“ Đệ thấy sao hả” Lạp Hy Đức chỉ vào tấm bản đồ, có chút đắc ý nói: “ Đây là tấm bản đồ làm từ gỗ trầm hương, phải mất ba năm mới hoàn thành. Ta đã huy động hơn hai ngàn người tham gia đo đạc, thu thập số liệu để làm ra nó. Ta có thể khẳng định đây là tấm bản đồ có giá trị nhất, lớn nhất vầ cũng là tấm bản đồ có giá trị sử dụng cao nhất. Coi nó là quốc bảo thì cũng không có gì là quá đáng cả. Có tấm bản đồ này trong tay thì trong cuộc chiến với Đại Đường chúng ta sẽ nắm chắc ít nhất là sáu phần thắng lợi.
“ Từ lâu thần đệ đã nghe nói Calipha bệ hạ có kiến thức địa lý rất uyên thâm. Hôm nay được tận mắt nhìn thấy quả là danh bất hư truyền” A Cổ Thập buông ra mấy câu khen ngợi tâng bốc Lạp Hy Đức mà thôi. Chứ thật ra hắn đã từng được nhìn thấy bản đồ địa hình ( một dạng bản đồ) của Đại Đường rồi. Người ta gọi cái bản đồ đó bằng một cái tên khác là sa bàn. Sa bàn này được làm từ đất sét, cát và nước. Trên sa bàn này núi là núi, sông là sông. Mặc dù nó không được làm từ gỗ trầm hương giống như tấm bản đồ của Lạp Hy Đức, nhưng xét về độ thực dụng thì nó ăn đứt cái “ quốc bảo” này của Lạp Hy Đức. A Cổ Thập cho dù nịnh bợ Lạp Hy Đức một chút, nhưng hắn nhận thấy trong lời nói của ông ta có phần kiêu ngạo thái quá. Xem ra Calipha đã quá tự phụ trong cuộc chiến với Đại Đường sắp tới rồi.
Nhưng A Cổ Thập cũng không nói gì thêm nữa, hắn chỉ lặng yên nhìn vào tấm bản đồ. Đều hắn quan tâm nhất lúc này là Lạp Hy Đức rốt cuộc sẽ cấp cho hắn bao nhiêu quân đội và tiền lương.
Lạp Hy Đức dường như cũng hiểu được những suy nghĩ của A Cổ Thập, nên ông ta cầm một cái que gỗ chỉ vào Tát Mã Nhĩ Hãn rồi nói: “ Ở Tát Mã Nhĩ Hãn hiện nay có một quân đoàn nô lệ gồm năm vạn người. Ta giao cho đệ chỉ huy quân đoàn này. Ngoài ra, ta sẽ lệnh cho quân đoàn Hô La San số hai và số bốn, tổng cộng là bốn vạn quân tiến vào đồn trú ở Bố Cáp Lạp. Trong tình huống khẩn cấp đệ có thể điều động, sử dụng số quân đội này. Còn bốn vạn quân ở Thổ Hỏa La đệ cũng có thể điều động bất cứ lúc nào. Đấy là về phương diện quân đội. Ngoài ra, đệ mang thân phận thân vương nhậm chức Tổng Đốc Tát Mã Nhĩ Hãn, dĩ nhiên sẽ là một Tổng Đốc cao cấp, sẽ có nơi riêng biệt để cho Tổng Đốc như đệ nghỉ ngơi. Đồng thời các Tổng Đốc khác như Tổng Đốc Đại Uyển, Tổng Đốc Bạt Hãn Na, cho tới Tổng Đốc Thổ Hỏa La cũng đều chịu sự tiết chế của đệ. Và dĩ nhiên đệ hoàn toàn có thể tùy ý điều động tiền lương và nô lệ ở các quân đoàn này. Và cũng giống như trước đây trong tình huống khẩn cấp, đệ có thể bãi miễn chức vu Tổng Đốc của bọn họ mà không cần thông qua ta”
Nói tới đây, Lạp Hy Đức bỗng nhiên trầm tư, không nói gì nữa. Ông ta chợt nhớ ra rằng mình còn có một gánh nặng trong lòng. Đó chính là việc Tát Man gia tộc đang nắm giữ thực lực rất lớn ở cả một khu vực rộng lớn phía đông sông A Mẫu hà. Trên thực tế A Bạt Tư vương triều của hắc y Đại Thực được xây dựng dựa trên nền tảng của Ngũ Mạch Diệp vương triều, cho vương triều của hắc y Đại Thực này cũng kế thừa rất nhiều chế độ và hơi hướng của Ngũ Mạch Diệp vương triều trước đây. Một trong những chế độ được kế thừa và có vai trò quan trọng nhất chính là chế độ phân phong có tên Y Khắc Tháp. Theo tiếng A Rập thì Y Khắc Tháp có nghĩa là phân phong. Trên thức tế, chế độ này chính là việc phân chia đất đai ở Đại Thực. Theo đó, một lượng lớn đất đai sẽ được phân phong cho các quý tộc, công thần, các tướng lãnh quân sự. Từ đó mà các đại gia tộc đã lần lượt ra đời.
Bản thân A Bạt Tư xuất phát từ gia tộc Hy Mẫu ở Hô La San. Trong quá trình chinh phục Ai Cập và phương Đông, A Bạt Tư cũng thực hiện chế độ giống như trước đây, đó là phân phong rất nhiều đất đai cho các tướng lĩnh và công thần, khiến cho bọn họ trở thành những gia tộc mới phát lên. Hiện tại trên phần lãnh thổ rộng lớn của hắc y Đại Thưc, tồn tại tất cả là gần một trăm gia tộc lớn nhỏ. Trong đó nổi tiếng hơn cả là các gia tộc như gia tộc Hy Mẫu ở Hô La San, gia tộc Ba Nhĩ Mã Khắc ở Tự Lợi Á, gia tộc Đồ Luân ở Ai Cập, và gia tộc Tát Man ở phía đông của sông A Mẫu hà, ngoài ra còn nhiều gia tộc khác. Những gia tộc này nắm trong tay một lượng lớn đất đai và nô lệ. Hàng năm, bọn họ đều nộp tiền thuế cho Calipha. Còn trong khu vực lãnh thổ mà mình nắm giữ, bọn họ tuyệt đối được nắm giữ quyền sinh quyền sát, thậm chí có những lãnh chúa còn làm Tổng Đốc của khu vực đó. Ví dụ như Tổng Đốc của Đại Uyển quốc cũng chính là thủ lĩnh của Tát Man gia tộc, tên gọi là Tháp Duy Nhĩ.
Tát Man gia tộc không chỉ nắm trong tay số của cải khổng lồ và rất nhiều đất đai mà bọn họ còn có hai vạn nô lệ quân của riêng mình. Dĩ nhiên Lạp Hy Đức sẽ không bao giờ chấp nhận hay bỏ qua cho gia tộc nào có quân đội riêng, vì thế cho nên số quân lính của các gia tộc này không được gọi là quân đội, mà gọi là những người thủ vệ trông nom bãi chăn thả. Mặc dù tên gọi là khác nhau, nhưng thực chất thì chúng chỉ là một mà thôi.
Sở dĩ Lạp Hy Đức có thể ngồi lên cái ngôi vị Cáp Lý Phát này cũng là do ông ta nhận được sự ủng ộ và hậu thuẫn rất lớn của đại gia tộc này. Cho nên đây là mối quan hệ rất khăng khít không thể tách rời ra được. Và khi mới lên nắm quyền Lạp Hy Đức cũng là một kẻ biết điều, ông ta luôn có thái độ khoan dung đối với các đại gia tộc đã ủng hộ mình. Nhưng khi mà Lạp Hy Đức đã ngồi trên ngai vàng của mình rồi, thì ông ta càng ngày càng nhận rõ một điều: ông ta không thể để cho các gia tộc ấy tồn tại như thế được nữa. Bởi vì, Lạp Hy Đức ý thức được rằng những gia tộc này sớm muộn gì cũng uy hiếp đến sự sinh tồn của A Bạt Tư Cáp Lý Phát đế quốc.
Trầm ngâm một lúc lâu, Lạp Hy Đức mới từ từ nói: “ Đã có rất nhiều người phản ánh, tỏ thái độ oán trách sự ngang ngược Tát Man gia tộc với ta. Bọn chúng thu thuế ở lưu vực sông Chân Châu Hà cao gấp mấy lần so với các nơi khác trong đế quốc. Vì thế ta hy vọng sau khi đệ đến nhậm chức ở đó thì hãy cố gắng ước thúc, kiềm chế Tát Man gia tộc ấy, tuyệt đối không thể để A Bạt Tư vương triều bị hủy hoại trong tay những thứ sâu mọt này.
A Cổ Thập cúi mình thật sâu thi lễ nói: “ Xin Calipha bệ hạ yên tâm, thần đệ sẽ thực hiền đầy đủ từng mệnh lệnh của người”
Thời gian lúc này đã bước sang tháng năm rồ, khí trời cũng đã từ từ nóng dần lên. Và đây cũng chính là khoảng thời gian mà thảo nguyên tưng bừng và tràn đầy sức sống nhất trong năm. Những con dê con mới chào đời, đang lớn nhanh như thổi. Bên cạnh bầy ngựa cũng đã xuất hiện những chú ngựa nhỏ. Cây cỏ tươi tốt cung cấp cho chúng nguồn thức ăn dồi dào, nguồn nước thì dư thừa. Có thể nói trên thảo nguyên lúc này người ta có thể nhìn thấy một cảnh tượng tràn đầy sức sống.
Vào sáng sớm của một ngày tháng năm, ở A Đồ Mộc trấn nằm ở phía đông bắc của Toái Diệp bỗng nhiên xuất hiện một đội kỵ binh gồm năm ngàn người. Đội kỵ binh này không tiếng không tăm mà ập đến tựa như là từ trên trời rơi xuống vậy. Khi bọn họ vừa mới vào trong trấn thì người ở đây cũng không để ý đến bọn họ lắm, bởi vì trong vài chục năm nay đã có nhiều đội quân đi qua cái trấn này rồi, như quân Hồi Hột, quân Cát La Lộc. Mà thậm chí là quân đội Đại Thực cũng đã từng qua đây. Cho nên những người sống ở trong trấn này gần như đã quen với chuyện có một đội quân nào đó đi ngang qua đây nên bọn họ cũng không bất ngờ gì. Trên thực tế, A Đồ Mộc trấn là do những người thương nhân Túc Đặc và người Đột Kỵ Thi dựng lên và quản lý. Tất cả bọn họ đều không nghĩ rằng sẽ có đội quân nào đó lại muốn chiếm giữ nơi này. Nhưng rất nhanh sau đó, những thương nhân Túc Đặc bắt đầu cảm thấy bất an, họ đoán đội kỵ binh này chắc hẳn là Đường quân. Nhưng bọn họ lại chỉ có ba ngàn người, nếu như bọn họ muốn đi tấn công người Cát La Lộc thì quân số xem chừng còn thiếu một chút. Nhưng nếu bọn họ tới để dò xét, thám báo tin tức thì lại đông quá mức cần thiết. Những người thương nhân Túc Đặc khôn ngoan đang suy đoán tình hình, bọn họ đã bắt đầu ngửi thấy có nguy hiểm trong không khí của cái trấn A Đồ Mộc này.
Quả nhiên như sự lo lắng của bọn họ, Đường quân đã nhanh chóng cho dựng doanh trại tạm thời trên bãi đất trống gần Yêu Long hồ ( nằm ngay cạnh A Đồ Mộc trấn). Thậm chí đến trưa, trên đầu đường cái dẫn vào A Đồ Mộc trấn đã xuất hiện bóng dáng của Đường quân đi tuần tra. Và bọn họ đang làm công việc duy trì trật tự trên đường. Như vậy nghiễm nhiên Đường quân đã chiếm lĩnh A Đồ Mộc trấn rồi.
Đến lúc này, mấy ngàn thương nhân Túc Đặc ở trong trấn xôn xao, ồn ào như ong vỡ tổ vậy. Các nhân vật đầu não của bọn họ lập tức được triệu tập để họp gấp với nhau. Tất cả bàn bác, cùng nhau tìm đối sách trong sự sợ hãi, thấp thỏm. Đối với việc lợi ích trước mắt của chính mình đang bị đe dọa, đã khiến cho những thương nhân Túc Đặc này lại đoàn kết với nhau hơn. Bọn họ nhanh chóng thống nhất được phương án đối phó. Cụ thể, một mặt bọn họ lập tức phái người tới Cát La Lộc và Hồi Hột để cầu cứu. Mặt khác thì phái đại biểu tới đàm phán, giao thiệp với Đường quân, yêu cầu Đường quân phải lập tức rút lui khỏi A Đồ Mộc trấn.Quá trưa một chút, thì trên đường cái đã xuất hiện mấy trăm tên thương nhân Túc Đặc mặc trường bào. Bọn chúng ùa hết ra đường, không khí rất sôi sục, la khẩu hiệu ầm ĩ, và hùng hùng hổ hổ đi về phía doanh trại của Đường quân. Nhưng khi còn cách quân doanh mấy trăm bước thì bọn bị ba trăm kỵ binh Đường quân chặn lại. Số binh lính này tay lăm lăm nỏ, lạnh lũng nhắm thẳng vào bọn họ. Tên tướng lãnh trẻ tuổi cầm đầu ba trăm kỵ binh này dùng tiếng Đột Quyết chưa được thuần thục quát lên: “ Phía trước là cấm địa quân sự, kẻ nào tự ý đia vào sẽ lập tức mất mạng”
Tên tướng lĩnh trẻ tuổi này không phải ai khác mà chính là Thi Dương. Sau gần nửa năm làm thám báo, hắn đã nắm rõ lưu vực của Đại Thanh Trì này như lòng bàn tay. Hơn nữa hắn cũng đã học được tiếng Đột Quyết, mặc dù còn chưa được thuần thục, trôi chảy, những cũng có thể miễn cưỡng nói chuyện được rồi.
Lần này Đường quân tiến vào chiếm giữ A Đồ Mộc trấn chính là dựa vào một phát hiện của hắn gần đây. Cách đây ba tháng, trong quá trình đi chặn đánh một chuyến vũ khí mà Đại Thực chuyển giao cho bọn người Cát La Lộc, Thi Dương đã tình cờ phát hiện ra được ở phía bắc của hồ Yêu Long ( hồ này gần với A Đồ Mộc trấn) có một con sông thông thẳng ra Y Lệ Hà, cuối cùng dẫn tới Di Bá Hải. Hơn nữa con sông ấy lại rất sâu,, thuyền lớn có trọng tải ba ngàn thạch (120 cân là một thạch) vẫn có thể lưu thông bình thường. Thi Dương lập tức trình báo phát hiện này với cấp trên trực tiếp của hắn, rồi cứ thế thông tin ấy lại được báo lên cho cấp cao hơn. Sau cùng nó là kinh động đến tận Tây Vực Đại Đô Hộ Vương Tư Vũ. Sau khi phái người đi khảo sát, xem xét thực tế Vương Tư Vũ đã quyết định cho xây dựng bến thuyền ở Yêu Long hồ, đồng thời cho tiến hành đóng thuyền ngay tại đó. Vương Tư Vũ đã vạch định cho nơi đây trở thành tuyến vận tải chủ yếu tới Di Bá Hải của Đường quân ở Toái Diệp. Hơn nữa sau khi chiếm lĩnh được A Đồ Mộc trấn, Đường quân sẽ biến nơi đây thành một một cứ điểm đầu cầu trong việc tiến công người Cát La Lộc.
Sát khí lạnh lùng của Đường quân khiến cho đám thương nhân Túc Đặc kia cũng dần im lặng trở lại. Lúc này có một người trông cũng đã có tuổi trong nhóm thương nhân Túc Đặc tiến lên thi lễ. Ông ta dùng vốn Hán ngữ thuần thục nói: “ Chúng tôi muốn được gặp chủ tướng của các ngài, chứ không có ý tứ gì khác”
“ Các ngươi không được vọng động, để ta vào hỏi xem Lý tướng quân có muốn gặp các ngươi hay không đã” . Thi Dương vung tay lên, lập tức một tên kỵ binh trong biên chế thám báo quân, phi ngựa thật nhanh quay về quân doanh để bẩm báo. Trong lúc này Đường quân vẫn giương nỏ, không có buông lỏng sự cảnh giới đối với đám người này.
Chốc lát sau, tên kỵ binh thám báo kia đã quay trở lại nói: “ Hiệu Úy. Lý tướng quân đồng ý tiếp kiến bọn họ, nhưng cho cho phép ba người được vào nói chuyện thôi”
Thi Dương gật đầu, hắn nói với vị lão giả kia: “ Các ngươi cũng nghe thấy rồi đấy, Lý tướng quân chỉ cho phép ba người vào nói chuyện. Các ngươi quyết định nhanh lên”
Đám thương nhân Túc Đặc ấy túm tụm vào bàn bạc với nhau. Rất nhanh sau đó, bọn họ đã cử được ba người đại diện, gồm có vị lão giả kia và hai người khác nữa: “ Ba người chúng tôi, sẽ đi gặp tướng quân của các vị”
“ Các ngươi đi theo ta” Thi Dương dặn dò viên phó úy mất câu, rồi hắn tự mình dẫn ba tên thương nhân Túc Đặc kia đi về phía quân doanh.
Trước mặt hiện nay ở tại khu vực An Tây và Bắc Đình thiết lập tổng cộng bảy đại đô đốc phủ. Tại mỗi đô đốc phủ này Đường quân cho đồn trú chừng hai vạn quân, phân bố ở bên trong ba trăm tòa thành trì của toàn bộ Tây Vực. Số binh sĩ ở các đô đốc phủ này bình thường thì chịu sự điều hành của triều đình trung ương, nhưng khi có chiến loạn được triều đình điều động, đầu nhập tới Tây Vực đô hộ phủ. Ngoài ra trong lúc chiến tranh thực sự bộc phát triều đình trung ương còn có thể huy động số dân binh trong các Phủ binh ở các địa phương. Bình thường tại các Phủ binh đều có đại tướng suất lĩnh, nhưng đến khi chiến sự nổ ra tất cả đều được quy về một mối, chịu sự chỉ huy tối cao của Tây Vực đô hộ. Còn một lực lượng quân đội khác cũng có thể cùng tham chiến với Đại Đường đó là số binh sĩ người Hồ của các tiểu quốc ở Tây Vực. Đến thời chiến số Hồ binh này cũng có nghĩa vụ hỗ trợ và chịu sự điều động của Đường triều.
Trong số bảy Đại đô hộ phủ thì Toái Diệp Đô hộ phủ là nơi tập trung quân đội nhiều nhất, tổng cộng có tới sáu vạn người, số này đều là nhưng binh sĩ tinh nhuệ thiện chiến của An Tây quân. Tây Vực Đô hộ Vương Tư Vũ là người trực tiếp chỉ huy sáu vạn quân này. Về cách bố trí, sáu vạn quân được chia làm sáu quân, với tổng cộng ba mươi doanh. Mỗi doanh chừng hai ngàn người. Trước mặt đồn trú tại A Đồ Mộc trấn là năm ngàn Đường quân, Tham Lang tướng Lý Thiên Thần của đệ tam quân suất lĩnh. Bọn họ chẳng qua chỉ là đơn vị làm nhiệm vụ tiên phong, đến khi nơi đây đi vào ổn định, Đường quân đứng vững rồi thì lập tức bổ sung thêm năm ngàn quân nữa của đệ tam quân tới đây.
Lý Thiên Thần là người huyện Phượng Tường, năm nay mới chỉ độ hai mươi tám tuổi, tuổi đời tuy còn trẻ nhưng hắn đã là một chiến binh lão luyện “ thân kinh bách chiến” . Năm xưa hắn cũng chỉ là một tên Ngũ trưởng trong Thiên Kỵ doanh, theo Trương Hoán tới Võ Uy để sáng lập cơ nghiệp. Tham gia tất cả các trận chiến lớn nhỏ các loại dễ có đến hơn trăm, khi xét công ban thưởng Trương Hoán phong cho hắn làm Lang tướng. Chỉ có điều hắn cũng không hề biết thân phận thật của Thi Dương. Hắn chỉ biết Thi Dương là một binh lính đến từ Thiên kỵ doanh của Trương An, khi đến đây được phong làm Ngũ trưởng. Đặc biệt trong trận chiến bảo vệ Huyền Vũ thành Thi Dương lập được đại công. Lý Thiên thần thấy bản thân hắn và Thi Dương có nhiều điểm chung nên tự nhiên sinh ra lòng yêu mến, chú ý tới hắn.
“ Bẩm báo Lý tướng quân, mạt tướng đã dẫn bọn thương nhân Túc Đặc tới” Bên trong hổ trướng truyền vào tiếng bẩm báo của Thi Dương.
“ Ngươi đưa bọn họ vào đi” Lý Thiên Thần đặt bút xuống, ánh mắt của hắn nghiêm túc nhìn chăm chú vào ba tên thương nhân Túc Đặc đại diện cho bọn người A Đồ Mộc trấn đang bước vào trong trướng: “ Ai là người đứng đầu trong số các người. Có thể nói tiếng Hán được không”
“ Ta là người đứng đầu, và cũng có thể nói được tiếng Hán” Vị lão giả nọ cung kính thi lễ và tự giới thiệu về mình: “ Kẻ hèn này họ Khang, là chấp sự của hội thương nhân Túc Đặc, đồng thời kẻ hèn cũng là chủ sở hữu của Yêu Long khách sạn”
Vì A Đồ Mộc trấn không có quan phủ quản lý nên các thương nhân Túc Đặc lập ra “ Hội thương nhân Túc Đặc” đó chính là một biểu hiện của cơ cấu tự trị ở nơi đây. Trong hội sẽ cử ra mười người vào chức vụ chấp sự để tiện cho việc quản lý. Cứ hai năm một lần lại bầu cử chấp sự. Tuy nhiên có ba vị trí chấp sự luôn được giữ nguyên, ổn định lâu dài. Và vị lão giả họ Khang này chính là một trong số ba vị chấp sự được tín nhiệm và tại vị lâu nhất.
“ Các ngươi tìm ta có chuyện gì không” Lý Thiên Thần thấy Khang lão giả kia thái độ khiêm hòa nên giọng điệu của hắn cũng lặng xuống, đỡ căng thẳng hơn.
Ba người thương nhân Túc Đặc đến đây, mặt đối mặt với Lý Thiên Thần vậy mà giờ đây hắn lại hỏi bọn họ có chuyện gì. Ba người kia tự hỏi trong lòng: “ Chẳng lẽ bọn họ cho rằng việc bọn họ chiếm lĩnh A Đồ Mộc trấn là đương nhiên hay sao”
Chần chừ một chút, Khang lão giả vẫn kiên trì nói: “ Nếu tướng quân tới A Đồ Mộc thị sát thì chúng tôi dĩ nhiên là hoan nghênh hết sức. Nhưng chúng ta muốn hỏi tướng quân ngài định bao giờ sẽ rời khỏi đây”
“ Nếu các ngươi đã hoan nghênh ta, vậy thì dĩ nhiên là chúng ta sẽ đồn trú ở đây lâu dài rồi” Lý Thiên Thần cười ha hả, rồi hắn giơ tay ngăn lại, nói tiếp: “ Bất quá các ngươi cứ yên tâm, Đường quân chúng ta kỷ luật nghiêm minh, chắc chắn sẽ không bao giờ xâm phạm các ngươi. Ngược lại nếu như có Đường quân nào không tuân theo quân kỷ , các ngươi báo cáo cho ta, nhất định ta sẽ nghiêm trị thích đáng. Hơn nữa Đường quân đồn trú ở đây sẽ giúp cho việc làm ăn của các ngươi thêm thịnh vượng. Như vậy tất cả mọi người không phải là đều rất vui vẻ hay sao”
“ Nhưng ! Đây là địa bàn của những người thương nhân Túc Đặc chúng ta, tại sao các người lại tự ý đem quân tới đây., hơn nữa lại còn muốn đồn trú lâu dài ở đây nữa là sao” Khang lão giả có sự kích động nên trong lời nói có phần căng thẳng gay gắt rồi.
“ Địa bàn của người Túc Đặc?” Lý Thiên Thần sắc mặt âm trầm, lạnh lùng nói: “ Ta chưa từng nghe qua cái lý lẽ mà ngươi vừa nói, đã vậy ta hỏi các ngươi A Đồ Mộc trấn này là thuộc về người Hồi Hột hay người Cát La Lộc”
“ Chẳng thuộc về ai cả, đây là vùng đất tự trị của thương nhân Túc Đặc chúng ta”
Lý Thiên Thần bỗng nhiên cười ha hả đầy lạnh lùng: “ Nơi này không phải thuộc về Hồi Hột cũng không thuộc Cát La Lộc. Như vậy đây chính là nơi vô chủ, Đường quân chúng ta nắm giữ lấy thì có gì là vô lý chứ. Ta cũng nói thật cho các ngươi biết, bắt đầu từ ngày hôm nay nơi đây sẽ chính thức đổi tên thành Yêu Long thành, là một tiểu thành trực thuộc Toái Diệp. Nếu như các ngươi không muốn trở thành con dân của Đại Đường thì có thể rời đi nơi khác, Đường quân chúng ta sẽ tuyệt đối không ngăn cản”
Ngay sáng sớm ngày hôm sau, Đường quân liền đi từng nhà trong A Đồ Mộc trấn này để truyền đạt công văn của của Toái Diệp đại đô hộ. Văn thư được viết bằng ba thứ ngôn ngữ: tiếng Hán, tiếng Đột Quyết và tiếng Túc Đặc để cho mọi người có thể hiểu rõ. Theo như công văn này bắt đầu từ ngày hôm nay A Đồ Mộc trấn sẽ chính thức đổi tên thành Yêu Long thành, và cũng sẽ chính thức sáp nhập vào bản đồ Đại Đường. Nội dung thứ hai của công văn chính là việc ghi danh hộ tịch, thời gian hạn định là ba ngày. Trong ba ngày này nếu như ai không đăng kí hộ tịch sẽ bị đuổi khỏi Yêu Long thành. Mặt khác, các thương nhân cũng phải tiến hành đăng kí buôn bán. Song song với việc tiến hành thông báo, động viên đăng kí hộ tịch thì Đường quân cho treo một tấm biển đề “ Yêu Long thành chính vụ thự” ở trước của một căn phòng trống ngay mặt đường, bên phía tây của con đường. Bên trong “ Yêu Long thành chính vụ thự nha” có hai viên quan còn trẻ tuổi. Bọn họ đang phân loại các hộ dân thường cũng như các hộ thương nhân buôn bán.
Rất nhanh, trước cửa của “ Chính vụ nha” đã có rất nhiều người đứng xếp hàng chờ đăng kí,. Những người xếp hàng này chủ yếu là người Đột Kỵ Thi, cũng có xuất hiện lác đắc vài người Túc Đặc, nhưng đó chỉ là hộ dân nghèo khó, còn đám thương nhân Túc Đặc mở cửa hàng, buôn bán thì chẳng hề thấy bóng.
Trong Yêu Long thành, không khí trở nên im ắng lạ thường. Trên đường cái chỉ có mấy đội hỵ binh của Đường quân qua lại dò xét. Người đi lại trên đường cũng thưa thớt, chỉ có là tình cờ gặp được mấy người đi đăng kí hộ tịch mà thôi. Mà người Túc Đặc thì không thấy một bóng dáng nào cả. Không khí nó quá yên tĩnh, yên tĩnh đến mức quỷ dị. Người ta cảm nhận được đằng sau sự im ắng, phẳng lặng này dường như đang cất giấu một sát cơ.
Lúc này Thi Dương đang tiến hành điều tra thu thập tin tức, hắn đang ngồi trong một tửu quán nhỏ. Việc làm ăn dường như đã đình trệ rất nhiều, ngay cả cửa quán cũng đóng lại rồi. Đến giờ phút này có bảy tám tên người Túc Đặc tụ tập ngồi quanh một cái bàn, đang tranh luận vấn đề gì đó sôi nổi lắm.
“ Các vị, ta và các người đều là những người thân của nhau đều là người Túc Đặc, chúng ta đã không quản khó khăn liều chết mà bám trụ ở A Đồ Mộc trấn này trong bao nhiêu năm, cũng đã tích lũy cho riêng mình một số sản nghiệp cũng không ít. Vậy mà chẳng lẽ chúng ta vì một chút hư danh củacủa Đường quân mà sợ hãi, vứt bỏ lại cơ nghiệp sau hai mươi mấy năm gây dựng hay sao? Làm thần dân của Đại Thực cũng tốt và Đại Đường cũng không sao. Nhưng mấu chốt là chúng ta phải có được lợi ích”
Người vừa nói những lời đó chính là Khang lão giả, ông ta là chủ của “ Yêu Long khách sạn” lớn nhất ở đây. Hai năm trước ông ta mới mở nó, tốn kém cũng lên tới hàng vạn hoàng kim tiền bạc. Những thứ tài phú này cùng với đủ loại hàng hóa như: trang sức tinh sảo, các gia cụ. Ngoài ra ông ta còn một lượng lớn nhà cửa, đất đai. Những thứ này căn bản là không thể nào mang đi được vì thế cho nên ông ta có khuynh hướng phục tùng sự thống trị của Đại Đường, yên ổn nộp thuế làm ăn.
Nhưng việc chấp nhận sự thống trị của Đại Đường chẳng qua cũng chỉ là ý kiến của mình ông ta, còn có những người khác ở trong thương hội nữa. Bọn họ phần lớn là phản đối việc thỏa hiệp với Đường quân. Điều này cũng hết sức dễ hiểu bởi vì, các thương nhân Túc Đặc luôn có huynh hướng ủng hộ Đại Thực mà phản đối Đường triều. Giả dụ bọn họ chịu đầu hàng Đường triều thì bọn họ có thể giữ được một chút lợi ích trước mắt, nhưng những người Túc Đặc ở Đại Thực và Hồi Hột sẽ không bao giờ tha thứ cho bọn họ tội phản bội. Hơn nữa trưởng lão trong Ma Ni Giáo cũng nhất định sẽ trục xuất bọn họ ra khỏi giáo hội Ma Ni.
Suy nghĩ của bọn họ là như vậy cho nên khi Khang lão giả đưa ra ý kiến của mình, mấy người bọn họ đều lên tiếng phản đối. Một gã trong số đó,tuổi trung niên, mặt như mặt ngựa cất tiếng phản đối đầy châm chọc:” Khang chấp sự nói làm thần dân của Đại Đường cũng tốt, thế có khác gì đi nói giúp cho bọn chúng”
“ Ngươi đúng là kẻ nậm máu phun người” Khang lão giả không nén được giận, liền đứng bật dậy chỉ thẳng vào tên mặt ngựa kia trách mắng hắn: “ Chỉ có loại tiểu nhân như ngươi mới nghĩ ta phản bội. Ta làm như thế tất cả là vì mọi người. Nếu ngươi cho là ta có lòng riêng thì.Tốt lắm. Bây giờ ngươi đang có tư tưởng đi khỏi đây. Vậy đợi khi Đường quân trục xuất ngươi ra khỏi kĩ viện của mình, ta sẽ chiếm lấy lão bà của ngươi và cả những phòng ốc đó nữa”
“ Ngươi nói cái gì” Tên mặt ngựa lúc này giận tím cả mặt, tay hắn nắm chặt thành quả đấm, cả người đổ dồn về phía trước, ánh mắt hắn nhìn về phía Khang lão giả đầy tức giận và hiếu chiến. Vị lão nhân họ Khang kia cũng không kém thế, ông ta lui về phía sau một bước, cúi xuống cầm một cái ghế băng dài thủ thế.
Mấy người còn lại trọng nhóm thấy sắp xảy xa một cuộc xô xát liền luống cuống, rối rít cất lời khuyên nhủ hai người : “ Chúng ta là người một nhà, cần gì phải làm tổn thương hòa khí như vậy. Có gì thì cứ từ từ nói đi đã”
“ Hừ, nói chuyện với các ngươi ta thấy không hợp. Ta đi trước đây. Các ngươi có thể vứt bỏ lại gia sản của mình, nhưng ta thì không” Khang lão giả vứt cái ghế băng xuống đất, nổi giận đùng đùng bước thẳng ra ngoài.
Tất cả những thương nhân Túc Đặc còn lại trong tửu quán đều im lặng nhìn theo bóng dáng của ông ta. Không ai nói một lời nào cả. Sự thực thì lời nói của Khang lão giả cũng rất có lý. Đường quân tổng cộng chỉ cho bọn họ có ba ngày để ghi danh, mà trong thời gian ba ngày này thì chặc chắn là người Hồi Hột hay Cát La Lộc cũng không thể tới để giải cứu họ được. Chẳng lẽ bọn họ thật sự muốn hy sinh đất đai, cửa hàng để rời đi hay sao?
“ Các vị, ta có ý kiến thế này, hay là chúng ta nên sử dụng lại biện pháp mà trước đây chúng ta dùng để đối phó với dân tộc Thổ Phiên mười năm về trước” Một lão chấp sự khác rốt cuộc cũng lên tiếng để đưa ra biện pháp giải quyết. Nghe vậy, ý nghĩ của những người xung quanh chợt rung lên, đây đúng là một biện pháp hay. Cách đây mười năm về trước, một cánh quân của dân tộc Thổ Phiên cũng đã từng qua đây. Chúng bắt bọn họ phải thần phục và vâng lệnh nhà vua Thổ Phiên. Tất cả mọi người ở A Đồ Mộc trấn khi đó ngoài miệng thì đều đồng ý thần phục, nhưng họ lại ngầm viết liên tiếp hai bức mật thư. Một bức gửi cho những người Túc Đặc ở Hồi Hột cầu cứu. Một bức chuyển tới Calipha của Đại Thực tỏ ý trung thành và mong Calipha giữ gìn công đạo. Cuối cùng đội quân Thổ Phiên kia cũng phải tháo lui. Calipha vì tin tưởng vào những lời nói trung thành của bọn họ trong bức thư cầu cứu nên cũng rộng lòng, không o ép A Đồ Mộc trấn nữa. Bây giờ đây, Đường quân kéo đến A Đồ Mộc trấn, sự biến của mười năm trước lại tái diễn. Vậy thì bọn họ tại sao lại không sử dụng biện pháp cũ chứ.