận thấy mình không thể hiểu được từ nào trong mớ âm thanh hỗn độn của chúng.
“Trước đây cô đã từng chăn ngỗng chưa?”, Conrad hỏi.
Ani lắc đầu. Cậu chớp mắt: “Trước hết cứ bình tĩnh, được chứ? Hãy để tôi làm trước và cậu chỉ đứng phía sau thôi, phải chắc chắn chúng không bỏ chạy. Ngỗng không thích người mới, nhưng con gái thì cũng đỡ hơn con trai. Những chú ngỗng đực gần như đã cắn vào đầu gối của cậu bé vừa rồi cũng đến từ Forest vào kinh thành tìm việc. Cậu ta không thể ở lâu với tôi được. Giờ cậu ấy chăn heo...”.
“Cảm ơn vì đã nhắc nhở tôi”, Ani líu ríu.
“Tôi không quan tâm nếu chúng cắn đầu gối cô, cô gái chăn ngỗng ạ, tôi chỉ nói để cô biết thôi”. Cậu ta nhún vai và mở chỗ quây ngỗng ra.
Ngỗng nhỏ hơn và ít bệ vệ hơn những con thiên nga mà Ani biết. Mặc dù hình dạng giống thiên nga nhưng ngỗng có vẻ thanh thoát hơn với cái đầu lớn, cổ ngắn, chân và mỏ màu cam giống như loại trái cây nào đấy.
Khu lâu đài ở Kildenree không có chuồng nuôi ngỗng nên Ani chỉ có thể thấy chúng từ xa thôi. Thỉnh thoảng từ cửa sổ thư viện, cô nhìn thấy một cô gái nhà quê tóc ngắn, chân trần với cây gậy và chiếc mũ làm bằng giấy cứng dày cuộn lại giống một miếng gỗ được trau chuốt kỹ. Cô này thường lùa đàn ngỗng dọc theo bờ sông ra đồng cỏ rộng lớn bên rìa thành phố.
Lúc đó Ani cảm giác việc đó thật thảnh thơi, và cô gái đã tạo nên ấn tượng tốt đẹp về công việc chăn ngỗng. Suy nghĩ của Ani được kéo trở lại thực tại bởi tiếng kêu của những con ngỗng khó chịu. Một con ngỗng đực đầu to lách ra khỏi chuồng và mổ vào chân Ani. Cô ngã ngửa ra sau trong sự ngạc nhiên. Khi cô nhìn lại, đầu và cổ nó gập xuống đất hướng về phía trước như thể nó đang chuẩn bị sẵn một thanh gươm.
Nó lao thẳng về phía trước, mỏ há rộng đâm thẳng vào mặt Ani. Cô giơ hai tay lên che đầu và chờ đợi cảm giác bị ngỗng tấn công. Chờ mãi không thấy chuyện gì xảy ra, cô mở mắt và thấy cây gậy có móc của Conrad đã ngoắc gọn vào cổ con ngỗng hung dữ.
“Đứng dậy đi”, cậu ta nói, “Hành động vừa rồi của cô thật là ngốc nghếch”.
Ani bò dậy, dựa vào cây gậy để đứng lên và mắt vẫn nhìn chăm chăm vào con ngỗng.
“Tôi xin lỗi”, cô nói khẽ.
“Hừ. Đi thôi!”.
Phải đi qua một vài con đường dài ngoằn ngoèo mới tới được đồng cỏ. Năm mươi con ngỗng là quá nhiều đối với một cậu trai và càng tệ hơn khi đi cùng với cậu là một cô gái không biết gì về việc chăn ngỗng, thậm chí còn không thể tìm thấy mình giữa bầy ngỗng. Chân cô rõ ràng phải di chuyển rất nhanh. Conrad vẫn ở phía sau, điều khiển bầy ngỗng di chuyển bằng tiếng huýt sáo và cú huých tay. Thỉnh thoảng cậu ta hét lên: “Cô gái chăn ngỗng, bầy ngỗng đang di chuyển kìa!” và lại chạy nháo nhào mỗi khi có chú ngỗng nào đó hơi tách khỏi bầy.
Ani cố lắng nghe tiếng chúng nói chuyện để tìm ra từ nào đó quen thuộc nhưng vô ích. Cô thử nói vài tiếng của thiên nga nhưng chúng có vẻ như còn cười nhạo cô và dẫm lên chân cô mạnh hơn.
Cuối cùng họ cũng tới cửa ngõ hẹp hình cung giao với tường thành. Liền sau đó là đồng cỏ xanh ngắt nằm phía ngoài bức tường. Phía kia được bao bọc bởi những hàng cây cao và dòng suối nhỏ. Dấu hiệu của đồng cỏ thu hút sự chú ý của bầy ngỗng giống như mùi thức ăn. Cổ chúng dài ra và những cặp mắt nhỏ tí của chúng nhìn chăm chăm vào bãi cỏ xanh mướt cùng dòng suối nhỏ lung linh phía xa.
Ani nhảy về phía trước để đếm khi chúng đi qua. Cả một làn sóng toàn màu trắng với những chiếc mỏ màu cam và đôi mắt xanh.
“Bốn mươi bảy”, Ani nói. “Đáng lẽ là phải có năm mươi con nhưng tôi thề là chúng ta không bỏ sót con nào cả!”.
Conrad nhún vai.
“Cậu không quan tâm sao?”, cô hỏi. “Liệu chúng ta có nên quay lại và tìm chúng không?”.
Cô bắt gặp ánh mắt không đồng tình của Conrad. “Trước đó chúng đã bị mất rồi. Một mình tôi với cả đàn ngỗng lộn xộn này hơn một tuần nay. Tôi có thể làm gì với ba chú ngỗng biến mất trong khi còn phải canh chừng bốn mươi bảy con còn lại mà mỗi con mỗi hướng chứ? Tôi hy vọng cô sẽ làm tốt hơn đó!”.
Ngày dần trôi qua một cách chậm chạp dưới ánh mặt trời. Ani ngồi dưới bóng cây sồi duy nhất trên đồng cỏ. Cách đó không xa là một hồ nước nhỏ được bao bọc bởi dòng suối. Lũ ngỗng đi loanh quanh gần hồ theo từng nhóm năm con hoặc nhiều hơn để tìm kiếm chỗ cỏ nào dài hoặc đào bới phần đất mềm cạnh bờ hồ.
Đồng cỏ không lớn lắm nhưng rất dài và mọi phía đều được bao bọc bởi bờ giậu như hàng rào, phía xa xa Ani có thể thấy một bên là đàn cừu và phía bên kia hình như là những chú bò đang gặm cỏ. Ani cố gắng nhìn xung quanh, hi vọng có thể thấy đàn ngựa đang gặm cỏ và trong số đó có con Falada yêu dấu của mình. Nhưng Tatto đã nói với cô rằng đàn ngựa được nuôi ở đồng cỏ phía sau lâu đài. Để xoa dịu cảm giác có lỗi của mình, Ani tự nhủ rằng có lẽ đang được ở trong tình trạng tốt hơn cô nhiều, nó sẽ được ăn những cọng yến mạch và được ngủ thoải mái trong chuồng ngựa hoàng gia. Đó là nếu nó chưa chết! Ý nghĩ ấy khiến lòng cô đau nhói. Nếu đúng như vậy, cô làm thế nào thoát được mà không bị giết?
Mọi suy đoán đều vô ích. Không có dịp nào để rời khỏi cánh đồng cả ngày hôm đó. Mình đang chờ đợi điều gì nhỉ, Ani nghĩ, chẳng lẽ đây là cách nghỉ giải lao một lúc để uống trà ư?
Quá trưa, một người bán hàng rong đi ngang qua đồng cỏ bán bánh mì thịt nóng với tiếng rao lảnh lót dõng dạc. Conrad phẩy tay ra dấu cho anh ta đi đi một cách buồn bã. Cả cô lẫn Conrad đều chẳng ai có tiền mà mua.
Khi tia nắng màu cam của buổi chiều tà lặn xuống phía chân trời, Conrad gọi cô, báo đã đến giờ về. Cả ngày nay cậu không đi cùng Ani, cậu ngồi dưới bóng cây bu lô mọc gần bờ suối, ném những hòn đá xuống suối hay đuổi theo lũ ngỗng chọc ghẹo cho chúng kêu. Việc lùa đàn ngỗng về chuồng có vẻ đơn giản hơn. Đàn ngỗng đã hoạt động cả ngày và giờ sẵn sàng đi ngủ. Chỉ có duy nhất một lần chiếc gậy lùa ngỗng được sử dụng khi hai chú ngỗng đực quang quác với con mèo hoang gẫy chân khi nó tiến lại quá gần một con ngỗng cái. Khi đã khóa cửa chuồng ngỗng và bước vào nhà ăn, Ani cuối cùng cũng hiểu được tại sao mọi người lại ăn ngấu nghiến bữa sáng như vậy. Dạ dày cô cồn cào, sôi réo bởi mùi thức ăn.
Bữa tối với những người làm công cũng náo nhiệt như bữa sáng, dù Ani nhận ra rằng họ chỉ được cho ăn đậu và bánh làm bằng mỡ lợn, khoai tây nấu không có bơ và đậu xanh được nấu thành cháo. Mọi người ăn một cách háo hức và Ani nhận thấy mình cũng ăn như vậy.
Mùi súc vật tỏa ra từ mọi người chua loét nhưng bữa tối của cô vẫn hết sức ngon lành.
Bất chợt, tiếng ồn từ phía cửa khiến cô chú ý. Cửa đóng sầm sau khi cô gái trạc tuổi Ani bước vào, mặt đỏ nhừ và thở hổn hển vì mệt. Mái tóc đen của cô ta xõa sau vai. Cô có đôi mắt to đến nỗi Ani liên tưởng đến một con cú. Cô gái mới đến dựa vào cánh cửa và vẫy tay với nhóm con trai đứng bên cạnh, nuốt nước bọt rồi nói lí nhí trong cổ họng.
“Nhanh lên, Razo, Beier. Con cừu đực đó lại giở chứng... Nó phá hỏng một lỗ trong chuồng, đột nhập vào ổ gà con của tôi. Tôi đã cố ngăn nó nhưng tôi...”.
Không nói một lời, hai cậu bé nhặt lấy chiếc gậy gần nhất và chạy biến khỏi phòng ăn. Cánh cửa đóng lại. Cô gái đối mặt với mọi người trong phòng ăn. Ngay lúc đó Ani nhận ra rằng gương mặt của cô đã thay đổi. Cô không còn thở hổn hển nữa, nụ cười tinh quái dần dần hiện ra để lộ hai lúm đồng tiền trên má cô. “... Nhưng tôi không thể ngăn nó lại bởi tôi đang bận treo xô bùn nhão lên cánh cửa!”.
Tiếng cười rộ lên ở góc phòng ăn và chỉ một lúc sau mọi người đều cười. Ani cũng cười và lắc đầu bởi trí tưởng tượng của cô đã đi đến chỗ chuồng gà nơi những cậu bé tội nghiệp đang vội vàng mở cửa. Cô gái khẽ nhún đầu gối cúi chào và ngồi xuống dãy ghế của Ani.
“Tôi làm thế để trả đũa họ”. Cô nói, chộp lấy cái bánh đậu nguội lạnh. “Họ để những quả trứng sơn màu vào một trong những ổ trứng gà của tôi. Thế là tôi đã bắt con gà mái tội nghiệp của mình uống tất cả những loại thuốc mà tôi biết, đồng thời đặt những thứ bùa chú một bà phù thủy cho tôi quanh ổ của nó cho đến khi cuối cùng tôi thấy một vài vệt sơn trên những cọng cỏ khô. Họ đúng là quỷ sứ mà!”. Cô gái mỉm cười với trò đùa trả đũa của mình, Ani cũng cười đáp lại cho đến khi cô cảm thấy xấu hổ vì vẻ xinh xắn và tự tin của cô gái. Cô nhìn xuống.
“Cô đến từ Darkpond?”, cô gái hỏi, “Tôi là Enna, từ vùng Sprucegrove, cô biết đấy, chỉ bên kia con suối”.
Ani gật đầu.
“Cô đừng lo. Conrad không có gì thú vị lắm nhưng tính tình cậu ấy khá ổn. Cậu ấy cần thời gian để hòa nhập với người mới, giống như mấy con vật vậy”.
“Tôi chỉ mới đến thành phố này thôi. Thực ra đây là lần đầu tiên tôi đến đây!”, Ani nói.
Enna nhướng mày, và Ani gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm bởi dù gì thì mình cũng nói sự thật. “Cô có thể cho tôi biết một vài thông tin được không? Cuộc sống ở đây thế nào?”.
Cậu bé ngồi phía bên kia bàn nghe cô hỏi liền khịt khịt mũi trả lời. “Không có gì nhiều, cô thấy đấy. Chúng ta không được nghỉ!”.
“Trừ những hôm là ngày diễn ra phiên chợ”, một người khác nói.
“Cả tháng trời mới có một hai ngày hội thôi, và khi mùa đông đến, chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy ra”.
Không nghỉ ngơi cho đến ngày có phiên chợ tiếp theo. Ani nhận ra rằng cô sẽ phải đợi một tháng nữa mới có cơ hội tìm Falada. Nhưng cô tự thuyết phục mình rằng nó vẫn ổn. Nếu nó còn sống, chắc hẳn nó vẫn khỏe mạnh.
“Khi nào thì hoàng tử kết hôn?”, một cô gái ở dãy ghế đằng xa hỏi.
“Ồ, đừng nhắc lại làm gì. Không phải lúc này đâu!”, một cậu bé trả lời.
“Sẽ có một lễ hội, rồi các cô xem, giống như kiểu hoàng gia phô trương sự giàu có và sang trọng của họ vậy. Lễ hội kéo dài một tuần và chúng ta sẽ được nghỉ ngơi một chút. Sẽ có cả bánh táo ăn miễn phí nữa”.
Ani nghiêng nghiêng đầu, cố lấy giọng như thể chỉ hỏi bâng quơ: “Kết hôn ư? Hoàng tử sắp kết hôn à? Với ai vậy?”.
“Một cô gái tóc vàng từ vương quốc Kildenree. Một công chúa, tôi đoán vậy. Không thể khác được. Gia đình hoàng tộc thì còn lấy ai ngoài một công chúa được chứ?”.
“Cô ấy là công chúa”, Enna nói, “Tôi đã tận mắt thấy làn da sáng của cô ấy”.
Tất cả mọi người đang ăn đều quay đầu lại nhìn cô và im lặng trong phút chốc.
“Sao trước đây cô không cho chúng tôi biết điều này hở Enna?”.
“Cô định giữ bí mật đó cho riêng mình hả?”.
“Tôi kể điều này cho những người biết giữ miệng và lắng nghe thôi. Giờ thì hãy im lặng và tôi sẽ kể. Cách đây hai tuần hoặc hơn gì đó, khi tôi đang đi đến hiệu thuốc để mua thuốc cho con gà mái tội nghiệp mà tôi tưởng nó bị ốm thì thấy đường phố đông nghẹt người. Mọi người đều nói về cô ấy. Không ai biết khi nào họ sẽ đến, mọi người biết đấy, họ đến từ nơi rất xa và không bao giờ gửi tin đến trước, đó là tôi nghe một người nói vậy. Và rồi những người Kildenree gì gì đó đến, họ diễu hành với một đội quân nhỏ, tôi đoán vậy”.
Enna ngừng một lát rồi tiếp.
“Cũng không hẳn là đội quân nhỏ. Khoảng hai mươi người lính hay hơn gì đó nhưng rất nhiều ngựa. Công chúa cưỡi một con ngựa trắng lớn với rất nhiều đồ trang trí!”.
Ani nghe thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Falada. Nó vẫn còn sống. Cô muốn chộp lấy cánh tay Enna cầu xin cô kể chi tiết hơn. Để ngăn mình làm cái điều dại dột ấy, cô phải túm chặt tay mình, đè xuống.
“Tôi không biết nhiều về ngựa nhưng tôi nghe những người đàn ông đứng cạnh tôi nói đó thực sự là một con tuấn mã và rằng công chúa không biết cách cưỡi nó. Có lẽ cô ta đã cưỡi một chú ngựa non ngoan ngoãn nào khác khi đi qua khu rừng và chỉ trèo lên con tuấn mã này vào phút cuối để trình diễn mà thôi”.
Ani cười.
“Thì thế mới giống công chúa”, Conrad nói, “Nhưng kể về ngựa thế là đủ rồi, cô công chúa trông thế nào?”.
“Công chúa không phải dành cho cậu đâu, Conrad à!”, một người ngồi cạnh cậu chống tay vào sườn trêu chọc.
“Tôi đoán là phải xinh đẹp rồi”, Enna nói, “Tóc màu sáng, tất nhiên là không phải màu vàng khè như màu nước tắm của Conrad đâu. Cô ấy mặc một chiếc váy đủ chứng tỏ mình là một công chúa, lấp lánh bạc từ trên cổ xuống”. Enna chỉ vào hõm trên cổ mình bằng bốn ngón tay. Một cô gái bật cười và một cô khác thở dài. Ani đặt một tay lên ngực, cảm thấy má nóng bừng. Nhìn lại mình, chiếc váy của cô đã hơi tuột xuống.
Một cô gái cười và chỉ vào Ani: “Tôi nghĩ cô gái chăn ngỗng đang mơ mình là công chúa”.
Enna đặt cánh tay mình lên vai Ani và lắc vai cô một cách tốt bụng, đầy bênh vực. “Ai chẳng muốn làm một cô công chúa quyền quý, cổ đeo vòng vàng óng ánh chứ? Ai lại muốn là một cô gái chăn ngỗng? Đúng không?”.
“Không... À vâng, đúng thế! Nhưng không phải tôi nghĩ về chuyện đó đâu!”, Ani nói, “À, cô có nghe họ nói gì không? Công chúa hay những người lính hộ vệ của cô ấy đó...”.
“Hừm, không! Chỉ có một người lính hộ vệ cao to với bím tóc màu sữa nhạt phủ xuống vai, cưỡi ngựa đi cùng công chúa. Họ gần như dựa vào nhau và nói chuyện, nhìn xuống chúng tôi, nhìn quanh thành phố, nhận xét về mọi người và mọi thứ họ thấy, tôi đoán vậy. Trông họ có vẻ cục mịch, thô lỗ. Tôi tưởng công chúa phải ngồi thẳng thể hiện sự hiên ngang quý phái chứ, tôi nghĩ là cô hiểu ý tôi?”.
Ani gật đầu.
“Tôi nói thật đấy. Rất nhiều ngựa, một vài cỗ xe, hai mươi người lính lôi thôi, lếch thếch và một nàng công chúa ăn mặc hoa hòe hoa sói khoe cả bộ ngực như một cô ả phục vụ ở quán rượu vậy”.
Một cô gái khác mỉa mai: “Tatto nói rằng khi đến bất kỳ nơi nào, công chúa cũng chỉ dẫn theo những người lính hộ vệ của mình, đi ăn, đi ra vườn... như thể cô ta không tin tưởng những người lính trong cung. Và cô ta không bao giờ ra khỏi cung điện, chắc sợ đất Bayern của chúng ta làm bẩn gót chân quý tộc!”.
“Tôi nghe nói cô ấy đã cho may mười chiếc váy mới kể từ khi tới đây”, một cô gái khác lên tiếng, “Đó là sự thật, bởi bạn của dì tôi là thợ may trong kinh thành và bà ấy biết những người hầu trong cung”.
“Họ nói công chúa không bao giờ cưỡi ngựa hoặc đi vào thành phố mà chỉ quanh quẩn trong cung với những người bạn Kildenree của mình. Họ thì thầm nói chuyện với giọng Kildenree âm sắc nhỏ và cao”.
Một vài người khác gật đầu tán thành. “Những người Kildenree là vậy đó”.
Ban đầu, Ani cũng gật đầu nhưng sau đó dừng lại. Nếu mình đang ở nơi đáng ra thuộc về mình, thì sẽ không bao giờ gặp những người làm công ở khu phía tây. Mình sẽ là cô gái tóc vàng đến từ Kildenree với giọng nói nhỏ, cao cùng với phong cách kệch cỡm, kiêu kỳ.
Nếu thật như vậy, số phận quả là đáng buồn.
Đột nhiên, cánh cửa lại bật mở với lực đẩy rất mạnh. Nắm đấm cửa va mạnh vào tường. Razo, cậu bé thấp lùn với mái tóc ngắn ngang ngạnh bước vào, đầy giận dữ. Beier đứng phía sau cậu ta, cầm những chiếc gậy chưa hề sử dụng của họ. Những giọt bùn đang nhỏ giọt từ trên tóc và vai họ xuống.
“Enna”, Razo nói, giọng nói cậu ta đầy vẻ cảnh báo.
Enna chỉ cười. “Xin chào đón các chàng trai!”, cô vẫy vẫy chiếc ly uống nước của mình để chào hai cậu bé. Những người khác cũng giơ những chiếc ly của họ lên và tất cả cùng cười vui vẻ, không chịu giải tán cho tới khi đến giờ đi ngủ.