Nếu nói kết quả như vậy có ích lợi gì, như vậy kẻ được lợi duy nhất có lẽ là bản thân Thiển Thủy Thanh.
Hiện giờ e rằng Thương Dã Vọng càng thêm ý lại vào Thiển Thủy Thanh hơn, muốn hắn vì ông ta mà ngăn trở quân đội đa quốc gia hùng mạnh trong tương lai. Nhưng đối với Thiến Thủy Thanh mà nói, có lẽ giấc mộng thoái lui sống đời thanh bình của hắn càng rời xa hơn.
Trong thế cục phức tạp hiện tại, rốt cục mình nên lựa chọn ra sao, nên làm thế nào đây?
Nhất thời hắn cảm thấy mơ hồ.
Đây là lần đầu tiên kế từ khi hắn trở thành Tướng quân tới nay, hắn không biết bản thân mình nên giữ hay nên bỏ. Đối mặt với Độc Lập lĩnh giương mắt hổ rình mồi, chăm chăm muốn cướp thành quả thắng lợi của hắn, đối mặt với Hoàng đế Thương Dã Vọng vừa coi trọng hắn lại vừa đề phòng hắn, đối mặt với tam đại Quân đoàn đang như rắn mất đầu, lại phải đối chọi với vô số hùng binh của địch ở hành lang Thánh Khiết, mình nên đi đâu về đâu?
- Thích đại ca, nếu như có huynh ở đây, huynh sẽ làm sao?
Thiển Thủy Thanh lẩm bẩm hỏi.
...
Đêm ấy, Thiển Thủy Thanh ngồi một mình trong trướng.
Có quá nhiều vấn đề cần hắn đối mặt, cân nhắc, giải quyết.
Khi tiếng quân ca vang dậy cùng tiếng hoan hô mừng thắng lợi của các chiến sĩ vọng đến bên tai, Thiển Thủy Thanh lại chỉ có thể thui thủi một mình.
Suy nghĩ của hắn rối bời, không thể nào tập trung tinh thần được...
Hắn vốn đã quen gối đầu lên đùi nàng mà suy nghĩ, lúc này đột nhiên đầu óc hoàn toàn không còn cảm giác, không biết kế tiếp nên làm gì, quyết định ra sao...
Hắn nghĩ rằng mình có thể áp chế, có thể bình tĩnh lại, nhưng rốt cục lại phát hiện ra từ sau khi mất đi nàng, chính hắn cũng đã mất đi lý trí cùng sự phán đoán nhạy bén vốn có.
Có lẽ đây là nguyên nhân mà vừa rồi trận chiến với Tháp Lan, hắn đánh một cách gian nan như vậy...
Trước đây không lâu, hắn không sợ địch nhân hùng mạnh, luôn có thể đánh bại đối thủ, không hề có cảm giác mê muội rối bời như hiện tại...
Thì ra, con người ta thật sự đến lúc mất đi một cái gì rồi, mới biết rằng nó quý đến mức nào...
Thì ra chính hắn đã không dứt bỏ được hình bóng vị cô nương từng hiến dâng cho hắn mà không đòi hỏi danh phận, hiện giờ sống chết chưa biết ra sao...
Dạ Oanh, giờ này nàng ở nơi đâu...
Nàng có biết rằng, ta rất cần nàng hay không...
Ta yêu nàng!
Ngày Hai Mươi Lăm tháng Mười năm Một Trăm Mười lịch Thiên Phong, Đế quốc Thiên Phong kết thành đồng minh với Độc Lập lĩnh ở phía Bắc, cùng nhau chống lại Công quốc Thánh Uy Nhĩ và Đế quốc Mạch Gia, cho nên dẫn phát đến loạn cục trên toàn đại lục. Sau đó không lâu, Kinh Hồng tuyên bố sẽ xuất binh Công quốc Thánh Uy Nhĩ, Lê quốc tuyên bố xuất binh Kinh Hồng, Đại Đế quốc Tây Xi tuyên bố xuất binh Đế quốc Thiên Phong, tuy nhiên trước tiên người Đại Đế quốc Tây Xi lại tấn công ba nước Phong, Khâu và Á Đề.
Tình thế trên toàn đại lục chuyển biến vô cùng xấu, một cuộc chiến tranh quét ngang toàn đại lục đã lan tràn khắp nơi. Rất đông sứ giả cầu hòa, sứ giả mời liên kết đồng minh của các quốc gia đều ra khỏi biên giới làm nhiệm vụ. Các quốc gia cũng bắt đầu động viên quân đội, chuẩn bị tham chiến bất cứ lúc nào. Lệnh triệu tập trên phạm vi toàn đại lục được phát ra, đưa đến trong tay dân chúng của các quốc gia. Một cuộc trưng binh táng vọt đột ngột trên cả đại lục, biểu thị cuộc sống tương lai của mọi người sẽ đầy sắt máu.
Trong khoảng thời gian này, Thiển Thủy Thanh đánh bại Tháp Lan ra ngoài dự đoán của mọi người, hoàn thành kế hoạch tiêu diệt một phần lớn sinh lực địch, thuận lợi tiêu diệt rất nhiều chiến tướng tinh anh của Đế quốc Mạch Gia. Mà hai mươi vạn đại quân Độc Lập lĩnh dưới sự dẫn dắt của Tất Hổ, đang cường công thẳng về phía kinh đô Gia Thập của Đế quốc Mạch Gia. Phỏng đoán nhiều nhất nửa tháng sau, đại quân Độc Lập lĩnh sẽ đánh tới dưới thành Gia Thập. Với binh lực trước mắt của Gia Thập, có thể chống đở được nửa tháng đã là kỳ tích.
Những tin tức khiến người ta chấn động nối đuôi nhau xuất hiện hết tin này tới tin khác, chuyện làm người ta khó có thể tưởng tượng nhất vẫn là tiến độ của Đại Đế quốc Tây Xi. Gần trăm vạn kỵ binh du mục từ thảo nguyên xuất kích, sức chiến đấu và thành quả chiến đấu kinh người của chúng khiến cho người ta phải kinh hãi không thôi.
Từ ngày tuyên bố xuất binh, kỵ binh của Đại Đế quốc Tây Xi đã lấy khí thế lôi đình vạn quân san bằng tất cả những lực lượng gây trở ngại trên đường tiến quân của chúng. Lợi dụng cục diện hỗn chiến liên miên ở miền Trung đại lục, trong vòng mười hai ngày, kỵ binh Đại Đế quốc Tây Xi đã đánh hạ mười bốn thành trì quan trọng ở vùng biên giới ba quốc gia, hình thành ba tuyến giao thông chủ yếu dẫn tới miền Trung đại lục.
Nếu cứ tiếp tục với tốc độ như vậy, không ngoài ba tháng nữa, Đại Đế quốc Tây Xi sẽ một hơi tiêu diệt ba quốc gia, sau đó bọc đánh Lê quốc, rồi sẽ trực tiếp đối mặt với Kinh Hồng, Công quốc Thánh Uy Nhĩ và Độc Lập lĩnh.
Thế nhưng lúc này, chỉ sợ chiến sự Đế quốc Mạch Gia chưa thể chấm dứt.
Cách Long Đặc dùng binh vừa độc vừa chuẩn, ông ta muốn thừa dịp kẻ duy nhất có thể là đối thủ trước mắt của ông ta là Thiển Thủy Thanh đang giằng co chiến sự Đế quốc Mạch Gia, tranh trước chiếm đoạt rất nhiều vùng lãnh thổ, thực hiện việc kết nối lãnh thổ hai đại Đế quốc, gác trước một bước về thực lực so với Đế quốc Thiên Phong, cũng chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến kế tiếp.
Khác với Thiển Thủy Thanh, Cách Long Đặc Sa Khổ Nhi Luân có thể chỉ huy một cánh đại quân lên tới tám mươi vạn, trong đó có chừng bảy mươi vạn kỵ binh. Hơn nữa nếu như ông ta muốn, thậm chí ông ta còn có thể triệu tập binh mã trong nước một lần nữa. Mà hiện giờ, khả năng chỉ huy binh mã của Thiển Thủy Thanh bất quá chỉ chừng mười vạn mà thôi.
Cách Long Đặc sẽ tuyệt đối không cho Thiển Thủy Thanh có thời gian và cơ hội tiếp tục phát triển, ông ta muốn vào thời điểm cường địch hoàn toàn không có cơ hội phát huy thực lực, ra tay bắt lấy. Trên phương diện này, cách cân nhắc vấn đề của ông ta hoàn toàn thống nhất với Tháp Lan, chẳng qua cách thực hiện của ông ta bao quát toàn cục hơn Tháp Lan.
Nhưng đối với Thiển Thủy Thanh mà nói, vấn đề khó khăn trước mắt của hắn, thật sự mà nói là nối đuôi nhau đồ xô tới, hết cái này tới cái khác.
Bên trong phủ thành Thiên Cốc, sắc mặt Thiển Thủy Thanh nặng nề đứng trước bản đồ Đế quốc Mạch Gia, chung quanh là các tướng lĩnh Mịch Tử Âu, Cô Viễn Ảnh, Ly Sở, Hà Song Tường, Hứa Thụy Trung, Sở Anh. Phương Khánh, Gia Xá Nhĩ...
Trong tay của hắn còn có một phong thư mới vừa nhận được.
Người viết thư này là Đại tướng cầm quân của Độc Lập lĩnh, Tất Hổ. Thư này viết gởi cho Thiển Thủy Thanh, nội dung trong đó vô cùng khách sáo, đại ý là chúc mừng Thiển Thủy Thanh đánh bại Tháp Lan, đạt được toàn thắng, đồng thời cũng nhắc tới việc Đế quốc Thiên Phong và Độc Lập lĩnh kết minh, xưng huynh gọi đệ, vĩnh kết đồng tâm. Nhìn bề ngoài, đây chỉ là một phong thư chúc mừng thắng lợi của đồng minh, tuy nhiên Thiển Thủy Thanh vẫn nhìn thấy được tâm cơ giao quyệt được che giấu phía sau phong thư này.
- Tên Tất Hổ này, trong số các ngươi có ai hiểu biết về hắn hay không?
Thiển Thủy Thanh thuận miệng hỏi.
Mịch Tử Âu đứng ra trả lời:
- Ta có biết một ít. Tên Tất Hổ này có thể coi là một tên Đại tướng tương đối nổi danh của Độc Lập lĩnh, năm xưa từng là cường đạo trên sông, tính tình tàn nhẫn hung tợn, độc ác dị thường. Bởi vì Độc Lập lĩnh năm xưa là do một đám tù phạm đánh lấy thiên hạ, cho nên xưa nay Độc Lập lĩnh có thói quen dùng tù phạm cho nhập ngũ. Mà Doanh tử tù của bọn chúng cũng có thể nói là cánh quân hùng mạnh nhất, trong đó tên nào cũng không biết sợ chết là gì, bởi vì bọn chúng vốn đã là người bị phản tội tử hình. Tất Hổ năm xưa tung hoành một phương ở Độc Lập lĩnh, sau khi bị bắt đã bị đưa vào Doanh tử tù. Tên này tác chiến dũng cảm, võ nghệ cao cường, rất nhanh đã được các quân binh trong Doanh tử tù tôn trọng cùng nhau tôn hắn lên làm Doanh Chủ.
À, còn chuyện này nữa, binh sĩ trong Doanh tử tù bởi vì phần lớn đều xuất thân từ tử tù, ai ai cũng kiêu ngạo ngang ngược, bởi vậy tướng lĩnh bình thưởng khó mà khống chế, cho nên đa phần chức Doanh Chủ của Doanh tử tù đều do binh sĩ trong doanh tự động đề cử. Từ sau khi Tất Hổ nhận chức Doanh Chủ Doanh tử tù đã nhiều lần lập công lớn, cuối cùng nhờ vào công huân rửa sạch tội danh, thăng chức liên tục, cuối cùng trở thành một viên tướng lĩnh cao cấp của Độc Lập lĩnh. Khác với chúng ta, bọn hán tử của Độc Lập lĩnh bình thưởng cũng không phải là người dễ dàng phục người khác. Bọn chúng sẽ không khâm phục mẫu tướng lĩnh có thiên phú chỉ huy nhưng lại thiếu tài võ nghệ ở mức nhất định. Bọn chúng rất thích đi theo loại tướng lĩnh có bề ngoài to lớn; mạnh khỏe hữu lực, võ nghệ cao cường. Tất Hổ chính là loại người như vậy.
Bởi vì trên phương diện chỉ huy của các tướng lĩnh Độc Lập lĩnh, thật sự khó mà tìm ra một vài tướng tài thật sự. Nhưng về phương diện chiến đấu dũng mãnh, nếu nói về tố chất của riêng từng binh sĩ, tuyệt đối không thua gì quân tinh nhuệ của bất cứ quốc gia nào. Thắng lợi của bọn chúng gần như đều nhờ vào sự xung phong mãnh liệt cùng vô số máu đổ ra mà đổi được. Cũng vì như vậy, lúc bọn chúng chiến đấu thì vô cùng hung hãn, sau khi đánh thắng, đối xử với thành thị chiến bại cũng hết sức hung tàn, gần như sau mỗi trận thắng như vậy đều đồ thành. Thiển Tướng quân cũng từng có hành động huyết hương tế đại kỳ đồ thành, nhưng ngài đồ mười thành cũng không bằng bọn cúng đồ một thành, bởi vì bọn chúng coi hành động đồ thành là lạc thú.
Chẳng trách danh tiếng của Độc Lập lĩnh ở phía Bắc lại bại hoại đến như vậy, được xưng là bọn trộm cướp, Mịch Tử Âu giải thích một phen, mọi người đã hiểu ra. Mà một tướng lĩnh có thể được bọn binh sĩ như vậy ủng hộ, có thể tưởng tượng được là nhân vật như thế nào.
Thiển Thủy Thanh cười cười:
- Nói vậy phong thư này ắt Tất Hổ phải nhờ người viết hộ.
- Đúng là như vậy.
Mịch Tử Âu cũng cười theo.
Quét nhìn các tướng chung quanh một vòng, Thiển Thủy Thanh nói:
- Tất Hổ viết thư lời lẽ rườm rà ba hoa, mục đích cuối cùng chỉ có hai. Thứ nhất, hành động liên kết sau khi kết minh, tác chiến như thế nào. Thứ hai, hy vọng ta có thể đi một chuyến tới gặp hắn, cùng nhau thương lượng quân cơ.
Các tướng nghe vậy khẽ cau mày, bảo Thiển Thủy Thanh tới chỗ của Tất Hổ, chuyện này có ý gì đây...?
- Có lẽ hắn muốn nhân cơ hội này bàn về chuyện phân chia lợi ích. Thật ra ý của Tất Hổ đã viết trong thư rất rõ ràng, hắn muốn dùng cách phân chia đơn giản nhất, chính là lãnh thổ của Đế quốc Mạch Gia, ai đánh chiếm được vùng nào thì vùng đó thuộc về người ấy. Hắn đề nghị mọi người cùng nhau đánh từ Bắc xuống Nam.
- Quả thật là đánh rắm!
Hứa Thụy Trung là người đầu tiên nhảy dựng lên mắng to:
- Như vậy chuyện tiêu diệt quân địch thì sao, chuyện này phải tính như thế nào? Sáu mươi vạn đại quân ở Đế quốc Thiên Phong, hai mươi vạn đã bị chúng ta tiêu diệt. Nếu nói xuất lực, Độc Lập lĩnh hắn từng xuất lực làm được chuyện gì? Hiện tại bên trong Đế quốc Mạch Gia như chỗ không người, mọi người cùng nhau tranh đoạt địa bàn, người của chúng nhiều hơn ta, tụ nhiên sẽ chiếm được phần nhiều hơn. Kết quả là chúng ta bỏ ra công sức quá nhiều, ích lợi thì bọn chúng hưởng hết!
Cô Viễn Ảnh lạnh lùng tiếp lời:
- E rằng Hứa Tướng quân nghĩ vẫn còn đơn giản. Chớ quên sau khi Độc Lập lĩnh tham chiến, quân chủ lực Đế quốc Mạch Gia nhất định điều động chạy về cứu viện, Quân Đế quốc Mạch Gia ở Nam, Độc Lập lĩnh ở Bắc, chúng ta nằm giữa. Tất Hổ đề nghị khởi xướng công kích từ Bắc xuống Nam, vậy không phải là buộc chúng ta phải đụng độ trước với quân Đế quốc Mạch Gia ư? Chúng ta liều mạng cùng quân Đế quốc Mạch Gia, Tất Hổ lại có thể nhân cơ hội này chiếm đất. Đợi cho đến khi cả hai phe đánh nhau mỏi mệt, hắn sẽ thừa cơ tiến công, còn có thể ba hoa là đã cứu chúng ta một mạng, khiến cho chúng ta phải nợ hắn một mối nhân tình, suy nghĩ này quả thật vô cùng chu đáo!
Hà Song Tường cũng tỏ ra giận dữ:
- Quả nhiên là cường đạo, đến bây giờ cũng không sửa đổi được bản tính cường đạo. Hai nước liên thủ, hắn không nghĩ cách cùng nhau đối địch, lại nghĩ cách làm thế nào để có thể chiếm phần hơn!
- Ta thấy hắn mời Tương quân đi thương nghị quân cơ, chỉ sợ sau khi Tướng quân tới nơi, e rằng hắn sẽ kiếm cớ giữ Tướng quân lại. Có Tướng quân trong tay, bọn chúng ta cũng chỉ có thể nghe theo lệnh hắn mà hành sự!
Hứa Thụy Trung lạnh lùng nói.
- Mà nếu như Tướng quân không đi, phải nói rằng dù sao cũng là hai nước kết đồng minh, chúng ta lại có quan hệ thuộc quốc với Đế quốc Thiên Phong, e rằng sẽ gánh lấy tội danh phá hoại chuyện kết minh!
Phương Khánh lo lắng nói.
- Ngoài có cường địch, nội bộ bất ổn, loại mình quân như vậy, thật sự là không có cũng không sao!
Ly Sở căm tức nói.
Thiển Thủy Thanh chỉ còn có nước cười khổ.
Vốn Độc Lập lĩnh nhân thời cơ lúc này mà xuất binh, đã bị nghi ngờ rằng muốn chiếm lợi ích về mình, thế nhưng dưới tình huống hiện tại còn đưa ra yêu cầu quá phận như vậy, lòng tham không đáy của đám cường đạo này cũng khiến cho Thiển Thủy Thanh không thể không sinh lòng bội phục.
Tuy nhiên hắn bội phục nhất là Thương Dã Vọng. Vị Hoàng đế bệ hạ này chính là đã ném ra một khúc xương, khiến cho hai con chó cùng nhau tranh đoạt. Đế quốc Mạch Gia đương nhiên phải bị diệt, Thiển Thủy Thanh lại không được ích lợi gì. Chỉ sợ chính vì như vậy, kết quả lại là để Đế quốc Thiên Phong chiếm phần hơn.
Tuy nhiên đáng tiếc, vị Hoàng đế này vẫn còn tính toán sơ suất một chuyện.
Ông ta đã coi thường mối uy hiếp lớn nhất của mình: Đại Đế quốc Tây Xi.
Trong kế hoạch nguyên bản của Thương Dã Vọng, bất kể Thiển Thủy Thanh lập được công lao thế nào ở Đế quốc Mạch Gia, hắn đều phải đối mặt với sự uy hiếp của Độc Lập lĩnh. Có con bài tẩy này, Thương Dã Vọng căn bản không cần lo lắng về người Đế quốc Mạch Gia, chỉ cần dốc hết toàn lực đối phó Công quốc Thánh Uy Nhĩ, với thực lực của Công quốc Thánh Uy Nhĩ, nếu muốn đối kháng với Đế quốc Thiên Phong, vậy còn kém rất xa. Nhưng ông ta nằm mơ cũng không ngờ rằng, đầu tiên là Quý Cuồng Long đột tử, sau đó là Đại Đế quốc Tây Xi tuyên bố xuất binh, khiến cho toàn đại lục biến thành một vũng nước đục. Hiện giờ có lẽ trong lòng Thương Dã Vọng đang giận dữ, nhưng Độc Lập lĩnh đã tiến nhập Đế quốc Mạch Gia, muốn thỉnh bọn chúng ra ngoài e rằng không thể được, vấn đề khó khăn này trước tiên rơi xuống đầu Thiển Thủy Thanh, nhưng nếu như hắn gặp phải tai ương, Đế quốc Thiên Phong ắt cũng khó sống yên lành.
Thiển Thủy Thanh hiểu rất rõ điểm này, dù sao không ai hiểu rõ bằng hắn về đủ các vấn đề giữa các quốc gia với nhau. Cũng vì như vậy, đối với sự khiêu khích của Tất Hổ, hắn chỉ có thể ẩn ẫn.
Người Đại Đế quốc Tây Xi mới là mối uy hiếp thật sự đối với hắn.
Lúc này hắn chậm rãi nói:
- Trên đời này chưa bao giờ có một đồng minh nào có thể tin cậy thật sự, nhưng chỉ cần còn có giá trị lợi dụng lẫn nhau, vậy vẫn còn hợp tác được với nhau. Sự tồn tại của Đại Đế quốc Tây Xi không chỉ là mối uy hiếp đối với Đế quốc Thiên Phong, đồng thời cũng là mỗi uy hiếp đối với tất cả quốc gia trên đại lục. Ta thấy phong thư này của Tất Hổ quá nửa chỉ là hành động ném đá dò đường, thật ra hắn cũng không dám thật sự chọc giận chúng ta. Hiện giờ chúng ta đang có kẻ thù chung, hợp ắt hai bên cùng có lợi, chia rẽ ắt hai bên cùng tiêu vong. Vấn đề duy nhất là làm sao trước khi quân địch đánh tới của nhà chúng ta, khiến cho đám khốn cuồng ngạo này tỉnh táo hơn để nhìn ra tính nghiêm trọng của vấn đề. Tránh cho đến lúc đó tác chiến bất lực, lại còn làm vướng chân vướng cẳng chúng ta.
Ly Sở không nhịn được còn bồi thêm một câu:
- Nếu như đám khốn này quả thật không biết tốt xấu là gì, vậy chúng ta cứ thả cho quân Đế quốc Mạch Gia trở về, để cho bọn chúng liều mạng với quân Độc Lập lĩnh, chúng ta ở phía sau chiếm tiện nghi.
Thiển Thủy Thanh trừng mắt nhìn hắn:
- Kẻ làm tướng phải lấy đại cục làm trọng, nếu chỉ bị chút thiệt thòi như vậy đã muốn báo thù, vậy tiền đồ sau này chỉ có hạn mà thôi. Những lời nói tự tìm đường chết này, về sau đùng nói nữa!
Ly Sở cúi đầu lộ vẻ không phục.
Sau khi giáo huấn Ly Sở, Thiển Thủy Thanh lại đắm chìm vào trong dòng suy tưởng của mình.
Có thể nói rằng từ trước tới nay, địch nhân chân chính trong mắt Thiển Thủy Thanh chính là người Đại Đế quốc Tây Xi.
Sự hùng mạnh của người Đại Đế quốc Tây Xi là do tổ tiên bọn họ dùng chiến đao gầy dựng mà thành, cho tới bây giờ là không thể nghi ngờ. Mỗi lần bọn họ xâm chiếm Trung thổ, đều là tất cả quốc gia trên đại lục đoàn kết tất cả sức mạnh mới có thể chống lại. Mà hiện tại, đại lục đang lâm vào vận mệnh tự tàn sát lẫn nhau, kẻ duy nhất đắc lợi chính là đám kỵ binh trên thảo nguyên kia. Bọn chúng tàn độc hơn cả người Độc Lập lĩnh, tham lam hơn cả người Công quốc Thánh Uy Nhĩ, hùng mạnh hơn cả người Đế quốc Thiên Phong. Bọn chúng hung hãn, kiên cường, có thể chịu khổ giỏi hơn tất cả mọi người, có nguồn tài nguyên vô giá là chiến mã, trời sinh là kỵ binh ưu tú nhất. Nếu người ở miền Trung đại lục không liên kết lại, đối mặt với địch nhân như vậy, cơ hội có thể thắng được chúng là rất ít.
Mặc dù ở vùng ngoại ô Khang Châu, Thiển Thủy Thanh từng to gan tuyên bố không sợ thiết kỵ thảo nguyên, nhưng sâu trong lòng hắn vẫn biết sự dũng mãnh và đáng sợ của thiết kỵ thảo nguyên.
Đây là sự đối đầu của hai dân tộc hoàn toàn khác về chủng tộc và văn hóa, một là dân tộc canh nông, một là dân tộc du mục. Điều kiện sinh tồn của dân tộc canh nông về mặt tự nhiên nổi trội hơn dân tộc du mục. Bọn họ dựa vào chuyện gieo trồng và chăn nuôi duy trì quần thể sinh thái khổng lồ. Nhờ vậy bọn họ có được rất nhiều tài nguyên phong phú, có thể sáng tạo cho mình hoàn cành sống thoải mái an nhàn hơn. Bọn họ cũng có được thời gian giải trí và nghỉ ngơi nhiều hơn. Nếu so ra, điều kiện sinh tồn của dân tộc du mục kém hơn dân tộc canh nông rất nhiều, bọn họ thiếu thốn rất nhiều đất đai có thể gieo trồng, thiếu các nguyên vật liệu cần dùng cho cuộc sống. Hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt đã sinh ra một dân tộc giỏi chịu cực chịu khổ, bọn họ có thể dùng chỉ một số ít lương thực đã có thể vượt qua một mùa Đông dài đăng đẵng. Bọn họ lại có thể sống đuợc trong hoàn cành gian khổ khắc nghiệt, có thể thích ứng với hình thái sinh sống hết sức phức tạp. Nhìn trên góc độ của dân tộc canh nông, đó là dân tộc chưa được khai hóa, ăn lông ở lỗ, ở tầng lớp cực thấp. Nhưng nếu nhìn trên góc độ của quân nhân, binh sĩ trưởng thành trong hoàn cảnh như vậy là đáng sợ nhất, khó ứng phó nhất.
Tác dụng của các Tướng quân thật ra nếu nói từ một góc độ nào đó, chính là làm tối đa hóa lực chiến đấu của binh sĩ. Có nhà quân sự vĩ đại từng nói rằng: “Nếu trong một cuộc chiến, có một vị Tướng quân có thể phát huy được lực chiến đấu của binh sĩ trong tay mình được tám phần mười, như vậy quân của hắn đã có thể nói là vô địch.”
Đây là một chân lý, nhất là ở thời đại dùng hàng nguội.
Ý nghĩa tồn tại của các Tướng quân, cái gọi là tinh thông binh pháp, tất cả gần như là vì phát huy sức chiến đấu của binh sĩ mà cố gắng. Tất cã những chuyện vận dụng chiến thuật, phối hợp địa hình địa lý, thiên thời địa lợi, sĩ khí lòng người, đều là cống hiến vì mục tiêu đơn giản này.
Nhưng cũng chính vì nguyên nhân này, chúng ta không thể tránh khỏi ý thức một vấn đề, đó là điều kiện quyết định thắng bại của hai quân tác chiến với nhau, nhân tố mang tính mấu chốt vẫn là tố chất của binh sĩ, chứ không phải Tướng quân.
Một Tướng quân có thể thông qua việc sắp xếp vận dụng trận hình, phát huy sức chiến đấu của binh sĩ mình lên tới một mức độ nhất định, đương nhiên là tốt, mà nếu bản thân sức chiến đấu của quân địch lại vượt qua cực hạn của sức chiến đấu quân mình, như vậy khi quyết đấu chính binh với nhau, cho dù Tướng quân ấy là thiên tài hơn người, cũng rất khó mà giành phần thắng lợi.
Đây cũng là nguyên nhân vì sao một thế giới văn mình phát đạt, có được khoa học kỹ thuật, công cụ tiên tiến, trí tuệ chiến đấu rất cao, thường bị một số ít quốc gia man rợ xâm lấn. Bởi vì những chiến sĩ man rợ vốn là nỗi khao khát của mỗi một Tướng quân. Chỉ cần nghĩ lại nếu như có được mười vạn chiến sĩ như chiến sĩ Hùng tộc, cần gì phải bày bố trận hình phức tạp, chỉ cần ùa lên một lượt là thừa sức san bằng quân địch.
Kỵ binh của dân tộc thảo nguyên nếu nói về chiến lực cá nhân tự nhiên là kém xa chiến sĩ Hùng tộc, nhưng tố chất cá nhân của bọn chúng cũng đã dũng mảnh hơn nhiều so với đại đa số binh sĩ của các quốc gia khác.
Trong hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt, mỗi một người thảo nguyên từ nhỏ đã phái học cỡi ngựa. Mà hai loại hình sinh tồn cơ bản nhất trên thảo nguyên chính là chăn nuôi và cướp bóc. Có thể nói từ lúc người thảo nguyên vừa sinh ra đã không ngừng trưởng thành trong di chuyển và chiến đấu. Loại chiến sĩ như vậy, quét mắt nhìn khắp các quốc gia, không có binh sĩ nào khác có thể so sánh được.
Cũng có lẽ bọn người man rợ của Độc Lập lĩnh kia cũng có thể liều mạng cùng người thảo nguyên, nhưng đáng tiếc là đại đa số bọn chúng đều là bộ binh hoàn toàn không thể nào ngăn cản được kỵ binh.
Nếu như nói sức chiến đấu của binh sĩ bình thường là mười, sức chiến đấu của chiến sĩ Hùng tộc là năm mươi, như vậy sức chiến đấu của kỵ binh thảo nguyên ít nhất cũng là hai mươi. Một vị Tướng quân tài giỏi nếu phát huy binh sĩ có sức chiến đấu là mười, chắc chắn không thể nào phát huy lên được tới hai mươi, vì muốn phát huy ra tới hai mươi cần phải trui rèn gian nan cực khổ trong thời gian dài, tỷ như Thiết Huyết Trấn vậy. Mà một Tướng quân yếu kém nếu thống lĩnh kỵ binh thảo nguyên, chỉ cần phát huy uy lực được mười hai cũng đã nắm thắng lợi trong tay.
Vì vậy cho nên đám kỵ binh kiêu dũng sản sinh ra từ thảo nguyên mênh mông bát ngát kia nếu muốn quét ngang đại lục, chuyện này bọn chúng thừa sức làm được. Cũng vì như vậy, chúng đã trở thành mối lo ngại lớn nhất của Thiển Thủy Thanh.
Hiện tại trong tình hình này, Thiển Thủy Thanh thật sự không muốn trở mặt với Độc Lập lĩnh. Hoàn toàn ngược lại, nếu như có thể, hắn cần phải mượn sức của thế lực này mói có thể tiến hành một phen đối kháng sinh tử với bọn kỵ binh thảo nguyên.
Bởi vì hắn vẫn hiểu rất rõ ràng, vị Tây Chiến thân Cách Long Đặc trên thảo nguyên kia cũng không phải là loại Tướng quân phát huy sức chiến đấu của binh sĩ từ hai mươi thành mười hai.
Đối mặt với địch nhân hùng mạnh, cho dù sau lưng mình là đồng minh âm hiểm không đáng tin cậy, cũng nhất định phải thỏa hiệp.
Lúc này Thiển Thủy Thanh đã hạ quyết tâm.
Hắn cao giọng nói:
- Truyền lệnh của ta, quân ta phụ trách toàn miền Nam Đế quốc Mạch Gia, gánh vác trọng trách ngăn cản quân Đế quốc Mạch Gia. Mặt khác báo cho Tất Hổ, bản Tướng quân đồng ý với lời nói của Độc Lập lĩnh, ai chiếm được vùng lãnh thổ nào. Nó sẽ thuộc về người ấy. Chỉ là đại chiến sắp tới, bản Tướng quân không rảnh, chuyện hắn mời gặp mặt để ngày sau hãy tính.
- Tướng quân, như vậy cứ mặc cho Tất Hổ không công mà chiếm phần hơn chúng ta hay sao?
Cô Viễn Ảnh tỏ ra bất mãn.
- Đối mặt với cường địch, cho bọn chúng một chút lợi thì đã sao? Đại Đế quốc Tây Xi đã xuất binh, chúng ta cũng phải gia tăng tốc độ, về phần Tất Hổ, hôm nay hắn lấy của ta, ngày mai nhất định phải trả lại gấp đôi. Còn nữa...
Thiển Thủy Thanh đột nhiên tạm ngừng một chút, nở nụ cười lạnh lẽo:
- Đế quốc Mạch Gia là một miếng thịt thơm phức, ai ai cũng thèm muốn. Bệ hạ có thể ném ra một khúc xương cho hai chó tranh nhau, ta đây cũng có thể thả tép bắt tôm. Thứ mà Thiển Thủy Thanh ta bỏ ra, Độc Lập lĩnh hắn chưa chắc đã có thể lấy được.
Các tướng nghe vậy ngạc nhiên, không hiểu Thiển Thủy Thanh nói như vậy là có ý gì. Thiển Thủy Thanh đã chậm rãi xoay lưng lại:
- Nếu nói trên cả đại lục này còn có một quốc gia không sợ người thảo nguyên, như vậy đó không phải là Đế quốc Thiên Phong, cũng không phải Độc Lập lĩnh, mà là...Nhai quốc!
Nhai quốc, cung Hải Thiên.
Đây là Hoàng cung duy nhất trong mười đại danh cung trên đại lục Quan Lan không phải là kiến trúc bản thổ, nó nằm trên đảo Sùng Dương, cả đảo này là nơi tạo nên cung Hải Thiên.
Cung Hải Thiên xây dựng trên đảo, bốn phía đều là biển, ra vào toàn bằng thuyền. Đảo Sùng Dương có diện tích cũng không lớn lắm. Nhưng người Nhai quốc lợi dụng kỹ thuật xuất sắc của bọn họ xây dựng nên một Hoàng cung trên biển vô cùng tráng lệ và đặc sắc.
Toàn cung Hải Thiên được thiết kế theo hình rồng, đầu rồng hướng về phía Tây, mặt ngó vào đại lục, ý chỉ thiên hạ, bởi vậy có thể thấy rằng sâu trong nội tâm người Nhai quốc cũng có dã tâm không nhỏ. Trong đó đầu rồng là tầm cung của Quốc chủ Nhai quốc và phi tần, thân rồng chủ yếu là điện thảo luận chính sự. Đuôi rồng là nơi ở của kẻ hầu người hạ. Phía Bắc đảo Sùng Dương, cung Hải Thiên là kiến trúc chủ thể, phía Nam có ngự hoa viên, quảng trường Hoàng cung, bốn phía bố trí rất nhiều tháp canh gác cho vệ binh đứng gác. Ngoài đảo có mười hai Long thuyền ba tầng, hai mươi pháo hạm cùng hơn bốn mươi thiết giáp hạm, còn có một Hành cung Vương thuyền.
Long thuyền ba tầng là hải thuyền cở lớn đặc biệt có thể đi trên hải trình rất xa của Nhai quốc, sử dụng gỗ cây bưởi thay vì cây dẻ, nhờ vậy tuổi thọ tăng gấp đôi, năng lực đi xa rất tốt. Lại thèm sức chở rất lớn, phạm vi hoạt động trên biển rất rộng, hơn nữa có thể trường kỳ chịu đựng những cuộc chiến tiêu hao. Long thuyền ba tầng là chiến thuyền có trọng tài lớn nhất trên đại lục hiện tại, cũng là cơ sở để Thủy quân Nhai quốc xung bá trên biển cả. Lúc trước Thiển Thủy Thanh chuyển quân trên biển sử dụng chiến thuyền ba tầng, là đo Chỉ Thùy bắt chước kỹ thuật của người Nhai quốc mà đóng thành. Nhưng bọn họ chỉ học được bề ngoài, miễn cường đạt được sức chở như Long thuyền ba tầng của Nhai quốc, nhưng về các năng lực tuổi thọ, đi xa, tốc độ và tính năng chống chìm còn kém xa.
Về phần thiết giáp hạm của Nhai quốc cũng là chiến thuyền oai chắn thiên hạ, cũng là chiến thuyền chủ lực của bọn họ. Mặc dù về năng lực chạy liên tục, sức chở và chống chìm so ra kém Long thuyền ba tầng, nhưng năng lực va chạm lại vượt trội hơn. Loại thiết giáp hạm này là chiến hạm có hai cột buồm, bên ngoài bao một lớp vỏ sắt, mũi thuyền có gắn sừng húc rất lớn, chủ yếu sử dụng phương thức tác chiến bằng cách va chạm với thuyền địch rồi sau đó áp mạn mà đánh.
Pháo hạm là chiến hạm có uy lực công kích tầm xa mạnh nhất của Nhai quốc. Loại pháo hạm này có boong với diện tích rất lớn, số người chở được không nhiều, nhưng mỗi pháo hạm như vậy có ít nhất hai mươi máy bắn đá dùng riêng cho chiến hạm, mà chiến thuyền bình thường chỉ có được từ hai tới bốn máy bắn đá như vậy. Pháo hạm là vũ khí tấn công tầm xa chủ yếu khi tác chiến trên biển, Nhai quốc sử dụng gỗ làm đạn, là loại đạn gỗ được chứa đầy trong khoang thuyền, dù trên mặt biển cũng có thể cháy, chuyên dùng tiến hành tấn công tầm xa đối với Thủy quân của địch. Một khi có mười pháo hạm trở lên tập trung tấn công vào một chỗ, chỉ cần tưởng tượng đạn bay như sao sa giáng xuống thuyền địch cũng đủ khiến người không rét mà run. Chỉ là loại pháo hạm này gần như không có năng lực cận chiến, sợ nhất là gặp phải khoái thuyền nhỏ tốc độ cao như cấp Phong khoái thuyền của Cách Nhật Tang, bởi vậy nên pháo hạm không được sử dụng tác chiến đơn độc, mà luôn luôn phối hợp tác chiến với hạm đội của mình.
Lực lượng Thủy quân của Nhai quốc trải qua mấy trăm năm phát triển đã được công nhận là mạnh nhất đại lục. Nhờ vậy bọn họ có được năng lực tự bảo vệ mình, nhưng đối với sự tấn công từ bên ngoài, bởi vì năng lực của Lục quân yếu kém cho nên khó có thể phát huy chiến quả hữu hiệu.
Sở dĩ thực lực Thủy quân của Nhai quốc hùng mạnh, là vì có liên quan tới chuyện họ nằm lệch về phía Bắc. Phía Nam Nhai quốc là Đế quốc Mạch Gia hùng mạnh, phía Bắc là Tuyết quốc bốn mùa đều là trời Đông giá rét, băng đóng quanh năm. Nếu nói về diện tích của Tuyết quốc, thật ra không kém gì Đế quốc Mạch Gia, Công quốc Thánh Uy Nhĩ, nhưng nơi đây khí hậu khắc nghiệt, khắp nơi đều là băng, thật sợ không thích hợp sinh tồn. Bởi vậy Tuyết quốc ở cực Bắc nghèo nàn chậm phát triển, căn bản không có quốc gia nào có hứng thú muốn phát triển ở nơi này. Phá Tây Bắc của Nhai quốc là Độc Lập lĩnh, đám cường đạo thổ phỉ này tuy ác danh đã rõ, nhưng thực lực không dễ khinh thường. Dưới tình huống như vậy, Nhai quốc ba hướng không thể làm gì, chỉ còn có thể phát triển ra hướng Đông là biển cả.
Bởi vì người Đế quốc Mạch Gia thường xuyên phát sinh chiến sự cùng Đế quốc Thiên Phong, cho nên Nhai quốc phát triển rất vững vàng, ngược lại bên ngoài không có địch nhưng bên trong lại không yên, thường hay xảy ra nổi loạn chính biến.
Ngoài ra nguyên nhân Nhai quốc phát triển ra biển không chỉ liên quan tới vấn đề địa thế chung quanh, mà còn có liên quan rất nhiều tới khí hậu của họ. Bởi vì miền Bắc giá lạnh, thực vật nơi đây chỉ có thể gieo trồng một vụ, chính là gieo vào mùa Xuân, thu vào mùa Thu. Không giống như Đế quốc Mạch Gia nằm ở vùng khí hậu ôn hòa, có thể gieo trồng lúa nước vào mùa Xuân, lúa mạch vào mùa Thu, một năm hai vụ. Một số ít vùng ở Kinh Hồng, Chỉ Thủy thậm chí còn có thể gieo trồng ba vụ, vừa thu gặt đã gieo trồng tiếp, vĩnh viễn không cần lo nước bị đóng băng làm chết cây trồng.
Cho dù trồng hai vụ, đất không kip cung cấp dinh dưỡng, sản lượng sẽ thấp, không thể nào so sánh với vùng đất của Đế quốc Mạch Gia vốn dồi dào dinh dưỡng. Nên dù có trồng hai vụ, nhưng sản lượng thu hoạch mỗi vụ của Nhai quốc cũng thua xa Đế quốc Mạch Gia.
Bởi vậy, vì muốn giải quyết vấn đề lương thực, người Nhai quốc không thể không tìm nguồn lương thực trên biển.
Lúc đầu, bọn họ phát triển từ đánh bắt trên biển đến kinh doanh trên biển, sau vì sự tồn tại của hải tặc mà phát triển thành công Thủy quân trên biển, trở thành lực lượng Thủy quân mạnh nhất trên đại lục. Điều đáng tiếc là đại lục Quan Lan rất coi thường lực lượng Thủy quân, dù là bản thân người Nhai quốc cũng không cho rằng Thủy quân có thể có tác dụng bảo vệ họ được bao nhiêu. Tỷ dụ trực tiếp nhất chính là hai mươi vạn Thủy quân của Chỉ Thủy ngày trước, chưa có cơ hội đánh trận nào đã bị Thiển Thủy Thanh diệt quốc.
Thời đại này vẫn là thiên hạ của Lục quân.
Mãi đến khi Thiển Thủy Thạnh tiến hành chiến lược chuyển quân trên biển, nhờ vậy mói hoàn toàn cải biến cách nhìn của lục địa này với Thủy quân, tuy nhiên chuyện này cần phái có rất nhiều năm về sau.
-
Từ khi Nhai quốc phát triển ra biển, trọng lượng lời nói của bọn họ trên lục địa ngày càng giảm đi, nhưng lại có được quyền chủ động tuyệt đối trên biển cả.
Qua khỏi biển Phong Bạo chính là biển Ân Tứ và biển Trân Châu. Hai vùng biển này và một phần lãnh hải của biển Phong Bạo đều bị người Nhai quốc khống chế, có rất nhiều quần đảo lớn. Người Nhai quốc biết ơn biển cả đã cho bọn họ có cơ hội phát triển, cho nên đặt tên cho vùng biển thuộc bọn họ là biển Ân Tứ, ý nói là nơi thiên thần ban cho. Lại gọi vùng biển mênh mông mà bọn họ chưa chinh phục được là biển Trân Châu, ý nói nơi đó còn có của cải nhiều hơn nữa đang đợi mình khai phá.
Từ điểm này mà xét, chúng ta cũng có thể thấy rằng các quốc gia khác nhau có thái độ khác nhau về biển cả. Tỷ như người Đế quốc Mạch Gia cũng có hải cảng, vùng lãnh hải của họ cũng nằm trong biển Phong Bạo, nhưng vì trong mắt bọn họ đó là nơi bão tố hoành hành, chỗ mà Hải thần sinh sống, nên không chấp nhận cho người khác động tới. Cho nên nếu người Đế quốc Mạch Gia phát triển hạm đội đường sông của họ ra biển, vậy sẽ có điều thắt le!
Vùng lãnh thổ xa nhất có thể nhìn thấy của Nhai quốc là đảo Hải Giác và Vô Nhai Giác. Khi xưa nhà thám hiểm Nhai quốc vốn nổi tiếng về thám hiểm trên biển, cũng là Quốc chủ Nhai quốc Nhai Thương Viễn sau khi thám hiểm đến nơi này, cho rằng ông ta đã tới được cuối chân trời, cho nên đặt tên đảo này là đảo Hải Giác, cả khu vực là Vô Nhai Giác, cũng coi đây là tên nước, đặt là Nhai quốc. Mà đảo Sùng Dương nằm ở giữa vùng biển này, từ 'Sùng Dương' này chính là chỉ chí hướng cao xa của Nhai Thương Viễn đặt trên biển cả mênh mông, không phải ý 'sùng dương' là sùng ngoại. Nếu như tính cả diện tích vùng lãnh hải, như vậy trên thực tế, quốc gia có diện tích lãnh thổ lớn nhất trên đại lục Quan Lan chính là Nhai quốc. Vùng biển mà bọn họ khống chế rộng gắp mấy chục lần lãnh thổ trên đất liền của họ.
Tuy nhiên đối với người Nhai quốc mà nói, đạt được nhiều vùng đất hơn cũng là chuyện mà bọn họ hướng tới.
Đây cũng là khát vọng của bất cứ cộng đồng dân tộc hải đảo nào...
Trong cung Hải Thiên.
Trên điện Tâm Viễn, Nhai Vô Song đang ngồi ngay ngắn.
Thừa tướng Kỷ Luơng Quốc ngồi trên một chiếc ghế đặc biệt dành riêng cho lão, chắp tay nói với Vô Song:
- Bệ hạ, ý kiến hôm qua của lão thần, bệ hạ đã xem qua chưa?
Vô Song thản nhiên đáp:
- Đã xem, tuy nhiên tạm thời trẫm không nghĩ tới chuyện này.
Kỷ Lương Quốc nghe vậy trở nên khẩn trương, lập tức đứng lên:
- Bệ hạ, tuổi của ngài không còn nhỏ nữa, tuyển Hậu là chuyện lớn, sao có thể khinh thường chậm trễ như vậy?
Vô Song lập tức trả lời:
- Không phải trẫm không đáp ứng đề nghị của Á phụ, thật sự là trước mắt đại lục đang nổi lên tranh chấp, thời cuộc biến động, gặp dịp trẫm là tân quân vừa mới đăng quang, căn cơ chưa ổn, lúc này là lúc chăm lo việc nước, bản thân phải làm gương tốt để cảnh tỉnh quốc dân, không nên lo tới chuyện tư tình nhi nữ.
Kỷ Lương Quốc là công thần trong chuyện Vô Song trở về triều đăng cơ. Năm xưa nhờ có lão, lấy thân phận của một viên quan Thị lang tứ phẩm, cam chịu mạo hiểm cứu Vô Song ra khỏi cuộc chính biến khi xưa. Sau lần đó, một mặt lão nỗ lực dạy dỗ Vô Song trưởng thành, mặt khác liên lạc với những phần tử khắp nơi còn trung thành với cố chủ, mưu đồ giúp Vô Song trở lại ngôi cao. Thần tử như lão vậy, trong tất cả các triều đại phàm khi xảy ra việc âm mưu soán ngôi sẽ thấy xuất hiện. Bạn có thể cho rằng bọn họ là trung thần can đảm, phò trợ dòng chính, nhưng cũng có thể cho rằng họ là những kẻ đầu cơ trục lợi, mạo hiểm một phen nếu như thành công ắt ngày sau con đường hoạn lộ thê thang.
Khi Vô Song trở lại Nhai quốc, người đầu tiên mà hắn liên hệ chính là Kỳ Lương Quốc, vị lão tướng đem tâm huyết cả đời mình đặt hết lên người hắn này. Sau nhiều năm tìm kiếm Vô Song không thấy, đột nhiên nghe tin hắn trở về, tâm trạng nguội lạnh như tro tàn không ngờ bừng bừng sống dậy. Bởi vì sự mất tích của Vô Song, Kỵ Lương Quốc giấu diếm đã nhiều năm không hành động gì cả, cho nên Quốc chủ Nhai quốc lúc đó đã thả lỏng lòng cảnh giác đối với uy hiếp mà Vô Song có khả năng mang lại tới mức thấp nhất. Kết quả Vô Song dưới sự phối hợp của các tử sĩ mà Kỷ Lương Quốc lôi kéo cùng chiến sĩ Hùng tộc, đã trả trộn thành công vào đảo Sùng Dương. Sau khi tránh thoát tuyến phong tỏa của Thủy quân, Vô Song lập tức có được quyền lực triệt để về quân sự, dễ dàng lấy lại ngôi báu.
Trong chuyện này, cống hiến của Kỷ Lương Quốc có thể nói là lớn không kể xiết, Vô Song bèn phong lão làm Á phụ, ban chức Thừa tướng chấp chưởng đại quyền chính trị Nhai quốc, đồng thời ban cho đặc quyền được ngồi, từ đó về sau gặp Quốc chủ có thể không cần bái lạy, được phép ngồi cạnh Quốc chủ.
Đối với chuyện phong thường gặp Quốc chủ không cần bái lạy, Kỷ Lương Quốc kiên quyết từ chối. Tuy nhiên từ đó về sau, lão trở thành người duy nhất có thể ngồi cạnh Quốc chủ để thương nghị việc triều chính, chân chính là dưới một người mà trên vạn người.
Lúc này Vô Song trả lời như vậy, lão Thừa tướng lập tức trở nên nóng nảy. Lão có đại ân với Vô Song, lại là ân sư lúc nhỏ của hắn, còn là một người hiếm có đủ tư cách ngay mặt dạy dỗ và chống đối Vô Song, bèn nói thẳng:
- Bệ hạ nói lời này là sai, chuyện nhà của Thiên tử cũng là quốc sự, sao lại phế bỏ chuyện nhi nữ như vậy? Hiện giờ thiên hạ đã định, đúng lúc nên tổ chức đại hôn để tỏ rõ Hoàng ân, ban phúc muôn dàn, lại thêm nhờ vậy có thể sớm sinh Long tử, trấn an lòng bá tánh. Vạn nhất sau này bệ hạ không có người nối dõi...Bệ hạ, bọn phản tặc vẫn còn đang lẩn trốn bên ngoài, nếu không sớm có Thái tử, chỉ sợ chúng sẽ thừa cơ phản kích.
Tiếng 'phản tặc' mà Kỷ Lương Quốc vừa nói tự nhiên ám chỉ đường đệ của Vô Song. Theo luật pháp quốc gia, nếu Vô Song không có người nối dõi, vậy dù hôm nay hắn lật đổ vị trí của thúc thúc hắn, tương lai sau này vị đường đệ của hắn vẫn có đủ tư cách kêu gọi dân chúng ủng hộ, trở lại ngôi cao. Vô Song thành thân sớm một ngày, chết đi muộn một ngày, vậy cơ hội của người khác sẽ ít đi một chút.
Cũng giống như khi xưa Kỷ Lương Quốc ẩn nhẫn trong bóng tối, mưu đồ chuyện tương lai, kể thất bại trên trường chính trị hiện giờ, lẽ nào không làm như lão?
Cho nên Kỷ Lương Quốc mới giục Vô Song sớm thành thân, chỉ là trong lòng Vô Song, một hình bóng thướt tha luôn không thể xóa nhòa. Nếu như có thể, hắn vô cùng hy vọng người ngồi lên vị trí Vương hậu của mình là Dạ Oanh.
Nghĩ đến đây, Vô Song cảm thấy đau nhói trong lòng.
Làm Quốc chủ thật sự vô cùng mệt mỏi.
Rất nhiều nghi lễ phiền phức chốn cung đình, hắn còn có thể cố gắng thích nghi, những âm mưu giáo quyệt trong chính trường quốc gia, hắn có thể cố gắng học tập. Nhưng bảo hắn phải cống hiến cả đời sống cá nhân của mình để bảo đảm cho ngôi cao vững chắc, bắt hắn hiến dâng tất cả những tình cảm trong lòng để làm nền tảng cho quyền lực, sâu trong lòng hắn vẫn có cảm giác phản kháng mạnh mẽ.
Nếu như có thể, hắn hy vọng trong lòng mình còn được một góc nhỏ bình yên, cho nên khi Kỷ Lương Quốc mãi mê thao thao bất tuyệt bên tai trần tình về việc nạp Hậu rằng, đó là chuyện có lợi cho nước cho dân, trong lòng hắn hận không thể tung một cước đá lão già đáng chán này bay đi nơi khác cho rãnh nợ, để lòng mình còn được thanh thản đôi chút.
Nhưng rốt cục hắn không thể làm như vậy, vì đó là ân nhân cứu mạng, là ân sư, là công thần, là trụ cột quốc gia...của hắn.
Quan trọng nhất là, lời lão nói đều đúng về mọi mặt, chỉ trừ một điểm, chính là bắt hắn phải hy sinh cảm nhận của bản thân mình.
Rốt cục hắn bắt đầu hiểu được, làm một Quốc chủ là một chuyện vất vả như thế nào. Hắn cũng không thể chuyện gì cũng đều thuận lợi mà hoàn toàn ngược lại, hắn vẫn phải lao tâm lao lực, phải cố gắng hết mình. Hắn còn nhờ ngày tiến vào cung Hải Thiên, lúc chỉ trường kiếm vào trán thúc thúc hắn, ông ta chẳng những không hề sợ hãi, ngược lại có vẻ như vừa mới dỡ bỏ gánh nặng trong lòng.
Thì ra người đứng trên vạn người này, không phải ai muốn làm cũng được.
Có lẽ Thiển Thủy Thanh làm được chăng?
Dùng tay xoa xoa trán, Vô Song hỏi:
- Nếu đã là như vậy, theo Á phụ, nên nạp nữ nhân nhà ai làm Hậu đây?
Kỷ Lương Quốc cảm thấy vui mừng:
- Lần nạp Hậu này phải nạp một Hậu, bốn phi mới là chính thống, về chuyện chọn Vương hậu, trước mắt có ba người, người thứ nhất là ái nữ của Tổng Thống lĩnh Hải lộ Ngụy Tường Minh. Nàng này dung mạo đoan trang, thanh tâm tú lệ, giỏi thư hiểu lễ, có phong thái con nhà quyền quý. Một người khác là ái nữ của Phù chủ phù Thiên Vụ nội lục (đất liền) Tả Thiên Thông, nàng này kiều diễm đáng yêu, thông minh lanh lợi, tinh thông cầm kỳ thì họa, chỉ tiếc tuổi còn hơi nhỏ một chút. Người cuối cũng là người hiện tại đang ở tạm trong cung, ái nữ của Phó Suất Quân đoàn Tường Long của Đế quốc Thiên Phong Tân Nghiệp Hoành: Tiểu thư Tân Tân. Nếu như bệ hạ có thể nạp nàng này làm Hậu, ắt từ nay về sau Nhai quốc ta và Đế quốc Thiên Phong lập thành quan hệ thông gia. Lần này bệ hạ trở lại ngôi cao, Đế quốc Thiên Phong đã giúp đở rất nhiều, bệ hạ lại nhiều phen hay thỉnh giáo tiểu thư Tân Tân về công việc. Hơn nữa bệ hạ cùng tiểu thư Tân Tân đồng hành với nhau, dù rằng trước kia có chuyện hiểu lầm, nhưng hiện giờ đã không còn hiềm khích cũ, nếu như có thể thành, ắt sẽ vô cùng ân ái. Chỉ là tính tình tiểu thư Tàn Tân không câu nệ, không hề có phong phạm quý phái. Kẻ làm Hậu là mẫu nghi thiên hạ, là tấm gương cho các nữ nhân, tính tình tiểu thư Tân Tân cần được rèn luyện thêm, còn nếu cứ không giữ lễ nghi nhi nữ, chuyên múa đao kiếm, tùy tiện trong cung, không biết cao thấp, thật sự là...có điều không ổn.
Kỷ Lương Quốc vừa nói vừa nhìn trộm sắc mặt Vô Song, chỉ là thiếu niên xưa kia nhiệt huyết bừng bừng, hiện nay là bá chủ trên biển cả, gương mặt vô cùng trầm tĩnh, không lộ vẻ gì.
Thấy Vô Song không nói lời nào, Kỷ Lương Quốc lại nói tiếp:
- Ngoài ra vấn đề quan trọng nhất chính là hiện giờ đại lục đang nổi lên tranh chấp. Mặc dù Thiển Thủy Thanh đánh đâu thắng đó, nhưng địch nhân hùng mạnh nhất trước mắt của hắn là Đại Đế quốc Tây Xi vẫn chưa đánh tới. Đám man tộc thảo nguyên này vô cùng hung hãn, năm xưa Đại đế Sa Tư Hàn xâm lược Trung thổ, ngoại trừ giang sơn Nhai quốc ta dựa vào nơi hiểm yếu trên biển cùng Thủy quân vô địch bảo vệ vững vàng, gần như không ai có thể ngăn được gót giày của hắn. Nhưng diện tích đất liền của quốc gia ta quá ít, tuy có chút đất đai của riêng mình, nhưng dân số lại đông, nếu Đại Đế quốc Tây Xi đánh tới đây, chúng ta muốn bảo vệ quốc gia e rằng không dễ. Cho nên chuyện lúc này có nên kết minh cùng Đế quốc Thiên Phong hay không, hay là đợi thêm chút thời gian, xem thế cục ra sao rồi hãy nói...Ôi, lão phu cũng không có chủ ý gì...
Vô Song thầm cười lạnh trong lòng, đương nhiên hắn biết không phải Kỷ Lương Quốc không có chủ ý, mà là lão đã có chủ ý từ sớm, chỉ là lúc này muốn thăm dò ý mình xem sao.
Kỷ Lương Quốc là người thông minh, điểm khác biệt với mọi người chính là, lão không hề lấy công lao hộchủ của mình ra vênh váo. Có rất nhiều lúc lão rất cẩn thận thăm dò ý chủ, không phải chuyện gì cũng làm nghịch ý Vô Song.
Vô Song nhịp tay trên mặt án, suy nghĩ một hồi mới nói:
- Nếu là như vậy, lấy Tân Tân làm phi là phương pháp thích hợp.
- Bệ hạ anh minh, chỉ là...
- Chỉ là không được có con chứ gì?
Vô Song trừng mắt nhìn lão.
Kỷ Lương Quốc giật thót trong lòng:
- Vậy thì không cần, chỉ là tốt nhất nên có thứ tự trước sau.
Ý của Kỷ Lương Quốc là có Thái tử với Vương hậu trước, sau khi lập Thái tử rồi, tự nhiên không cần lo lắng chuyện con mình và Tân Tân sẽ trở thành Quốc chủ tương lai. Nếu không, trong tương lai ai dám bảo đảm rằng Đế quốc Thiên Phong sẽ không coi đây là lý do để gồm thâu Nhai quốc. Kết thông gia là muốn dựa dẫm lực lượng quốc gia hùng mạnh của đối phương, chứ không phải cho đối phương cái cớ để gồm thâu quốc gia mình. Vô Song hiểu rất rõ điểm này, cũng chỉ có thể lặng lẽ gật đầu:
- Vậy cho nàng đứng đầu bốn phi đi, cũng không thể bạc đãi nàng.
- Vậy, vậy...phía tiểu thưTân Tân thì...
- Để trẫm đi nói với nàng, thử xem ý của nàng ra sao.
- Bệ hạ anh minh.
Kỷ Lương Quốc lúc này mới dám lau mồ hôi trán. Vì tiểu thư Tân Tân này quả thật là người không đễ trêu chọc, từ khi tiến cung tới nay, cả ngày nàng ở lẫn lộn cùng cung nữ và thái giám, đôi khi còn xưng huynh gọi đệ với bọn thị vệ, mỗi ngày không có chuyện gì làm bèn đánh quyền luyện chiêu. Phụ thân phái nàng hộ tống Vô Song về nước, kết quả sau khi hoàn thành nhiệm vụ lại không cho nàng trở về, bắt nàng ở lại làm đại sứ. Một thiều nữ như nàng làm sao quen với cuộc sống như vậy được, mỗi ngày không biết làm gì bèn đi sinh sự.
Cung Hải Thiên tuy là Hoàng cung chủ điện của Nhai quốc, nhưng vẫn còn hai hành cung khác, một là Hành cung Vương thuyền, cũng là hành cung trên mặt biển duy nhất trên đại lục, còn có một Hành cung khác nằm trên đất liền. Kỳ thật đại đa số thời điểm, Quốc chủ Nhai quốc đều xử lý sự vụ ở Hành cung trên đất liền, dù sao đó cũng là nơi tập trung dân chúng Nhai quốc. Bởi vậy cũng có người nói cung Hải Thiên thật ra là ba cung hợp lại, nếu chỉ một cung Hải Thiên trên đảo Sùng Dương, vậy chưa đủ tư cách liệt vào hàng mười đại danh cung.
Mà sau khi vị tiểu thư Tân Tân tới đảo Sùng Dương, ngày nào cũng muốn chạy tới hai Hành cung kia chơi đùa, không hề có bộ dáng của một vị đại sứ chút nào, làm cho mọi người hết sức đau đầu.
Với tính tình của nàng, nếu Kỷ Lương Quốc nói thẳng với nàng rằng: “Hãy làm phi tử của Quốc chủ ta! “, rất có thể sẽ ăn một cái tát ngay tại chỗ. Tuy nhiên nếu Vô Song đi nói thì lại khác, dù sao lão cũng là hồ ly thành tinh, lão có thể nhìn thấy rõ ràng, Tân Tân rất có hảo cảm với Vô Song.
- Đúng rồi, chiến cuộc ở Đế quốc Mạch Gia lúc này ra sao rồi?
Vô Song ngẫm nghĩ một chút lại hỏi Kỷ Lương Quốc.
Kỷ Lương Quốc vội trả lời:
- Bởi vì Thiển Thủy Thanh không đổ bộ ở bến Cửu Long, cho nên những gì chúng ta chuẩn bị cho hắn hoàn toàn không cần phải sử dụng tới. Tuy nhiên hai ngày trước nhận được tin rằng Thiển Thủy Thanh đã đánh bại Tháp Lan, đạt được toàn thắng trong trận chiến ở thành Thiên Cốc. Hiện tại bên trong Đế quốc Mạch Gia không còn tướng tài, binh lực thiếu thốn trầm trọng. Độc Lập lĩnh tấn công kịp thời, có lẽ cũng đã tới dưới thành Gia Thập. Nơi đó là nơi có hệ thống phòng ngự chắc chắn nhất Đế quốc Mạch Gia hiện giờ, chiếm được nơi đó rồi thẳng tiến về phía Nam, hơn phân nửa Đế quốc Mạch Gia e rằng sẽ lọt vào tay bọn cường đạo ấy.
Nói đến Đế quốc Mạch Gia, trong lòng Kỷ Lương Quốc cũng thèm thuồng vô kể. Dù sao nơi đó cũng là kho lương thực của đại lục, đất đai màu mờ. Ai chiếm được vùng châu thổ sông Lan Thương, người đó sẽ không cần lo quốc dân mình bị đói. Đối với người Nhai quốc mà nói, lương thực còn đắt hơn cả cá.
- Nếu vậy...
Vô Song suy tư một lúc:
- Nếu có thể chiếm được vùng này, thực lực Nhai quốc ta chắc chắn tăng mạnh.
Đúng vậy, Vô Song cũng không khỏi buông tiếng than dài.
Cũng đúng vào lúc này, bên ngoài đột nhiên có người thông báo:
- Bệ hạ, có đặc sứ của Thiển Thủy Thanh Đế quốc Thiên Phong cầu kiến.
Trên đường đi tới, Bát Xích không ngừng cất tiếng khen ngợi:
- Trời ơi, Cơ tỷ tỷ, nơi này đẹp quá!
Đây là lần đầu tiên Bát Xích ra biển, lúc đến đảo Sùng Dương liền bị khí thế của cung Hải Thiên làm cho choáng ngợp.
Lúc Thiển Thủy Thanh xuất chinh đã để bọn Vân Nghê, Cơ Nhược Tử, Bát Xích trên cảng Lam Linh, đương nhiên hắn không muốn để các nàng trở về cung Phong Tuyết làm con tin, cũng không muốn các nàng quay về Hàn Phong quan. Ngoại trừ Hồng Nhạn và Thủy Trung Liên trở về, những người khác đều ở lại nơi này, một mặt có thể được tin của Thiển Thủy Thanh một cách nhanh nhất, mặt khác cũng có thể giám thị xưởng đóng tàu thuyền nơi đây. Thiển Thủy Thanh lập xưởng đóng thuyền ở cảng Lam Linh không phái chỉ để dùng một lần, hắn muốn mượn nơi đây thành lập một cánh Thủy quân khổng lồ.
Bất quá mục đích ban đầu của hắn là nếu có một ngày hoàn toàn phản bội Thương Dã Vọng, vạn nhất hắn thất bại, cùng có thể mượn nơi này giương buồm cao chạy xa bay.
Chiến sự nhiều năm qua đã dạy cho hắn một chuyện: Luôn luôn nên chuẩn bị sẵn sàng cho thất bại.
Bởi vì dùng hệ thống truyền tin bằng bồ câu đưa thư, cho nên mặc dù Đế quốc Thiên Phong không thể đưa tin tới cho Thiển Thủy Thanh kịp thời, nhưng càng Lam Linh lại có thể nhận được tin của Thiển Thủy Thanh truyền về. Từ lúc quyết định xuất binh ngăn cản quân Đế quốc Mạch Gia kéo về cứu viện, Thiển Thủy Thanh liền gởi mật lệnh cho Cơ Nhược Tử, bảo nàng lập tức phái người dùng cấp Phong khoái thuyền đi tới đảo Sùng Dương, đi tìm Vô Song. Có điều hắn cũng không ngờ, Cơ Nhược Tử lại mang tên tiểu quỷ Bát Xích đi theo.
- Cơ tỷ tỷ, có chuyện này đệ không hiểu.
Bát Xích quay đầu hỏi Cơ Nhược Tử.
Cơ Nhược Tử cười:
- Đệ không hiểu vì sao sư phụ của đệ phái tỷ làm sứ giả có phải không? Đúng lý mà nói, Từ chỗ của chàng tới Nhai quốc rất gần, nếu như chàng cho người chạy tới, đã sớm tới đây từ lâu mới phải. Trên đường đệ nghĩ mãi không ra, nhịn đến bây giờ mới hỏi cũng là khó được.
Bát Xích cười xấu hổ gãi gài đầu:
- Đúng là không có chuyện gì qua được mắt tỷ tỷ. Bất quá sở dĩ đệ nghi hoặc, còn có một nguyên nhân, kẻ bề trên không làm ra chuyện vô ích bao giờ. Tỷ tỷ ở trong triều không có quan chức, lần này tới đây chỉ có thể đại biểu bản thân sư phụ, mà không thể đại biểu cho Đế quốc Thiên Phong. Nhưng chuyện mà sư phụ muốn tỷ bàn luận với Vô Song ca ca lại có liên quan tới đại nghiệp của Đế quốc. Như vậy xem ra công tư lẫn lộn, lần này tỷ tỷ đi sứ, có vẻ không danh chính ngôn thuận cho lắm. Sư phụ là người hùng tài đại lược, không nên phạm sai lầm như vậy mới phải, nói vậy chắc trong lòng có tính toán khác. Chỉ là sư phụ gởi cho tỷ phong thư này, đệ cũng đã xem qua, thật sự không nhìn ra có gì dặn dò đặc biệt, cho nên nghi hoặc không hiểu được. Tỷ từng bảo đệ phàm đối mặt với bất cứ vấn đề gì, trước tiên phải tự mình suy nghĩ, nhưng đệ đã suy nghĩ suốt trên đường cũng không tìm được đáp án. Hiện giờ sắp sửa gặp Vô Song ca ca, cho nên muốn hỏi tỷ trước.
Cơ Nhược Tử khẽ gõ đầu nó một cái:
- Hiện tại đệ càng ngày càng hiểu biết nhiều hơn, sư phụ của đệ đúng là có tính toán khác, vậy mà đệ cũng có thể nhìn ra.
- Đúng vậy, tỷ đừng quên đệ còn có một vị lão sư là Thừa tướng Kinh Hồng.
- Quả thật Nghiêm Chân Bình không giấu đệ thứ gì.
Cơ Nhược Tử cười bất đắc dĩ. Bát Xích coi như là người may mắn, trước sau có hai vị sư phụ lừng lẫy đại danh dạy nó, lại đi theo mình trong khoảng thời gian dài. Bản thân nó lại thông minh lanh lợi, hiếu học không biết mệt, có thể tưởng tượng một thời gian nữa, ắt nó sẽ là nhân vật kiệt xuất. Điểm này chỉ cần xem vấn đề mà Bát Xích vừa đưa ra là có thể thấy được.
Nếu như đổi lại là hai năm về trước, một đứa nhỏ như nó tuyệt đối không đưa ra được vấn đề như