Giấy Ngọc Thử Tay Nghề
Trước giờ Trương Tam Phong thu đồ đệ cực kỳ nghiêm ngặt, căn cốt, tư chất,
tính cách nửa điểm cũng không được thiếu. Du Đại Nham thân là đệ tử thứ
ba của Trương Tam Phong, khả năng hiểu biết và nghị lực đều tuyệt vời.
Thế nên lần này phỏng đoán thời gian của Lộ Dao không chuẩn xác. Dùng
thuốc bôi ngoài độc môn của Lộ Dao chỉ mười ngày vết thương của chàng đã khép miệng, sau hai tháng ngắn ngủi đã quăng gậy tập đi. Tốc độ này
khiến Lộ Dao líu lưỡi.
Mỗi ngày nàng còn bận rộn hơn lúc mới tới
rất nhiều. Vừa phải dùng kim châm cứu kích thích cơ bắp, dây chằng phát
triển cho Du Đại Nham, lại phải phối hợp thuốc tắm, hi vọng giảm bớt
chứng đau nhức xương khớp mỗi khi trời mưa, ẩm ướt sau này, mà phần lớn
thời gian dùng để giúp Du Đại Nham thích ứng tay chân lần nữa. Thực ra,
Lộ Dao cảm thấy công việc này là quan trọng nhất, sở trường của nàng
không bằng được Võ Đang thất hiệp. Những người này đều là danh gia võ
học, luận bàn việc khống chế tay chân thân thể, quả thật tinh thông hơn
phái lý luận như Lộ Dao nhiều. Mỗi ngày đều có hai trong số các sư huynh đệ tới giúp Du Đại Nham luyện tập từng động tác cơ bản một, phần lớn là Lộ Dao đứng bên quan sát, đứng ở góc độ đại phu chỉ đạo các động tác
bọn họ nên làm, tránh bỏ sót cơ bắp, gân mạch. Hai ngày trước, Lộ Dao
chạy về phòng lấy đồ, vừa quay lại thì sửng sốt khi thấy Mạc Thanh Cốc
không cùng Du Đại Nham luyện tập đứng một chân mà đang so chiêu với Du
Đại Nham. Tuy không xê dịch vòng vo, chỉ là động tác tay nhưng vẫn làm
Lộ Dao tức gần chết. Quát to một tiếng khiến hai người giật nảy mình, kế đó mắng Mạc Thanh Cốc xối xả một trận: sư huynh ngươi còn đang tập đi,
ngươi lại dám cùng huynh ấy so chiêu! Ngươi muốn huynh ấy lại gãy xương
lần nữa chắc?! Ta phí bao nhiêu công sức mới nối được số xương này,
ngươi làm thế lỡ nó trật nữa thì sao! Mạc Thanh Cốc cao hơn Lộ Dao một
cái đầu bị mắng đến nỗi không dám ngẩng đầu lên, Du Đại Nham lại nói nhỏ nhỏ: “Là ta nhất thời ngứa tay mới kêu thất đệ đánh với ta vài chiêu.”
Lộ Dao nghe xong, quay ngoắt người, mặt mày hung ác trừng Du Đại Nham,
mắng, huynh mới vừa khá lên một chút làm loạn cái gì! Cái gì kêu là phát triển tuần tự cái gì gọi là gân cốt bị thương dưỡng đủ trăm ngày huynh
có biết hay không? Huynh bị thương lần nữa thì mức độ khó trị lại càng
tăng! Còn để ta nhìn thấy huynh ẩu tả lần nữa thì về giường nằm cho ta,
không đủ trăm ngày không cho phép xuống giường!
Lúc này mọi người mới coi như lĩnh giáo một mặt hung dữ không nể mặt ai trên phương diện
chữa bệnh của Lộ Dao. Trương Tam Phong biết chuyện chỉ mỉm cười, gọi Du
Đại Nham đến, giao cho chàng một bộ quyền pháp đặc biệt dùng để tập thể
dục dưỡng sinh, lại bảo chàng tập cho Lộ Dao xem. Lộ Dao nhìn bộ quyền
pháp đó chòng chọc hết ba lượt, thấy chàng đi đứng chậm rãi, cả người co duỗi thoải mái, cuối cùng gật đầu “Du tam ca nếu luyện mấy cái loại đi
đường phiền phức thì luyện cái này cũng được, nhưng để ta thấy huynh so
chiêu với người khác trước năm mới, huynh tự giác về giường nằm đến đầu
xuân sang năm đi.”
Ngoài chăm sóc Du Đại Nham, Lộ Dao cũng bắt
đầu dạy Mai Hàn Hề một ít y lý căn bản. Mai Hàn Hề chính thức bái làm
môn hạ Võ Đang. Trương Tam Phong xem căn cốt, tư chất đứa bé này tỉ mỉ,
nói đứa nhỏ này thân thể dẻo dai, tính nết cứng cỏi mà hòa nhã, là nhân
tài tập kiếm thuật. Võ công cao nhất trong Võ Đang thất hiệp là Du Liên
Châu, Tống Viễn Kiều cũng sàn sàn trong số còn lại, chỉ là công việc
chưởng môn quá nhiều. Trương Tùng Khê tinh thông quyền cước, chưởng
pháp. Võ công Ân Lê Đình tuy không vượt qua các sư huynh nhưng kiếm pháp lại cao minh nhất trong bảy người, lại chưa thu đồ đệ. Theo ý Trương
Tam Phong, tư chất Mai Hàn Hề vượt trội, có thể làm đệ tử đầu tiên. Thế
là nhóc con bốn năm tuổi này trở thành đại đệ tử của Ân Lê Đình.
Ngày nhận đồ đệ, Tống Viễn Kiều đến mời Lộ Dao cùng đi xem. Lộ Dao cũng tò
mò bèn đi cùng. Chính điện Tử Tiêu cung, Trương Tam Phong ngồi ở ghế chủ vị, sáu đệ tử thân truyền đứng bên cạnh, ba đời đệ tử sắp thành hàng
chỉnh tề theo thứ tự nhập môn đứng hai bên điện. Lộ Dao liếc nhìn thấy
Tống Thanh Thư cũng đứng trong đó. Lúc này Ân Lê Đình dắt tay Mai Hàn
Hề, hai người một lớn một nhỏ cung kính lạy Trương Tam Phong chín lạy,
sau đó Mai Hàn Hề mới làm lễ bái sư ba quỳ chín dập đầu với Ân Lê Đình.
Ân Lê Đình cao giọng tụng môn quy phái Võ Đang một lần, Mai Hàn Hề bái
lạy tỏ ý tuân theo. Môn quy không dài, Lộ Dao cũng nghe không rõ cụ thể
có những gì nhưng dáng vẻ nghiêm túc đâu ra đấy của Ân Lê Đình khiến Lộ
Dao kinh ngạc. Trong ấn tượng của nàng, Ân Lê Đình cử chỉ nho nhã lễ độ, nói năng ôn hòa nhỏ nhẹ, tính tình lịch sự hiền lành, lại thêm hở chút
là đỏ mặt ngượng ngùng, hoàn toàn chưa gặp qua vẻ mặt nghiêm túc thế này của chàng.
Ba ngày sau, Ân Lê Đình tới tìm Lộ Dao, nói Mai Hàn
Hề muốn học một ít y lý thường thức với Lộ Dao, như thế sau khi nàng đi
nó cũng có thể tự mình xem sách y. Ân Lê Đình hỏi Lộ Dao có bằng lòng
dạy hay không, Lộ Dao cười đáp: “Hôm đó vốn là Ân lục ca nói theo ta học y, hôm nay lại thành phái đại đệ tử đến học, cũng coi như thành tâm, có lý nào ta không dạy? Có điều Ân lục ca không sợ ta cướp đồ đệ của huynh sao?”
Cứ như thế, Mai Hàn Hề mỗi ngày luyện võ xong thì đến chỗ
Lộ Dao học y lý đơn giản một canh giờ. Công phu căn bản của Ân Lê Đình
lúc nhỏ là do nhị sư huynh Du Liên Châu dạy dỗ, bây giờ tự mình nhận đệ
tử, đương nhiên phong cách rất gần với Du Liên Châu. Tuy bình thường đối nhân xử thế ôn hòa hay cười nhưng lúc dạy võ lại yêu cầu nghiêm ngặt,
nói năng thận trọng. Lộ Dao đứng bên quan sát, nhất mực nghi ngờ liệu có phải có người mạo nhận Ân Lê Đình hay không. Lúc nhỏ Lộ Dao nổi tiếng
là không thích đi học, lên lớp nói cười quậy phá, hết la lối om sòm lại
nghịch ngợm, thường hay ăn quà vặt trong lớp. Nhờ có thành tích tốt, đa
số thầy cô cũng đành chịu nàng, coi như không thấy. Vì thế Mai Hàn Hề ở
chỗ Lộ Dao được đối đãi cực tốt, điểm tâm trái cây kẹo bánh đủ loại
không thiếu, đều là cực phẩm Thu Linh trang gửi tới, Mai Hàn Hề mới năm
tuổi đương nhiên là thích. Lại thêm Lộ Dao giảng bài rất tùy hứng, hai
người cười nói tán gẫu cả ngày. Mai Hàn Hề rất hiểu chuyện, biết sư phụ
và Lộ Dao tuy người thì nghiêm khắc, người thì tùy tiện nhưng đều rất
tốt với mình, càng thêm nỗ lực.
Nên dạy cái gì, Lộ Dao chần chừ
khá lâu. Theo nàng thấy thì Mai Hàn Hề nên học từ sinh vật học cơ bản
học lên, thậm chí tốt nhất là bắt đầu học từ lý hóa nhưng ngẫm lại những môn này quá đặc biệt, một khi mình đi, nếu nó không hiểu chỗ nào đó
cũng không biết đi hỏi ai. Bèn quyết định để nó bắt đầu học từ sắc thuốc trung y một cách tử tế. Ngày hôm đó, Lộ Dao ở trong phòng tính toán
viết lại một số phương pháp sử dụng và dược tính cơ bản của các vị thuốc thường dùng cho Mai Hàn Hề, vừa quay dây đeo bằng ngọc trên cây bút
than trong tay vừa suy nghĩ, đột nhiên nhìn thấy cây bút lông sói trên
bàn, hứng chí lên, muốn thử viết bằng bút lông. Bèn mài mực, trải giấy
ra, nhấc bút lên viết từng chữ một. Nửa ngày, giơ tờ giấy lên tự mình
thưởng thức một hồi, cảm thấy chữ nào cũng rõ ràng, quả thật không tệ.
Tự khen mình một hồi thì nghe có tiếng gõ cửa, đang định nói cửa không
khóa, quay đầu lại thì thấy Ân Lê Đình đứng ở cửa.
“Ân lục ca, mau vào đi.” Lộ Dao hưng phấn nói, “Này, xem cái này đi.” Nói rồi đưa tờ giấy cho Ân Lê Đình.
Ân Lê Đình ngồi xuống, nhận lấy, liếc qua một cái, thiếu điều rớt tròng
mắt ra. Lộ Dao đứng sau lưng Ân Lê Đình, không thấy được biểu tình của
chàng, vẫn gật gù đắc ý: “Thế nào? Vừa viết xong, không tệ chứ?” Nghe
câu này, Ân Lê Đình có lịch sự mấy đi nữa cũng thiếu chút ngã sấp xuống
bàn. Nửa ngày mới khó nhọc quay đầu lại: “Lộ Dao, chữ này… là muội
viết?”
Lộ Dao vẫn cao hứng gật đầu: “Đương nhiên, vừa viết xong
đấy, ừm, bút còn ở đây nè!” Nói rồi chỉ tay vào cây bút lông nằm kế bên
nghiên mực.
Quả thật Ân Lê Đình không muốn đả kích hứng thú của
Lộ Dao, nhưng nhìn mấy chữ đó thật sự không thể nào nói nổi, bèn cầm bút lên sao lại những chữ Lộ Dao vừa viết lên một tờ giấy mới một cách nắn
nót. Lộ Dao không hiểu ra sao, cầm lấy hai tờ giấy Ân Lê Đình đưa, nhìn
nửa ngày, mặt càng lúc càng khó coi, cuối cùng sa sầm mặt, chân mày nhăn thành chữ xuyên. Cho dù nàng không rành thư pháp thì, đặt hai tờ giấy
cạnh nhau so sánh thế này, lập tức cảm thấy mình quả thật đang báng bổ
bút mực giấy vở gì đó. Lúc trước Lộ Dao toàn dùng bút than để viết, tuy
nét chữ nét bút rất mảnh không giống bình thường nhưng cũng coi như rõ
ràng ngay ngắn. Nhưng chữ viết của Ân Lê Đình lại rất khéo léo, nét chữ
đẹp đẽ, ngòi bút thanh tú mềm mại, cứng cáp lại có ba phần nhanh nhẹn.
So sánh ra, tờ thư pháp Lộ Dao viết chỉ cỡ đứa bé ba tuổi viết nghuệch
ngoạc cho vui. Ân Lê Đình thấy bộ dạng nghiến răng nghiến lợi của Lộ
Dao, vội vàng cầm lấy hai tờ giấy, nhìn chằm chằm tờ của Lộ Dao, bối rối mấy phút mới nói: “Thật ra muội viết… ít nhất cũng nhìn rõ nét chữ…”
Không nói còn đỡ, nói xong Lộ Dao càng cảm thấy mình nên đập đầu chết quách cho rồi.
Ân Lê Đình vội nói: “Thư pháp quan trọng nhất là luyện tập. Lúc trước ta
đã cùng ngũ ca tập viết chữ. Lộ Dao trước đây muội toàn viết bút than,
không quen dùng bút lông mới thế. Nếu chịu khó luyện tập, có lẽ sẽ không đặc biệt… như thế.”
Lộ Dao chớp mắt, bán tín bán nghi nhìn
chàng: “Ân lục ca chuyên môn luyện chữ?” Bụng nghĩ môn hạ Võ Đang dạy dỗ cũng toàn năng thật, nàng còn tưởng là đệ tử trong phái chỉ toàn tâm
học võ thôi chứ.
Ân Lê Đình giải thích: “Binh khí sở trường của
ngũ ca ta là Hổ Đầu câu bằng bạc vụn và Phán Quan bút bằng thép đúc,
giang hồ xưng tụng là Ngân Câu Thiết Hoạch. Lúc đó huynh ấy sợ danh xưng văn nhã đó bị giới văn sĩ chê cười nên luyện thư pháp những năm sáu
năm. Một mình luyện cảm thấy vô vị bèn kéo ta luyện chung.”
Câu
này quả thật an ủi Lộ Dao không ít, số lần nàng viết bút lông có thể đếm bằng một bàn tay, không thể so sánh với Ân Lê Đình đặc biệt học mất năm năm được. Vãn hồi được chút thể diện, Lộ Dao đánh giá chữ Ân Lê Đình
mấy lượt, bèn hỏi chàng cách luyện những chữ này.
“Trước tiên là
luyện cách cầm bút cơ bản, sau đó tập viết theo mẫu, viết mẫu được nhiều rồi thì có thể tự viết, tự viết nhiều sẽ thành một thể thống nhất.”
Lộ Dao cười thầm trong bụng, nghĩ mình không có luyện qua cũng tính thành
một thể rồi. Nhìn nét chữ đẹp đẽ mảnh mai của Ân Lê Đình, lại cân nhắc
bản thân không biết tí gì về thư pháp, trên tinh thần nên tìm kiếm danh
sư, bèn nói: “Bằng không Ân lục ca chỉ ta một chút đi, ta cảm thấy mình
rất thích chữ của huynh.”
Ân Lê Đình thấy Lộ Dao nhìn mình, ý
cười đong đầy trong mắt, tim lập tức đập loạn hai nhịp, đến hơi thở cũng bất ổn. Lộ Dao thấy Ân Lê Đình có vẻ chần chừ, phỏng đoán chàng cảm
thấy nhận mình làm học trò quả thật không có tiền đồ nên mới do dự. Thật ra lúc này Ân Lê Đình đang âm thầm vận nội công ổn định lại trái tim
đập loạn của mình, cố gắng không để bản thân đỏ mặt. Lộ Dao bẽ mặt xua
tay, nói: “Được rồi, được rồi, sau này ta vẫn nên dùng bút than thôi…”
Nói chưa xong liền nghe Ân Lê Đình thì thầm: “Được.”
Lộ Dao hơi sửng sốt nhướng mày nhìn chàng, chưa kịp nói, Ân Lê Đình lại bổ sung một câu: “Ta nói là, được.”
Thực tế chứng minh, khả năng trời cho của Lộ Dao trên phương diện y học và
thư pháp hoàn toàn trái ngược. Nếu nàng cầm bút linh hoạt bằng một nửa
như lúc cầm dao thì cũng không đến nỗi viết chữ mà khổ sở như có thâm
thù đại hận thế. Lúc Lộ Dao đối mặt với bệnh nhân, tình cảnh máu me đầm
đìa như thế, dao kim trong tay từ đầu chí cuối vẫn vững vàng nhanh nhẹn
khéo léo nhưng đối mặt với một tờ giấy trắng, một cây bút lông, Lộ Dao
cầm bút thiếu điều bẻ đôi cây bút đáng thương.
Ân Lê Đình ngồi
cạnh nhìn bàn tay cầm bút cứng ngắc của Lộ Dao, vài lần chỉ nàng phải
thả lỏng ngón tay thế nào, dùng sức cổ tay ra sao nhưng Lộ Dao thường
xuyên viết một lúc là bắt đầu tàn hại cây bút trong tay. Ân Lê Đình nhìn ngón tay trắng bóc của nàng, kêu chàng sờ vào để điều chỉnh tư thế cầm
bút cho đúng, chàng tuyệt đối không dám. Đành dùng một cây bút khác, đặt kế bên tay phải Lộ Dao, muốn Lộ Dao khi viết thì so sánh tư thế của
mình với chàng.
Vì thế, khi Du Liên Châu và Trương Tùng Khê cùng
tới, từ đằng xa còn chưa vào trong sân đã thấy hai người Lộ Dao, Ân Lê
Đình cùng ngồi trước án thư, hai cái đầu dựa sát vào nhau, hai cánh tay
cơ hồ chồng lên nhau, thỉnh thoảng lại thì thầm, xen lần với tiếng cười
khẽ của Lộ Dao. Hai người Du Trương lập tức ngừng bước, ánh mắt Trương
Tùng Khê thoáng ý cười, vội vàng kéo Du Liên Châu rón ra rón rén quay
lại đường cũ. Du Liên Châu thấy màn vừa rồi cũng rất sửng sốt, hai người đi thật xa Du Liên Châu mới mở miệng: “Lục đệ và Lộ cô nương…?”
Trương Tùng Khê biết sư huynh muốn hỏi gì, bèn gật đầu cười: “Nhị ca, luận võ
nghệ huynh đứng hạng nhất trong các sư huynh đệ nhưng chuyện nhi nữ tình trường thì lại ngoài nghề rồi.”
Du Liên Châu say mê học võ nửa
đời, chuyên tâm luyện công phu Võ Đang, gần bốn mươi nhưng vẫn không vợ
không con. Thật ra các sư huynh đệ bọn họ, Tống Viễn Kiều và ông đều tới tuổi tứ tuần, Du Đại Nham và Trương Tùng Khê đang tuổi tam thập nhi
lập, bốn người đã sớm qua tuổi thành thân rồi. Trừ Tống Viễn Kiều cưới
Phạm thị được chỉ phúc vi hôn từ nhỏ ra, ba người còn lại đều chưa thành thân. Tuy Võ Đang thất hiệp không phải đạo sĩ xuất gia nhưng chuyện nam nữ ái tình lại gần như chưa thể nghiệm qua bao giờ, vì thế Du Liên Châu ngơ ngác nửa ngày mới phản ứng lại, trầm tư hồi lâu, câu đầu tiên hỏi
ra là: “Sư phụ có biết không?”
“Chuyện của huynh đệ chúng ta, có
chuyện nào qua mắt được sư phụ đâu? Sư phụ dặn dò lục đệ vài lần, muốn
đệ ấy săn sóc cuộc sống của Lộ cô nương trên núi, xem ra là muốn hai
người có nhiều cơ hội ở chung.”
Du Liên Châu trầm ngâm một lát
nói: “Lộ cô nương y thuật siêu quần, nhân từ tốt bụng, lại có ơn với Võ
Đang, lục đệ và nàng cũng coi như xứng đôi.”
“Y thuật y đức của
Lộ cô nương trái lại xếp sau, hiếm thấy là tính tình kiên quyết lại có
chủ kiến, hơn nữa ánh mắt độc đáo, cái này mới là hiếm có nhất. Đệ chỉ
sợ nàng vô tình với lục đệ.” Trương Tùng Khê khẽ than.
“Hả? Sao
nói thế? Ta từng chứng kiến hai người ở chung hài hòa thế nào vô số lần, lúc đó không nghĩ gì nhiều, hôm nay ngẫm kỹ hai người đúng là xứng
đôi.”
Trương Tùng Khê lắc đầu, kể lại chuyện ngày đó chàng và Du
Đại Nham ở lưng chừng núi nhìn thấy tình huống Ân Lê Đình và Lộ Dao hái
thuốc, sau đó nói: “Tính Lộ cô nương phóng khoáng ngay thẳng, hình như
không để ý mấy chuyện cách biệt nam nữ, hoàn toàn chưa từng nghĩ đến
chuyện tránh hiềm nghi. Nữ nhân nếu có ý với nam tử, ít nhiều gì cũng sẽ lộ ra tư thái tiểu nữ nhi, nào có phóng khoáng vô tư như Lộ cô nương?
Huống chi đệ từng nghe lục đệ nói, Lộ cô nương chí ở bốn phương, nguyện
đi khắp thiên hạ hành y cứu đời. Chí nguyện to lớn không thua gì nam
nhân, sợ là không chú trọng tình cảm nam nữ.”
“Vậy ý lục đệ thế nào?” Du Liên Châu nhíu mày, sư đệ nhà mình ông tự nhiên biết rõ.
Trương Tùng Khê cười than thở: “Bản tính lục đệ hay thẹn thùng, mỗi lần thấy
Lộ cô nương, hở ra là đỏ mặt xấu hổ, mấy ngày trước thậm chí còn trốn
không dám gặp nàng. Theo đệ thấy đệ ấy hết sức chung tình với Lộ cô
nương, nhưng đừng nói là đề cập với nàng, chỉ nghĩ trong đầu thôi đã
không dám rồi. Hai ngày nay Hàn Hề ở trong phòng Lộ cô nương học y
thuật, lục đệ liền đi tới đi lui ở cửa sân. Có lần đệ thấy đệ ấy đang đi vòng vòng, mặt đỏ như gấc, thấy đệ còn không dám ngẩng đầu lên, lại còn dùng Truy Nguyệt Bộ chạy trốn nữa. Lần đầu tiên đệ thấy lục đệ sử dụng
khinh công đủ mười thành công lực.”
“Lục đệ này.” Du Liên Châu dở khóc dở cười.
“Cứ để hai người từ từ cọ xát đi.” Đệ đệ dịu dàng e thẹn không biết bày tỏ
nhà mình lại thích một cô nương phóng khoáng vô tư không rành tình cảm
như thế, Trương Tùng Khê nhủ thầm Nguyệt lão xe sợi tơ hồng này thật sự
quá tuyệt.