Tả Thiếu Dương về tới nhà thì Miêu Bội Lan từ phòng bào chế thuốc nóng lòng chạy ra:
- Tả đại ca, Thảo Nhi vẫn chưa tình, không cho ăn được.
- Để ta xem.
Tả Thiếu Dương đi vào phòng, Thảo Nhi nằm trên chiếu, hai mắt nhắm chặt, không nhúc nhích, nhíu mày xem mạch, không tìm ra nguyên nhân vì sao Thảo Nhi bất tỉnh, trước đó cho ăn canh trứng không có tác dụng còn nghĩ vì bị tắc ruột, nhưng bây ra mấy thứ ba lăng nhăng đó đã thải ra cả rồi, cho dùng cả Tử tuyết đan mà không tỉnh là thế nào, không tìm ra nguyên nhân, đành bảo:
- Muội lấy cho ta phễu mỏ hạc.
Dùng phễu mỏ hạc cho Thảo Nhi ăn cháo nhân sâm, Thảo Nhi vẫn hôn mê bất tỉnh, mạch thì mỗi lúc một yếu, trong thời đại khiếm khuyết kỹ thuật kiểm nghiệm này, khâu quan trọng nhất trong vọng văn vấn thiết là vấn lại không thể tiến hành, muốn phán đoán vì sao một người cứ hôn mê mãi thực sự quá khó.
Tả Thiếu Dương ngồi trên đệm thất thần suy nghĩ hồi lâu không nói gì, Miêu Bội Lan thấy y không cần gì nữa, thật nhẹ nhàng nhàng đi ra góc phòng, lấy bô muốn đi đổ vào nhà xí, Tả Thiếu Dương ngửi thấy, lòng máy động:
- Bội Lan, đưa ta xem nào.
- Hả? Huynh xem làm cái gì? Thối lắm.
- Làm lang trung còn sợ thối à?
Tả Thiếu Dương đi tới lấy cái bô:
- Trong vọng văn vấn thiết bao gồm quan sát cả vật đại tiểu tiện, từ trong đó tìm hiểu rất nhiều bệnh tật.
Trong phân của Thảo Nhi có rất nhiều rau cỏ chưa tiêu hóa, lại còn nguyên hình, Tả Thiếu Dương không biết rằng khi đó Thảo Nhi đã không còn sức mà chọn thứ nào ăn được thứ nào không nữa, nó cứ nằm đó ở bên cạnh có gì là ăn nấy, nhưng cỏ dại quá đắng khó nuốt, nên nó chẳng nhai mà nuốt kèm tuyết luôn, công năng dạ dày khi đó suy yếu, cỏ dại không thể cung cấp mấy dinh dưỡng, nên không tiêu hóa, giữ nguyên hình dạng.
Tả Thiếu Dương cầm cái que bới phân xem, đột nhiên một thứ cỏ khô vàng khiến y chủ ý, ngoại hình rất quen, ngồi hẳn xuống, cầm lấy trải ra xem, đến cả Bạch Chỉ Hàn và Miêu Bội Lan cũng phải nhăn mặt, hai nàng chưa bao giờ nghe lang trung nào làm thế cả. Cái lá trải ra rồi, Tả Thiếu Dương í một tiếng, không ngờ nó chính là Dương kim hoa, cũng chính là Mạn Đà La.
Không ngờ ngoài hậu viện Cù gia được Bạch Chỉ Hàn trồng, nơi khác ở Hợp Châu cũng có.
Mạn Đà La mà dùng trực tiếp có độc, khiến tần suất hô hấp tăng, mắt mờ, ý thức mơ hồ, nghiêm trọng có thể gây tử vong.
Chẳng trách mà Thảo Nhi hôn mê mãi, ngay cả dùng Tử tuyết đan cũng vô hiệu, té ra là trúng độc của Mạn Đà La.
Trúng độc của Mạn Đà La và thuốc tê chế từ Mạn Đà La là hai chuyện khác nhau, để giải được cần lục đậu, kim ngân hoa, liên kiều hỏa và cam thảo.
Cái gì cũng dễ kiếm, chỉ kim ngân hoa là khó.
Mặc dù kim ngân hoa lần đầu ghi chép vào y thư là ở thời Đường, nhưng vào những năm đầu thời Đường, rất ít sử dụng loại dược liệu này, đơn thuốc có nó rất ít, cho nên nhu cầu không nhiều. Không ngờ phải dùng tới.
- Chỉ Nhi, cô có trồng kim ngân hoa không?
Bạch Chỉ Hàn lắc đầu.
Tả Thiếu Dương xìu xuống:
- Hoa đẹp thế sao không trồng?
- Kim ngân hoa mọc trên núi rất nhiều, muốn ngắm lên núi là được, trồng làm gì? Vả lại trên đời hoa đẹp nhiều vô kể, nếu trồng hết, nô tỳ trồng nổi sao?
Có phải mình đang quá mẫn cảm không, nha đầu này nói gì cũng như có ẩn í, tạm thời gạt đi, Tả Thiếu Dương cười khổ:
- Loại hoa này là thứ thuốc thanh nhiệt giải độc tốt, bây giờ ta cần nó trị bệnh cho Thảo Nhi.
- Vậy để nô tỳ đi xem hiệu thuốc có không?
- Không có đâu.
Tả Thiếu Dương khẳng định hiệu thuốc nhà mình không có, Hằng Xương dược hành cũng không có, bảo Miêu Bội Lan:
- Lan Nhi, muội có biết ngân hoa không?
Đầu thời Đường gọi kim ngân hoa là ngân hoa, mọc hoang trên núi vô vàng, Miêu Bội Lan quanh năm ở trên núi chặt củi săn bắn, tất nhiên là biết, liền gật đầu.
- Vậy muội đi tới các hiệu thuốc trong thành hỏi cho ta, xem có ngân hoa không nhé.
Tả Thiếu Dương dặn:
- Tiện thể đi qua chỗ phát hiện Thảo Nhi xem xem quanh đó có Mạn Đà La không, Thảo Nhi vì nó trúng độc, ta rất cần loại hoa này, muội tìm giúp ta.
Miêu Bội Lan đáp lời, nhanh nhẹn đi luôn.
Tả Thiếu Dương lấy mấy vị thuốc ra làm tạm thuốc giải khống chế tình trạng của Thảo Nhi, chờ Miêu Bội Lan mang ngân hoa về, bảo Bạch Chỉ Hàn sắc thuốc xong, định đi tìm cha mẹ nói chuyện thì thấy thấy Long thẩm chạy từ cửa vào đã khóc tới sưng đỏ, mọi người cả kinh.
Sợ bệnh tình ngoại công Bạch Chỉ Hàn sinh biến cố, Tả Thiếu Dương vội chạy tới:
- Long thẩm, chuyện gì thế này?
Bạch Chỉ Hàn nghe thấy động tĩnh cũng chạy ra.
Long thẩm khóc nức nở, nắm tay Bạch Chỉ Hàn:
- Tiểu thư … thiếu gia ... thiếu gia .. Chết rồi.
Bạch Chỉ Hàn giật mình:
- Sao lại thế, không phải hôm qua cữu cữu ta vẫn bình thường à?
Tuy sang làm nô tỳ cho Tả Thiếu Dương, nhưng nàng luôn chú ý chuyện ở nhà ngoại công, dù sao hai nhà gần nhau cũng rất tiện.
Phu thê Tả Quý cũng tới hỏi chuyện.
- Hôm nay ta, ta vào nhà lao mang đồ ăn cho thiếu gia, ngục đầu nói sao không mang vào sớm hơn.
Long thẩm không chỉ là nô tỳ lâu năm Cù gia, còn là nhũ mẫu của thiếu gia nhà họ, tình cảm rất sâu đậm, vừa khóc nức nở vừa kể.:
- Từ .. hôm quan binh vào thành, đại bộ phận lương thảo của nha môn bị trưng thu, sau đó lại bị gian tế phản quân đốt mất, cho nên tù phạm không còn lương thực ăn, nha môn thông báo cho gia quyến mang lương thực tới. Nhưng trong nhà cũng không đủ ăn, lão thái gia lại vừa ốm dậy, cần bồi dưỡng, nên gạo trong nhà chia đôi, mỗi ngày mang một cái bánh bao cho thiếu gia, mọi người từ lão thái gia thì chỉ ăn cháo loãng với rau tiểu thư trồng ... Về sau được nhà các vị tặng lương thực, mới đưa một ngày hai bữa, không ngờ ... Không ngờ hôm nay thì ... thì chết rồi ...
Long thẩm quá đau thương nên kể chuyện lẫn lộn chẳng có thứ tự, Tả Thiếu Dương thắc mắc:
- Vì sao có lương thực rồi lại chết?
- Ngục tốt nói ... Tù phạm khác thấy thiếu gia mỗi ngày có hai cái bánh, người khác không có, cho nên mới xông tới tranh giành, thiếu gia nhất quyết không chia cho ai ... Kết quả bị tù phạm trong phòng đánh nội thương ...không, không qua khỏi ...
Toàn bộ Tả gia không biết nói gì, Cù gia chỉ còn một đứa nhi tử này, chưa kịp có con nối dõi, trước mất khuê nữ, giờ mất nốt cả nhi tử, người tóc bạc tiễn người tóc đen, bi kịch nhân gian không có gì thảm hơn nữa.
Cữu cữu này thường ngày chỉ biết rượu chè cờ bạc, Bạch Chỉ Hàn không nói chuyện với hắn, bây giờ nghe nói hắn chết, dù sao là người thân, mắt thất thần tay vô thức vỗ lưng an ủi Long thẩm, không biết nói gì cả.
Tả Thiếu Dương thở dài, Cù gia sợ là bây giờ rối lên, lại phải lo liệu tang lễ ma chay, bảo với Bạch Chỉ Hàn:
- Chỉ Nhi, về xem lão thái gia thế nào, cần gì cứ bảo, đừng ngại.
- Vâng.
Tả Quý cũng bảo thê tử sang Cù gia xem thế nào, nhất là nếu Cù lão thái gia làm sao phải về gọi ngay.
Lương thị cùng với Bạch Chỉ Hàn theo Long thẩm về Cù gia, trống cầm canh vang lên, chỉ mỗi Lương thị trở về, Bạch Chỉ Hàn tạm thời ở lại.
Tả Quý hỏi:
- Tình hình bên đó sao rồi?
- Cù lão thái gia sức khỏe không tốt lắm, song cũng không đến nỗi nào, mới đầu rất giận, mắng chửi nhi tử một hồi, còn nói không cho phát tang, sau đó lại nằm trên giường khóc, thiếp thân và Chỉ Nhi thuê dân tráng vào ngục mang thi cốt đã mang tới chùa Long Tuyền làm lễ, đợi quân địch lui rồi sẽ mang ra mộ tổ ngoài thành an táng.
Xảy ra chuyện như thế, chẳng ai còn lòng dạ nào để ý tới Kiều gia đang nóng lòng đợi tin, thế nhưng lại không bỏ thể diện xuống đi hỏi quyết định của Tả gia.