Phạm Lãi tay vuốt chòm râu, hoang mang nói:
“ Nhưng… chỉ một vị trí Tư Khấu Lỗ quốc mà thôi, tại sao Đại Vương lại quan tâm như thế?
Khánh Kỵ nói:
“ Khổng Khâu một khi nhậm chức, rất có thể giết Thiếu Chính Mão, hai người nay hiềm khích quá sâu, Quả nhân đã từng tận mắt chứng kiến, quả nhân thương tiếc một nhân tài hiếm có như Thiếu Chính Mão, không muốn hắn phải chết như vậy,”
“ Thiếu Chính Mão?”
Phạm Lãi ngây ra, chợt giật mình nói:
“ Thần cũng từng nghe nói qua tên của người này. Người này và Khổng Khâu là hai đại văn nhân, hắn với Khổng Khâu giống nhau, thường xuyên tập trung mọi người dạy học, ở Lỗ quốc cực kỳ có danh tiếng. Khổng Khâu chủ trương phục cổ Chu lễ, người này chủ trương biến pháp cách tân, Khổng Khâu xướng lễ, người này xướng pháp, hai người thường xuyên đối đầu gay gắt, như thế chắc chắn không thể hòa hợp. Những người này chưa từng hành động hung ác, lại là thân phận đại phu, há có thể dễ dàng trừng trị. Khổng Khâu vốn có danh hiền tài, sẽ ỷ vào công quyền mà báo tư oán sao?””
“ Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, nếu một người tự cho rằng hắn là vì bá tánh trăm họ, vì lựa chọn một con đường đi đúng đắn cho quốc gia, hắn sẽ không vì thế mà cảm thấy hổ thẹn, nói không chừng chính hắn còn cảm động, cho rằng hắn làm như thế là ‘ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục đây’.”
“ Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục? Đại Vương, những lời này… hiểu thế nào?”
“ À…, ý chính là nói, có những hành động mục đích là thiện, nhất định phải dùng thủ đoạn bất nghĩa mới làm được. Vì thế người làm chuyện đó cho dù làm đại sự có lợi cho dân cho nước, nhưng lợi ích danh tiếng của cá nhân hắn sẽ bị tổn hại. Vì thế rất nhiều người muốn hành thiện sẽ chùn bước. Nhưng rút cuộc chuyện này tất phải có một người đi làm, ta không làm, ai sẽ làm đây?”
Khánh Kỵ mỉm cười, nhẹ nhàng nói:
“ Có kiểu tâm lý tự bản thân hi sinh thành quả đại nghĩa, cho dù bị mọi người chỉ trích, hắn cũng không hổ thẹn, nói không chừng còn vì sự cao thượng của hắn mà tự mình quyết một phen. Vấn đề là nếu như thủ đoạn của hắn có nhiên bất nghĩa, kết quả đạt được cũng là hắn tình nguyện?”
Thích Ca Mâu Ni nhỏ hơn Lão Tử năm tuổi, Khổng Tử nhỏ hơn Thích Ca Mâu Ni mười năm tuổi. Tăng nhân ba giáo Thích Nho Đạo lúc đó danh tiếng tuy rất lớn, nhưng đều vẫn chưa thành chính quả, phật giáo truyền vào Trung Quốc vẫn còn thời gian mấy trăm năm. Khánh Kỵ không muốn giải thích nhiều cho Phạm Lãi nữa, quay lại hỏi:
“ Theo Phạm Lãi nhìn nhận, trị thiên hạ, pháp và lễ, cái nào làm trọng?”
Khổng Khâu là phái lý tưởng, Phạm Lãi lại là phái thực dụng. Nếu muốn hắn chọn, đương nhiên hắn chọn pháp trị. Thế là Phạm Lãi không do dự, lập tức trả lời:
“ Đương nhiên là lấy điều lệ luật pháp làm chuẩn tắc cho hành động của con dân.”
Khánh Kỵ mỉm cười gật đầu nói:
“ Tấm lòng nhân ái là thiên tính của con người, nhưng đạo đức lại phụ thuộc vào giáo dưỡng ngày sau. Chúng ta không thể đảm bảo mỗi người đều có đủ đạo đức, như vậy chỉ còn cách lấy luật pháp ràng buộc, để mọi người biết một khi vi phạm phép tắc đã định thì cái giá phải trả sẽ lớn hơn rất nhiều những thứ họ đạt được, khi ấy mới có thể khiến đại đa số người không muốn tuân thủ đạo đức cơ bản phải tuân theo những quy tắc này. Xích Trung trị pháp, cho đến nay không hề tiến triển, Kinh Lâm ở Đông Di, thủ hạ lại thiếu lương tướng, quả nhân rất muốn Xích Trung một lần nữa dẫn quân, nếu như có Thiếu Chính Mão đến thế chỗ của hắn, như thế không còn gì tốt bằng.”
Theo cách nhìn của Khánh Kỵ, nhân nghĩa đạo đức là cốt lõi của Chu lễ, nhưng không phải là phát minh của Chu lễ. Truyền thống mỹ đức là một thứ được quy kết chắt lọc sau khi xã hội loài người hình thành. Đạo đức không phải chỉ có ở nho gia, trên thế giới, trước khi có Chu lễ, thì đã có Tỷ Can trung thành, cũng có Phí Trọng gian trá; Khi nho gia chưa được coi trọng thì có Mông Điềm trung nghĩa, cũng có Triệu Cao phản tặc. Đến khi học thuật nho gia Chu lễ xướng hành khắp thiên hạ thì như thế nào? Vẫn như thường có Nhạc phi trung nghĩa cùng Tần Cối gian tà. Trung và gian, đạo đức và phi nghĩa, những hiện tượng này không phải vì sự tồn tại của nho gia mà biến mất hoặc xuất hiện. Cái đảm bảo để cai trị một quốc gia đó chính là luật pháp và chế độ. Trong tay Khánh Kỵ chưa có ai tiến hành nghiên cứu hệ thống pháp luật, Thiếu Chính Mão được coi là pháp gia tiên phong, chính là nhân tài mà Khánh Kỵ đang nôn nóng tìm kiếm.
Khánh Kỵ thở dài nói:
“ Đáng tiếc, chúng ta hiện tại không thể với tới Lỗ quốc, nếu Thiếu Chính Mão không việc gì, hắn không thể đến Ngô quốc ta. Nếu hắn đúng là gặp chuyện, chúng ta muốn cứu hắn cũng không kịp nữa rồi.”
Phạm Lãi lược ra một kế sách nói:
“ Đại Vương đã coi trọng người này như vậy, chúng ta không ngại cố gắng. Nếu có thể cứu tính mạng của hắn cố nhiên là tốt, nếu không cứu được chúng ta cũng không có tổn hại.”
Khánh Kỵ buông tay nói:
“ Quả nhân ở Lỗ quốc chỉ có một vài tai mắt mật báo, làm thế nào kịp thời cứu được tính mạng của hắn?
Phạm Lãi mỉm cười nói:
“ Không phải còn có Tiểu Man cô nương và Diêu Quang cô nương đó sao? Hai vị cô nương này trong hôn nhân đại sự liên quan đến cả tiền đồ gia tộc không làm chủ được, nhưng điều đó không có nghĩa trong sự vụ của gia tộc mình hai cô nương không có chút ảnh hưởng nào. Nếu là hai cô nương ấy có thể khiến Quý Thị, Thúc Thị quan tâm tới Thiếu Chính Mão một chút, Khổng Khâu muốn giết hắn e rằng không dễ dàng như vậy.
“ Tiểu Man… rất khó…, nhưng Diêu Quang…”
Nghĩ tới Diêu Quang xưa nay trước mặt Thúc Tôn Ngọc dáng vẻ luôn hết lòng, mắt Khánh Kỵ sáng lên, luôn miệng nói:
“ Không tồi, không tồi, có thể thử một lần. Quả nhân sẽ viết một bức thư cho Diêu Quang, để nàng nghĩ cách quan tâm một chút.”
Khánh Kỵ vội vàng quay vào trong điện viết một bức thư, cử người phi ngựa tốc hành mang đến Lỗ quốc. Cách này có thể phát huy được bao nhiêu công dụng, trong lòng hắn cũng không chắc chắn, bây giờ chỉ có thể tận nhân lực mà nghe thiên mệnh thôi.
Sau giờ ngọ, sắc trời càng thêm u ám, tuyết rơi ngày càng dày. Phạm Lãi đã cáo từ hồi cung. Khánh Kỵ đã ngủ được một lúc. Khi Khánh Kỵ tỉnh dậy, tuyết đã ngừng rơi, sắc trời cũng dần sáng lại.
Khánh Kỵ đứng dậy, để vài tỳ nữ mặc quần áo trang điểm cho hắn, một tên hầu bên cạnh cầm bản ghi chép trình báo một số sự việc:
“ À, còn có một việc. Vừa nãy Thành Tú giao nhận lương thực đến gặp Đại Vương, Đại Vương đang ngủ, Thành Tú liền về phủ, nói là…”
“ Thành Tú?”
Ánh mắt Khánh Kỵ xoay chuyển:
“ À…, Quả nhân muốn cho hắn thời gian một tháng, nói hắn bôn ba thiên hạ lo liệu lương thảo, không hề thúc dục, hiện giờ đã qua ba tháng. Hừ, ta không hỏi hắn, hắn cũng giả vờ câm điếc không đề cập tới chuyện này…”
Khánh Kỵ giơ tay, hai tỳ nữ thanh tú khom lưng thắt đai ngọc cho Khánh Kỵ. Khánh Kỵ dặn dò tên hầu:
“ Đi, gọi người chuẩn bị xe trượng, Quả nhân lập tức phải đến phủ Thành đại nhân. Còn nữa, không được báo trước cho hắn biết.”
Tên hầu kia vâng một tiếng, vội vàng chạy đi sắp xếp xuất hành. Khánh Kỵ sửa lại trang phục đâu ra đấy, liền giắt kiếm vào eo, phủ lên áo bào dài được trang trí bằng những đường nét hoa văn long phượng, bước dài đi ra.
Một cỗ xe nhẹ nhàng chậm rãi đi về phía Vương thành bắc cửa cung. Sau xe hai võ sĩ cưỡi ngựa đi theo, đến trước cửa cung, binh lính canh cổng chặn lối đi của họ, đến kiểm tra thân phận và thẻ bài vào cung, vị ngự giả đánh xe giữ chặt dây cương cười nói:
“ Trên xe là Di Quang cô nương, muốn vào cung bái kiến Đại Vương.”
Tấm mành trên kiệu được vén lên, bên trong lộ ra một nửa thân người, một thiếu nữ thanh lệ, toàn thân được bọc trong áo lông chồn trắng như tuyết, trên đầu đội mũ liền với áo, viền mũ đính lông thỏ, chỉ lộ ra gương mặt nhỏ xinh đẹp trắng mịn. Nàng hướng tới mấy võ sĩ gác cổng cung mở miệng cười, trên má lộ ra hai má lúm đồng tiền xinh xắn:
“ Binh đại thúc, Đại Vương có ở trong cung không?”
Thi Di Quang là quý khách đặc biệt của hoàng cung Cô Tô, ra vào cung không bị ngăn cấm, luôn được Khánh Kỵ sủng ái. Võ sĩ trong cung tất cả đều biết, hơn nữa bọn họ đều rất thích tiểu cô nương không hề kiêu ngạo này, nhìn thấy cô đám tướng lĩnh canh gác cổng cung liền hai tay trả lại thẻ bài cho ngự giả, lộ ra nét tươi cười nói:
“ Sau giờ ngọ Đại Vương ngủ trưa chốc lát, lúc ấy mưa tuyết vừa mới tạnh, Đại Vương chắc vẫn còn trong cung, mời cô nương vào.”
“ Đa tạ binh đại thúc.”
Thi Di Quang lui vào trong xe, binh sĩ mở cửa cung, ngự giả giơ roi thúc ngựa vào cung, hai võ sĩ đi theo xoay người xuống ngựa, vào nhà bên cạnh cửa cung nghỉ tạm.
Lúc đó Khánh Kỵ đã ra ngoài cổng cung phía nam, cưỡi ngựa, cùng hơn mười võ sĩ bảo vệ phi ngựa đến phủ Thành Tú đại phu.
Mưa tuyết mới tạnh, đám gia nhân phủ Thành Tú đang dùng xẻng gỗ, chổi quét dọn đám tuyết còn đọng lại. Trong sân chồng lên mấy đống tuyết. Đoàn người của Khánh Kỵ xuống ngựa ở cổng, bước lớn đi vào trong sân.
Một gia tướng vội chào đón nói:
“ Các vị là ai, sao chưa thông báo đã xông vào…”
Sở Kiệt giơ roi ngựa ngắt lời hắn:
“ Nói nhảm ít thôi, Đại Vương giá lâm, Thành Tú đâu, nhanh gọi hắn ra kiến giá.”
“ Chao ôi, ôi… vâng vâng…”
Tên gia tướng kia hoảng sợ, liếc nhìn Khánh Kỵ trên người khoác áo bào dài đứng ngang nhiên bên cạnh Sở Kiệt, xoay người chạy, chạy được hai bước nhớ ra nên hành lễ với Đại Vương trước, lại vội vàng quay người lại, không ngờ suýt nữa đầu đụng phải ngực Khánh Kỵ, Khánh Kỵ chặn giữ vai hắn lại, cười nói:
“ Đừng như loài ruồi bọ không đầu đụng lung tung, không cần hành lễ, cũng không cần thông báo, dẫn Quả nhân đi trước.”
“ Vâng vâng,”
Tên gia tướng cúi đầu khom lưng nói xong, dẫn Khánh Kỵ vượt qua tiền sảnh đi về phía vườn sau.
Khánh Kỵ có thể xông vào phủ của Thành Tú, nhưng dù sao cũng không đến mức trực tiếp xông vào phòng hắn. Đến trước khu Nhã Hiền đã được dọn sạch sẽ ở vườn sau, tên gia tướng hướng vào trong lớn giọng bẩm báo:
“ Đại vương giá lâm.”
Trong chốc lát, Thành Tú vội vã chạy ra đón, vừa thấy Khánh Kỵ, hắn kinh hãi nói:
“ Đại Vương làm thế nào lại đến đây, thần không đón tiếp từ xa, đắc tội, đắc tội…”
Thành Tú nói xong, hành lễ lạy dài, Khánh Kỵ cười nói:
“ Không cần câu nệ, chúng ta vào trong rồi nói chuyện.”
“ Vâng vâng,”
Thành Tú vội vàng cung kính mời khách, Khánh Kỵ bước vào trước, ánh mắt đảo qua, chỉ nhìn thấy đây là một gian nhà ba gian, hai phòng trái phải đều treo rèm cửa, phòng chính giữa là khách đường, đang đốt hai lò sưởi, không khí rất ấm áp, phía trên ghế đặt một bàn kỷ, trên bàn có vài cái đĩa thức ăn tinh xảo, còn có một ấm, một chén.
“ Đại Vương, Thần … đang ở trong phủ ăn qua loa, không biết Đại Vương giá lâm, vẫn chưa kịp dọn dẹp, cái… cái này… Thần lập tức sai người thu dọn mâm rượu.”
“ Không cần, Quả nhân là khách, làm sao có thể chuyển thành chủ được.”
Khánh Kỵ cười ha ha nói.
Khánh Kỵ bước đến, nghênh ngang ngồi xuống ghế, liếc mắt nhìn tiệc rượu trên bàn, mỉm cười nói:
“ Thành Khanh không phải đã đưa về bốn mỹ nhân làm thiếp rồi sao, tại sao dùng bữa một mình, lại không để bọn họ tiếp rượu?”
Thành Tú xoa xoa tay cười nói:
“ Thần hôm nay mới về phủ, trong người có chút mệt mỏi, muốn ăn qua loa một chút rồi đi nghỉ, nên không khiến người ăn cùng.”
“ Ồ?”
Khánh Kỵ lại liếc mắt nhìn mấy món ăn trên bàn, nói:
“ Thành khanh trong thời gian qua bôn ba các nước, đúng là vất vả rồi. Khanh vì Ngô quốc vận chuyển về số lượng lớn lương thực, công lao rất lớn, trong lòng Quả nhân hiểu rõ.”
“ Đại Vương quá khen. Kỳ thực… Thành Tú khi làm thương nghiệp, cũng thường bôn ba khắp thiên hạ. Thật chưa nói tới vất vả, huống chi Đại Vương không bạc đãi Thành Tú, những lương thực mang về đều mua theo giá thị trường, Thành gia cũng được lợi không ít.” “ Ừm, Quả nhân biết khanh có tài năng và hứng thú kinh doanh thương nghiệp, tuổi còn trẻ, lại không có kinh nghiệm, chức quan này khanh làm rất đau đầu. Lại thêm khanh gần đây luôn bận kiếm lợi từ chuyện mua lương thực, vì thế nên tuy cho khanh chức đại phu, nhưng lại không sắp xếp cho khanh chức quan trong triều.”
Khánh Kỵ nói đến đây, nhìn dáng vẻ đứng lo lắng bất an của Thành Tú, nói:
“ Khanh ngồi đi. Các công khanh trong một quốc gia có quan Tư Nông, Tư Sử, Tư Binh, Tư Pháp, Tư Học. Nhưng thương nghiệp trước nay đều chưa xếp vào trong đó. Quả nhân thấy, thương nghiệp rất quan trọng, trong bách nghề thực nên xếp đầu tiên. Ngày trước Quản Trọng trị Tề Quốc, đặc biệt coi trọng thương nghiệp, nên mới nâng nước Tề lên vị trí đại quốc đông phương. Khi đó thành Lâm Truy có bốn vạn hai nghìn nhà, hơn hai mươi vạn người, trong đó một vạn hai nghìn nhà, hơn sáu vạn người làm thương nghiệp, chiếm một phần ba dân số.
Phương đông có cá muối, phương tây có da, phương nam có ngà voi, phương bắc có ngựa, Trung Nguyên có nông phụ thủ công nghiệp…, thiên hạ rộng lớn, đất đai mênh mông, lại có các chư quốc san sát, bảo vệ nghiêm ngặt, thương nghiệp như huyết mạch, thông thương không lưu thông, bách nghề khó hưng thịnh. Ngô quốc ta ở phía đông nam, dân không đói rét, nhưng thiếu những gia hộ giàu có, muốn quốc phú dân cường, thương nghiệp không thể không hưng thịnh.”
Hưng thương, thì tâm trục lợi của sĩ dân càng nặng. Sức ràng buộc của chế độ lễ pháp với xã hội sẽ càng suy giảm. Tốc độ hủy hoại lễ nhạc sẽ tăng nhanh. Nhưng thời đại kinh tế tiểu nông thượng cổ đã không thể tránh được trở nên lạc hậu cũ kỹ, nếu như cứ kiên trì tiếp tục chế độ lễ nhạc không còn phù hợp. Một mặt nhấn mạnh mặt tiêu cực của sự vật mới, dùng quyền lực của kẻ thống trị cưỡng chế thi hành sẽ phá hỏng sự vụ mới của chế độ lễ nhạc giáo hóa, nhưng không cải cách chế độ, để nó thích ứng với sự vật mới, chỉ có thể là vì chuyện nhỏ mà bỏ chuyện lớn, trì trệ tiến trình phát triển của xã hội.
Khánh Kỵ cũng biết, để nông dân cố định trên mảnh đất của họ, sẽ làm yếu đi tác dụng lưu thông thương nghiệp. Để bách tính cùng nghe tiếng gà chó của nhau, già chết đi cũng không cùng qua lại, cả đời không rời quá cổng nhà mười dặm, hoàn toàn không biết chuyện thiên hạ; Lại bài xích tư tưởng bách gia, trong một quốc gia thống nhất, để tất cả mọi người chỉ học một tư tưởng thống nhất, chỉ phục vụ cho một lý luận thống nhất, đối với kẻ đương quyền mà nói mới có lợi, như thế mới có thể trong hạn độ lớn nhất củng cố vững chắc sự thống trị của hắn, để vương triều của hắn kéo dài thêm.
Nhưng mà đối với hắn hồi ức chỉ có được trong tương lai khoảng hai nghìn năm, Khánh Kỵ biết làm như thế kết quả có được chỉ là khiến một quan niệm và chế độ mà sứ mệnh lịch sử vốn nên kết thúc lại tiếp tục kéo dài hơi tàn, điều gì đến cuối cùng vẫn phải đến. Khánh Kỵ biết, trong lịch sử thời đại thương nghiệp phát triển hưng thịnh nhất có ba thời kỳ hoàng kim. Một là thời đại xuân thu chiến quốc, mà thời kỳ này do chư quốc mọc lên như rừng, thông thương là nhu cầu tất yếu của quốc gia, còn nhận được sự ủng hộ và coi trọng của các quốc gia; Thời đại hoàng kim thứ hai là Đường Tống, do triều đình coi trọng thương nghiệp, mới khiến quốc gia trở nên cực kỳ giàu có; Thời đại hoàng kim thứ ba là Minh Thanh, mặc dù lúc đó tư tưởng đã ngày càng cứng nhắc, nhưng cùng với sự gia tăng dân số, chư quốc đến kết giao, thương nghiệp đã không thể tránh được. Mãn Thanh vẫn muốn khước từ sự bắt đầu của nó, nhưng cuối cùng bị người dùng kiên thuyền lợi pháo mạnh mẽ mở toang đại môn.
Nếu như một người thống trị có thể dùng quyền lực trong tay chế định một ít chính sách, mang một thứ theo kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ, thứ vốn xuất hiện hợp thời cưỡng chế hơn mấy trăm nghìn năm, như vậy người thống trị muốn trị quốc, nhất định phải dùng quốc sách hắn chế định, để nó xuất hiện phù hợp, phát triển hưng thịnh phồn vinh.
Khánh Kỵ đang rất cẩn thận tiến hành thử nghiệm, trước mắt đã đạt được một số thành công, đối với một số chính sách đã phát triển thuận lợi, củng cố được lòng tin của Khánh Kỵ. Khánh Kỵ không rập khuân như phương pháp của Thương Ưởng, theo cách nhìn của hắn, cái thích hợp với Tần quốc chưa chắc đã hợp với Ngô quốc, nội dung biện pháp mà Thương Ưởng đã dùng chưa chắc đã hoàn toàn đúng đắn. Những chính sách dùng trong pháp trị quá tàn khốc, Khánh Kỵ không muốn áp dụng. Thương Ưởng trong lĩnh vực kinh tế trọng nông khinh thương, Khánh Kỵ lại tiên nông hậu thương, trọng nông hưng thương. Khánh Kỵ muốn đi con đường của chính mình, muốn dùng những kinh nghiệm đã có của mình đi vào rừng rậm tìm nơi tốt sinh sống, lấy những thứ tốt đẹp vứt bỏ những thứ không tốt mà không phải là bê nguyên xi kinh nghiệm của người khác vào.
Khánh Kỵ nói:
“ Quả nhân tính toán đợi thời cơ chín muồi, sẽ thiết lập chức quan chuyên Tư Thương Nghiệp, đến lúc đó, ta tin khanh có thể phát huy, thể hiện được tài năng của mình.”
Thành Tú thấy Khánh Kỵ đột nhiên đến thăm, dường như là muốn cùng hắn tham khảo thương nghiệp, còn báo tin tức sắp xếp chức quan sau này, trong lòng dần yên tâm, lúc đó mới ngộ ra cái đạo phải tiếp đãi, vội trả lời nói:
“ Đại Vương đây là lần đầu đến phủ của thần, thần vui mừng khôn xiết, hay là thần thu dọn hết bữa thừa kia, dâng lên tiệc mới, tiếp Đại Vương vài chén, Đại Vương thấy thế nào? Trong phủ của thần có bốn vũ nữ, là mấy ngày trước khi thần đi qua Tấn quốc dùng số tiền lớn mua về mỹ nhân Khuyển Nhung, sánh với nữ tử Giang Nam quả thực có vị khác.”
“ Ồ, mỹ nhân Khuyển Nhung sao…”
Khánh Kỵ đột nhiên liếc mắt nhìn hắn một cái, tim Thành Tú đập thình thịch, chỉ nghe Khánh Kỵ nói:
“ Thành Tú, lệnh tỷ Thành Bích, đến này có tin tức gì chưa?”
Thành Tú lập tức luống cuống đứng lên, nói:
“ Điều này… điều này…, thần… thần cũng không nghe được tin tức gì của tỷ tỷ.”
“ Những món ăn này…”
Khánh Kỵ tường tận chỉ mấy món ăn trong đĩa, khẽ thở dài:
“ Thịt hươu, canh nấm, cá nướng, canh cải thịt cá…, đều là những món Thành Bích thích ăn, quả nhân nhìn thấy vật nhớ đến người, làm gì có tâm trạng thưởng thức mỹ vị, ca múa?”
Ngoài sảnh sau mưa tuyết trời trở nên sáng trong, trong phòng trên trán Thành Tú lại toát mồ hôi hột, lúng ta lúng túng chẳng nói lên lời. Khánh Kỵ đột nhiên nghiêm sắc mặt, quát lớn:
“ Thành Bích đã mấy tháng nay không có tin tức, ta bận quốc sự không có thời gian tìm nàng, đành phải chịu. Nhưng… ngươi bận đi các nước vận chuyển lương thảo, vẫn còn nhàn hạ thoải mái vơ vét mỹ nhân trong thiên hạ, sao không thể bớt chút suy nghĩ đi tìm tung tích của nàng?”
“ Thần… thần cũng đã sai người đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng… nhưng không nghe cũng không thấy…”