Tin tốt: đường hầm bên trái thẳng tắp, không có lối ra ở hai bên hay chỗ rẽ nào. Tin xấu: nó là ngõ cụt. Sau khi chạy nước rút được gần một trăm mét, chúng tôi gặp phải một tảng đá cuội khổng lồ bít hoàn toàn lối đi. Đằng sau, tiếng chân lê bước và hơi thở nặng nhọc vọng lại từ cuối hành lang. Một thứ gì đó – chắc chắn không phải con người – đang đuổi theo chúng tôi.
“Tyson,” tôi nói, “em có thể...”
“Được!” Tyson dùng vai đẩy ầm ầm vào tảng đá mạnh đến nỗi cả đường hầm rung chuyển. Bụi rơi xuống từ trần nhà bằng đá.
“Nhanh lên!” Grover nói. “Đừng làm sập trần nhà, nhưng mà nhanh lên!”
Cuối cùng thì hòn đá cùng nhường lối cho chúng tôi sau một tiếng rít kinh hoàng. Tyson đẩy nó vào một căn phòng nhỏ. Chúng tôi lao vào đằng sau nó.
“Đóng lối đi lại!” Annabeth nói.
Tất cả chúng tôi đều sang phía bên kia tảng đá và bắt đầu đẩy. Thứ đang đuổi theo chúng tôi kêu gào lên đầy tức giận khi chúng tôi đẩy tảng đá về chỗ cũ và bít chặt hành lang.
“Chúng ta đã chặn được nó,” tôi nói.
“Hay là bẫy chính chúng ta,” Grover thốt lên.
Tôi quay lại. Chúng tôi đang dứng trong một căn phòng xi măng chưa đầy sáu mét vuông, và bức tường đối diện có đầy những thanh chắn bằng kim loại. Chúng tôi đã đi thẳng vào một xà lim.
“Cái quái quỷ gì thế này?” Annabeth giật mạnh mấy chấn song. Chúng không thèm nhúc nhích. Qua các thanh chắn này, chúng tôi có thể thấy hàng dài các xà lim quanh một khoảng sân tối – chí ít có ba tầng cửa sắt và ba lối đi hẹp bằng kim loại.
“Một nhà tù,” tôi nói. “Có thể Tyson có thể phá...”
“Suỵt,” Grover nói. “Hãy nghe mà xem.”
Ở đâu đó trên đầu chúng tôi có tiếng khóc vọng lại. Còn có một tiếng động khác nữa – tiếng ai đó đang cáu giận lẩm bẩm điều gì đó mà tôi không nghe rõ. Những từ ngữ rất lạ, nghe như tiếng đá trong cái vại vậy.
“Thứ ngôn ngữ gì vậy?” Tôi thì thầm.
Mắt Tyson mở to. “Không thể nào.”
Cậu ấy nắm lấy hai chấn song và bẻ cong chúng, tạo ra một khoảng trống rộng đến nỗi một người khổng lồ cũng có thể lách qua.
“Đợi đã!” Grover gọi.
Nhưng Tyson không định đợi. Chúng tôi chạy theo cậu ấy. Nhà tù rất tối, chỉ có vài ánh đèn huỳnh quang lờ mờ lập lòe ở phía trên.
“Tớ biết nơi này,” Annabeth nói với tôi. “Đây là Alcatraz.(8)”
“Ý cậu là hòn đảo gần San Francisco?”
Annabeth gật đầu. “Trường tớ từng có một chuyến đi thực tế ở đây. Nó giống như một bảo tàng ấy.”
Dường như việc chúng tôi có thể vọt ra khỏi Mê Cung và ở đầu kia của đất nước là không thể, nhưng Annabeth đã sống ở San Francisco cả năm trời, theo dõi Núi Tamalpais ở phía bên kia vịnh. Cô ấy chắc chắn biết mình đang nói gì.
“Dừng lại,” Grover cảnh báo chúng tôi.
Nhưng Tyson tiếp tục đi tới. Grover ôm lấy cánh tay Tyson và dùng hết sức kéo cậu ấy lại. “Dừng lại, Tyson!” Grover thì thầm, “Cậu không trông thấy gì à?”
Tôi nhìn theo hướng Grover chỉ và dạ dày tôi quặn lên từng cơn. Trên ban công tầng hai, phía bên kia sân là một con quái vật còn kinh khủng hơn bất cứ con quái vật nào tôi đã từng gặp trước đây.
Trông nó giống như một nhân mã, với cơ thể của một người phụ nữ tính từ phần eo trở lên. Nhưng thay vì phần dưới giống ngựa thì đó là thân của một con rồng – nó dài ít nhất là sáu mét, đen và đầy vẩy với những móng vuốt khổng lồ và một cái đuôi đầy gai. Những cái chân của bà ta trông như bị những thân nho quấn quanh, nhưng rồi tôi nhận ra chúng là những con rắn, hàng trăm con rắn vipe đang phóng ra, như thể chúng đang tìm kiếm một cái gì đó để cắn xé. Tóc của bà ta cũng được làm bằng rắn chẳng khác gì của mụ Medusa. Điều kỳ lạ nhất là quanh eo của bà ta, nơi giao nhau giữa cơ thể người và rồng, da bà ta nổi bọt và biến đổi, thỉnh thoảng lại xuất hiện đầu của một con vật – một con sói, một con gấu, một con sư tử hung dữ, như thể bà ta đang đeo một cái thắt lưng làm bằng những sinh vật và chúng thì liên tục thay đổi. Tôi có cảm giác mình đang nhìn thấy cái gì đó mới hình thành một nửa, một con quái vật ở hình hài cổ xưa,hi cơ thể nó được định hình đầy đủ.
“Chính là bà ta,” Tyson rên rỉ.
“Cúi xuống!” Grover nói.
Chúng tôi thu mình trong bóng tối, nhưng con quái vật chẳng mảy may chú ý đến chúng tôi. Có vẻ bà ta đang nói chuyện với ai đó trong xà lim trên tầng hai. Đó là nơi tiếng khóc phát ra. Người phụ nữ mình rồng nói điều gì đó bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ.
“Bà ta đang nói gì vậy?” Tôi nói khẽ. “Đấy là ngôn ngữ gì thế?”
“Ngôn ngữ cổ xưa.” Tyson rùng mình. “Thứ ngôn ngữ mà Đất Mẹ vẫn nói với các Titan... và những đứa con khác của bà ấy. Từ trước thời các vị thần.”
“Em hiểu nó sao?” Tôi hỏi. “Em dịch được chứ?”
Tyson nhắm mắt lại và bắt đầu nói bằng giọng bực tức khó chịu của người phụ nữ kia. “Ngươi sẽ làm việc cho ông chủ hoặc là bị trừng phạt.”
Annabeth rùng mình. “Tớ rất ghét mỗi khi cậu ấy làm như vậy.”
Giống như tất cả các Cyclops khác, Tyson có khả năng phi thường về nghe và khả năng bắt chước giọng nói của mọi người. Cậu ấy gần như ở trạng thái xuất thần mỗi khi nói giọng của người khác.
“Tôi sẽ không làm đâu,” Tyson nói bằng một giọng trầm trầm và bị tổn thương.
Rồi cậu ta lại chuyển sang giọng con quái vật: “Vậy ta sẽ rất vui mừng được thấy ngươi phải chịu đau đớn, Briares.” Tyson loạng choạng khi cậu ấy nói ra cái tên đó. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy mất bình tĩnh khi giả giọng người khác, nhưng lần này cậu ấy như bị nghẹt thở. Sau đó Tyson tiếp tục bằng giọng của con quái vật. “Nếu ngươi nghĩ lần tống giam đầu tiên của mình là không thể chịu nổi, thì ngươi hẳn chưa cảm nhận được sự đau khổ thực sự đâu. Hãy nghĩ cho kỹ điều này cho đến khi ta quay lại.”
Bà ta bước một cách nặng nề về phía cầu thang, những con rắn vipe rít lên quanh chân mụ trông như chiếc váy làm bằng cỏ. Mụ dang rộng đôi cánh mà trước đó tôi không để ý – đôi cánh dơi khổng lồ đã gập lại trên lưng rồng. Mụ nhảy xuống khỏi lối đi hẹp và bay qua sân. Chúng tôi lại nép mình xuống thấp hơn trong bóng tối. Một cơn gió nóng có mùi lưu huỳnh táp vào mặt tôi khi con quái vật bay ngang qua. Và rồi mụ ta biến mất ở một góc rẽ.
“Kiinh khủng quá,” Grover nói. “Tớ chưa bao giờ thấy con quái vật nào có mùi đậm đặc như vậy.”
“Đó là cơn ác mộng tồi tệ nhất của các Cyclops,” Tyson lẩm bẩm. “Kampê.”
“Ai cơ?” Tôi hỏi.
Tyson nuốt nước bọt. “Bất cứ Cyclops nào cũng đều biết bà ta. Những câu chuyện về bà ta làm bọn em sợ phát khiếp ngay từ khi còn nhỏ. Bà ta là cai ngục của bọn em trong những năm tháng tồi tệ trước đây.”
Annabeth gật đầu. “Tớ nhớ rồi. Khi các thần Titan còn trị vì, họ đã giam giữ những người con đầu tiên của Gaea(9) và Ouranos(10) – các Cyclops và các Hekatonkheire.
“Heka-gì cơ?” Tôi hỏi.
“Những Người Trăm Tay ấy,” Annabeth nói. Họ được gọi như vậy bởi vì... ờ... họ có một trăm bàn tay. Họ là anh của các Cyclops.”
“Họ rất mạnh,” Tyson nói. “Rất đáng nể! Cao chạm trời. Khỏe đến nỗi có thể phá tan những ngọn núi!”
“Tuyệt,” tôi nói. “Trừ trường hợp em là một ngọn núi.”
“Kampê là cai ngục. Bà ta là thuộc hạ của Kronos. Bà ta giam giữ những người anh em của em ở Tartarus, luôn hành hạ bọn em, cho đến khi thần Zeus đến. Ông ấy đã giết chết Kampê rồi giải thoát các Cyclops và những Người Trăm Tay để giúp ông ấy chống lại các thần Titan trong trận chiến vĩ đại.”
“Và giờ thì Kampê đã trở lại,” tôi chêm vào.
“Quá tệ,” Tyson kết luận.
“Vậy ai đang ở trong xà lim kia?” Tôi hỏi. “Em vừa nhắc đến một cái tên...”
“Briares!” Tyson ngẩng đầu lên. “Anh ấy là một Người Trăm Tay. Họ cao chạm trời và...”
“Ờ,” tôi nói. “Và họ có thể phá núi!”
Tôi nhìn lên nhà tù phía trên chúng tôi và thắc mắc tại sao một người cao chạm trời lại có thể ngồi vừa trong một xà lim bé tí ti như vậy, và tại sao anh ta lại khóc.
“Tớ nghĩ chúng ta nên đi kiểm tra xem sao,” Annabeth nói, “trước khi Kampê quay lại.”
Khi chúng tôi tiến đến gần xà lim, tiếng khóc càng lớn hơn. Khi đầu tiên tôi nhìn thấy người bị nhốt bên trong, tôi không chắc về những gì mình đang nhìn thấy. Đó là một anh chàng có kích cỡ của một người bình thường với làn da xanh xao, như màu sữa. Anh ta mặc một chiếc khố trông như cái tã lót to. Chân anh ta to quá khổ so với cơ thể, các đầu móng chân bẩn và nứt nẻ, mỗi bàn chân có đến tám ngón. Nhưng phần phía trên cơ thể của anh ta mới lạ lùng. Anh ta khiến cho Janus trở nên hoàn toàn bình thường. Ngực anh ta mọc ra không biết bao nhiêu tay mà kể, thành các hàng bao quanh cơ thể anh ta. Những cánh tay trông như tay của người thường, chỉ là có quá nhiều tay, và chúng quấn vào nhau, nên ngực anh ta trông như một cái nĩa đầy spaghetti mà ai đó vừa mới xoắn lại. Một vài cánh tay đang ôm lấy mặt khi anh ta khóc.
“Hoặc là bầu trời bây giờ không còn cao như trước kia,” tôi lẩm nhẩm, “hoặc là anh ta nhỏ lại.”
Tyson không để ý lắm đến lời tôi nói. Cậu ấy quỳ xuống.
“Anh Briares!” Tyson gọi.
Tiếng khóc ngừng lại.
“Người anh trăm tay vĩ đại!” Tyson nói. “Hãy giúp chúng em!”
Briares nhìn lên. Mặt anh ta dài và buồn bã với chiếc mũi khoằm và những chiếc răng sâu. Mắt anh ta có màu nâu sẫm – ý tôi là mắt anh ta chỉ có một màu nâu mà không có lòng trắng hay con ngươi gì hết, giống như đôi mắt được làm từ đất sét.
“Chạy đi khi em còn có thể, Cyclops,” Briares nói đầy đau khổ. “Anh thậm chí còn không giúp được chính mình nữa là!”
“Anh là người trăm tay cơ mà!” Tyson khăng khăng. “Anh có thể làm bất kì điều gì!”
Briares lau mũi bằng năm hay sáu bàn tay gì đó. Một vài bàn tay khác đang nghịch những mảnh kim loại và gỗ nhỏ xíu từ một chiếc giường gãy, giống như Tyson thường chơi với các bộ phận của máy móc. Thật ngạc nhiên khi nhìn thấy điều đó. Mỗi bàn tay dường như đều có trí óc riêng. Chúng tạo ra một con thuyền đồ chơi bằng gỗ, và sau đó tháo rời ra với tốc độ tương đương. Một số bàn tay khác đang cào vào nền xi măng vì lý do không thể hiểu được nào đó. Vài bàn tay khác đang chơi trò oẳn tù tì. Vài bàn tay khác nữa đang tạo rối bóng hình con vịt và chó lên tường.
“Anh không thể,” Briares rên rỉ. “Kampê đã quay lại! Các thần Titan sẽ trỗi dậy và ném chúng ta trở lại Tartarus.”
“Hãy mang khuôn mặt dũng cảm đi nào!” Tyson nói.
Lập tức khuôn mặt Briares biến thành một cái gì đó khác hẳn. Vẫn là đôi mắt màu nâu, nhưng có những nét khác hoàn toàn. Mũi anh ta hếch lên, lông mày uốn hình vòng cung và một nụ cười kỳ lạ, giống như anh ta đang cố tỏ vẻ dũng cảm vậy. Nhưng ngay sau đó khuôn mặt anh ta trở lại trạng thái ban đầu.
“Không tốt,” Briares nói. “Vẻ mặt sợ hãi của anh cứ quay trở lại.”
“Làm sao anh làm được như thế?” Tôi hỏi.
Annabeth huých khuỷu tay vào tôi. “Đừng thô lỗ như thế. Những người trăm tay có năm mươi khuôn mặt khác nhau”.
“Vậy chắc là khó mà có một bức ảnh để cho vào kỉ yếu của trường,” tôi nói.
Tyson vẫn thuyết phục. “Sẽ ổn cả thôi, anh Briares! Bọn em sẽ giúp anh! Anh cho em xin chữ kí nhé?”
Briares khụt khịt. “Cậu có mang theo một trăm cái bút không?”
“Nào mọi người,” Grover ngắt lời, “Chúng ta phải ra khỏi đây. Kampê sẽ quay lại. Sớm muộn gì mụ ta cũng sẽ đánh hơi thấy chúng ta thôi.”
“Hãy phá các chấn song đi,” giọng Annabeth cất lên.
“Phải!” Tyson cười với vẻ tự hào. “Anh Briares có thể làm điều đó. Anh ấy rất khỏe. Thậm chí còn khỏe hơn cả các Cyclops. Hãy xem!”
Briares thút thít. Khoảng một chục cái tay của anh ta bắt đầu chơi trò đập tay, nhưng chẳng có cái trong số chúng cố gắng phá các chấn song cả.
“Nếu anh ta khỏe đến thế, sao lại chịu mắc kẹt ở nơi này?” Tôi hỏi.
Annabeth lại nhéo vào mạng sườn tôi. “Anh ta sợ,” cô ấy thì thầm. “Kampê đã nhốt anh ta ở Tartarus hàng ngàn năm. Nếu là cậu, cậu có sợ không?”
Anh chàng trăm tay lại che mặt một lần nữa.
“Anh Briares,” Tyson hỏi. “Có... có chuyện gì vậy? Hãy cho bọn em thấy sức mạnh của vĩ đại của anh đi!”
“Tyson,” Annabeth nói, “tớ nghĩ cậu nên bẻ gãy những chấn song này thì hơn.”
Nụ cười của Tyson dần tắt.
“Tớ sẽ bẻ gãy những chấn song này,” cậu ấy nhắc lại. Cậu ấy nắm lấy cửa xà lim và giật ra khỏi bản lề như thể nó được làm bằng đất sét dẻo.
“Đi nào, anh Briares,” Annabeth nói. “Chúng ta hãy thoát khỏi đây!”
Annabeth chìa tay ra. Trong một giây, khuôn mặt Briares chuyển sang vẻ mặt đầy hy vọng. Một vài cánh tay với ra, nhưng khoảng gấp đôi số cánh tay đó kéo chúng lại.
“Anh không thể,” Briares nói. “Bà ta sẽ trừng phạt anh.”
“Sẽ ổn thôi,” Annabeth hứa. “Anh đã chiến đấu với các thần khổng lồ Titan trước đây, và anh đã chiến thắng, anh còn nhớ không?”
“Anh vẫn nhớ trận chiến đó.” Khuôn mặt Briares lại biến đổi, mày nhăn cả lại và môi trề ra. Đó là khuôn mặt ủ ê, tôi đoán vậy. “Sấm sét rung chuyển cả đất trời. Bọn anh đã ném rất nhiều đá. Các thần Titan và lũ quái vật suýt nữa đã thắng. Nhưng giờ chúng đang lấy lại sức mạnh, Kampê nói vậy.”
“Đừng nghe bà ta,” tôi nói. “Đi thôi!”
Briares không nhúc nhích. Tôi biết Grover nói đúng. Chúng tôi không có nhiều thời gian vì Kampê sắp quay trở lại. Nhưng tôi không thể để anh ta lại ở đó được. Tyson sẽ khóc trong nhiều tuần mất.
“Chơi oẳn tù tì nhé,” tôi thốt lên. “Nếu tôi thắng, anh sẽ đi với chúng tôi. Nếu tôi thua, chúng tôi sẽ để anh ở lại trong nhà ngục này.”
Annabeth nhìn tôi như tôi bị thần kinh vậy.
Khuôn mặt của Briares lại chuyển sang nghi ngờ. “Tôi luôn thắng trong trò chơi oẳn tù tì.”
“Vậy thì chơi nào!” Tôi đấm vào lòng bàn tay ba lần.
Briares làm tương tự với một trăm bàn tay của mình, nghe như một đội quân đang diễu hành ba bước lên phía trước. Anh ta ra một loạt búa, một đống kéo và đủ giấy để làm cả một hạm đội máy bay.
“Tôi đã bảo trước rồi nhé,” anh ta buồn bã nói. “Tôi luôn...” Khuôn mặt Briares chuyển sang bối rối. “Cậu đang ra cái gì thế?”
“Một khẩu súng,” tôi nói và đưa cho Briares xem khẩu súng bằng ngón tay tôi. Đây là trò láu cá mà Paul Blofis đã áp dụng với tôi, nhưng tôi không định nói cho Briares về điều đó. “Một khẩu súng có thể đánh bại tất cả.”
“Như thế là không công bằng.”
đã không nói bất cứ điều gì về công bằng. Kampê cũng sẽ không công bằng nếu chúng ta chần chừ ở đây. Bà ta sẽ quy cho anh tội bẻ gãy các chấn song. Giờ thì đi thôi!”
Briares khụt khịt. “Các á thần là những tên lừa đảo.” Nhưng rồi anh ta cũng từ từ đứng dậy và đi theo chúng tôi ra khỏi phòng giam.
Tôi bắt đầu thấy hy vọng. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là đi xuống dưới và tìm lối vào Mê Cung. Nhưng ngay sau đó Tyson khựng lại như bị đóng băng.
Ngay ở tầng trệt bên dưới, Kampê đang gầm gừ nhìn chúng tôi.
“Đi lối khác,” tôi nói.
Chúng tôi lao về phía cuối lối đi. Lần này Briares khá vui vẻ khi đi cùng chúng tôi. Thực ra anh ta chạy tót lên phía trước, hàng trăm cánh tay vung vẩy trong sự hoảng loạn.
Tôi nghe thấy tiếng đôi cánh khổng lồ của Kampê đập phía sau. Mụ ta rít lên và gầm gừ bằng thứ cổ ngữ của mụ, nhưng tôi không cần phiên dịch cũng hiểu được mụ định giết chúng tôi.
Chúng tôi leo xuống cầu thang, đi xuyên qua một hành lang, băng qua một trạm gác – sang một khu nhà tù khác.
“Bên trái,” Annabeth nói. “Tớ nhớ điều này là nhờ chuyến du lịch.”
Chúng tôi vọt ra ngoài và thấy mình đứng trong sân nhà tù, bao quanh là các trạm gác và dây thép gai. Sau khi đã ở bên trong quá lâu, ánh sáng ban ngày dường như làm tôi chói mắt. Khách du lịch đang đi dạo xung quanh và chụp ảnh. Cơn gió dường như thổi bay cái lạnh ra khỏi đảo. Ở phía nam, San Francisco sáng lấp lánh một màu trắng mờ ảo và tuyệt đẹp, nhưng ở phía bắc, phía trên núi Tamalpais, những đám mây khổng lồ mang theo cơn bão đang xoay vần. Cả bầu trời trông như một con quay màu đen đang xoay tròn từ ngọn núi nơi Atlas bị giam giữ, và cũng là nơi cung điện của các thần Titan trên núi Othrys đang được xây mới. Không thể tin được là các du khách chẳng biết gì về một cơn bão siêu nhiên đang ùn ùn kéo đến, họ thảnh thơi như không có điều gì đáng ngại.
“Thậm chí còn tệ hơn,” Annabeth nhìn về hướng Bắc nói. “Những cơn bão quanh năm lúc nào cũng kinh khủng, nhưng...”
“Chạy tiếp đi,” Briares hét lên. “Mụ ta ở đằng sau đấy!”
Chúng tôi chạy đến đầu bên kia của sân và chạy xa khu nhà tù hết sức có thể.
“Kampê quá lớn để lọt qua,” tôi nói trong hy vọng.
Và sau đó bức tường nổ tung.
Các du khách la hét khi Kampê xuất hiện từ bụi và gạch vỡ, đôi cánh của mụ ta trải rộng hết cái sân. Mụ đang cầm hai thanh kiếm – hai thanh mã tấu bằng đồng dài tỏa ánh có màu hơi xanh kì quái. Ngay cả khi đứng ở bên kia sân, chúng tôi vẫn ngửi thấy mùi chua bốc ra từ làn hơi nước nóng.
“Có độc!” Grover la lên. “Đừng để những thứ đó chạm vào người nếu không...”
“Nếu không sẽ chết hả?” Tôi đoán.
“À... ừ, sau khi cậu dần teo lại thành tro bụi.”
“Vậy phải tránh xa các thanh kiếm ra,” tôi quả quyết.
“Anh Briares, hãy chiến đấu đi!” Tyson giục. “Hãy trở về kích cỡ thật của anh đi!”
Thay vì làm như Tyson nói, Briares hình như còn co lại bé hơn. Trên mặt anh ta là khuôn mặt ‘hoàn toàn sợ hãi’.
Kampê lao rầm rầm về phía chúng tôi trên đôi chân rồng, hàng trăm con rắn trườn quanh người mụ ta.
Trong một giây, tôi đã nghĩ đến việc rút thanh Thủy Triều ra và đối đầu với mụ, nhưng rồi tôi chùn lại. Rồi Annabeth cũng nói điều mà tôi đang suy nghĩ: “Chạy thôi.”
Tranh luận kết thúc. Không thể chiến đấu với một thứ như thế này. Chúng tôi chạy qua sân rồi qua cổng nhà tù, con quái vật vẫn đuổi sát phía sau. Mọi người xung quanh la hét và chạy. Tiếng còi báo động bắt đầu kêu inh ỏi.
Chúng tôi đến cầu tàu ngay khi một con tàu du lịch đang trả khách. Nhóm khách du lịch sững sờ khi trông thấy chúng tôi chạy bổ đến, theo sau là một đám đông khách du lịch khác cũng đang hoảng sợ, và... Tôi không biết họ đã trông thấy gì qua Màn Sương Mù, nhưng hẳn là không tốt lắm.
“Đi thuyền ư?” Grover hỏi.
“Quá chậm,” Tyson nói. “Quay lại mê cung. Cách duy nhất.”
“Chúng ta cần ai đó đánh lạc hướng Kampê,” Annabeth nói.
Tyson nhổ một cột đèn lên khỏi mặt đất. “Em sẽ đánh lạc hướng Kampê. Mọi người chạy trước đi.”
“Anh sẽ giúp em,” tôi nói.
” Tyson nói. “Anh đi đi. Chất độc có thể làm đau Cyclops. Rất đau. Nhưng không thể giết chết được.”
“Em chắc chứ?”
“Đi đi anh. Em sẽ gặp lại mọi người bên trong.”
Tôi ghét cái ý tưởng này. Trước đây, suýt nữa tôi đã để mất Tyson một lần, và tôi không bao giờ muốn liều như thế nữa. Nhưng không còn thời gian để tranh cãi, và tôi cũng không nghĩ được cách nào tốt hơn. Annabeth, Grover và tôi mỗi người nắm một tay Briares và kéo anh ta đi, trong khi Tyson gầm lên, hạ thấp cây cột đèn và tấn công Kampê như một hiệp sĩ đơn thương độc mã.
Kampê liếc nhìn Briares, nhưng Tyson làm mụ phải chú ý ngay khi giáng cho mụ một đòn vào ngực, đẩy mụ bật ngược vào tường. Mụ hét lên và chém tứ phía với hai thanh kiếm, chém cây cột đèn của Tyson ra thành từng mảnh. Chất độc nhỏ thành vũng xung quanh mụ, kêu xèo xèo trên nền xi măng.
Tyson nhảy lùi lại khi khi tóc của Kampê quật vào và kêu rít lên, tất cả những con rắn vipe quanh chân mụ thè lưỡi ra mọi hướng. Một con sư tử nhảy ra khỏi thắt lưng của mụ và gầm lên.
Khi chúng tôi chạy bổ vào khu nhà tù, điều cuối cùng tôi trông thấy là Tyson nhấc một quầy kem Dippin’ Dots lên và ném vào Kampê. Kem và chất độc tung tóe khắp nơi, những con rắn nhỏ trên tóc Kampê đều dính phải hỗn hợp kem và mứt hoa quả. Chúng tôi chạy hộc tốc quay lại sân nhà tù.
“Không làm được,” Briares hổn hển nói.
“Tyson đang liều mình để cứu anh đấy!” Tôi hét lên với Briares. “Anh sẽ làm được.”
Khi chúng tôi đến cửa khu nhà tù, tôi nghe một tiếng gầm đầy giận dữ. Tôi ngoái lại nhìn và thấy Tyson đang chạy hết tốc lực về phía chúng tôi, Kampê theo sát đằng sau. Người mụ ta bám đầy kem và áo phông. Một trong những cái đầu gấu ở vùng eo của bà ta đang đeo một cặp kính râm Alcatraz gọng khoằm bằng nhựa.
“Nhanh lên!” Annabeth giục giã, như thể tôi cần phải được nói cho điều đó vậy.
Cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy phòng giam mà chúng tôi đã đi vào, nhưng bức tường đằng sau nó thì hoàn toàn nhẵn thín – không có dấu hiệu của một tảng đá cuội hay cái gì khác.
“Hãy tìm dấu hiệu đi!” Annabeth nói.
“Đây rồi!” Grover chạm vào một vệt xước nhỏ, và nó trở thành tượng Delta . Dấu hiệu của Daedalus tỏa ánh sáng xanh, và cánh cửa đá kêu ken két rồi mở ra.
Quá chậm. Tyson đang chạy băng qua khu nhà giam, những lưỡi kiếm của Kampê chém tới tấp đằng sau lưng cậu ấy, chém loạn xạ lên các chấn song của phòng giam và các bức tường đá.
Tôi đẩy Briares vào bên trong mê cung, sau đó là Annabeth và Grover.
“Em làm được mà!” Tôi nói với Tyson. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra đó là điều không thể. Kampê đang giành lợi thế. Mụ ta đang vung kiếm lên. Tôi cần một cái gì đó khiến mụ ta sao lãng – một thứ gì đó thật lớn. Tôi đập vào cái đồng hồ đeo tay và nó xoắn lại thành một cái khiên đồng. Một cách liều lĩnh, tôi ném nó vào mặt con quái vật.
BỐP! Tấm khiên trúng vào mặt khiến mụ ta loạng choạng đủ để Tyson vụt qua tôi vào mê cung. Tôi theo ngay sau lưng cậu ấy.
Kampê tấn công, nhưng đã quá muộn. Cánh cửa đá đóng lại và ma thuật của nó nhốt chúng tôi ở bên trong. Tôi có thể cảm thấy cả đường hầm rung lên khi Kampê húc vào nó và gầm lên giận dữ. Tuy nhiên chúng tôi không nán lại để chơi trò gõ cửa với mụ ta. Chúng tôi phóng nhanh vào trong bóng tối, và lần đầu tiên (cũng là lần cuối) tôi thấy vui vì được quay trở lại Mê Cung.