“Niall, đêm qua em đã mơ về chàng lần nữa. Nhưng chỉ lần này, chàng không chiến đấu cũng không truy hoan, chỉ ngồi lặng lẽ trước ngọn lửa, lau thanh gươm của chàng. Trông chàng – không buồn bã, nhưng chán nản, như thể chàng mang một gánh nặng sẽ làm hầu hết đàn ông suy sụp. Chàng đang nghĩ gì? Điều gì khiến chàng cô đơn đến thế? Chàng có nghĩ về những Hiệp sĩ thánh chiến, tất cả những người bạn đã chết, hay còn điều gì khác khiến chàng cứng rắn đến thế? Chàng có hối tiếc vì đã làm tên phiến loạn, trong khi anh trai chàng làm vua không?”
Grace nhấc tay khỏi bàn phím, bực bội vì những gì nàng vừa gõ. Mơ về chàng là một chuyện, viết cho chàng lại là chuyện khác. Thật đáng lo ngại, cái cách nàng cảm thấy như thể nàng đang thực sự giao tiếp với chàng, như thể chàng đọc được những dòng này và trả lời. Nàng biết sự căng thẳng liên tục trong tám tháng qua đã tác động lên nàng, nhưng nàng hi vọng nàng không hoàn toàn suy sụp.
Nàng đã cố viết lại nhật kí điện tử của mình, nhưng vì lý do gì đó não bộ nàng từ chối tập trung vào những chi tiết hàng ngày như nàng từng ghi lại trước đây. Đầu tiên là vì nàng không có thời gian biểu hàng ngày, và không có thời gian biểu thì chẳng có gì là khác thường cả. Nàng sẽ nhìn chằm chằm vào màn hình trống trơn, ngón tay giữ trên bàn phím, nhưng rút cuộc chẳng có lời bình luận nào để nói về ngày đó. Nàng không có cuộc hẹn nào phải giữ, không có thông tin nào để chia sẻ, không có ai để chia sẻ cùng trong mọi trường hợp. Nàng sống ngày qua ngày trong lặng lẽ và tê liệt, chỉ sống bằng lòng thù hận Parrish và những khi nàng dịch tập tài liệu.
Nhưng bất kể Niall viển vông đến mức nào, chàng còn sống động hơn bất kì điều gì trong cuộc đời u ám của nàng. Dường như chàng là thật, như thể chàng chỉ ở bên kia cánh cửa, không nhìn thấy được nhưng chắc chắn là có ở đó. Huyền thoại về chàng, lịch sử của chàng là mảng màu sắc duy nhất của nàng. Qua chàng, nàng vẫn còn sống, vẫn còn cảm thấy sinh khí và đam mê. Nàng có thể nói chuyện với chàng theo cách không bao giờ nói được với bất kì sinh vật sống nào khác. Sự cách biệt giữa quá khứ và hiện tại quá sâu, quá rộng; có quá ít phần còn lại của người phụ nữ e lệ, sách vở, hơi ngây thơ là nàng trước đây. Về mặt nào đó, nàng cũng không thực như chính Niall vậy.
Nàng cảm thấy nỗi cô đơn thấm tới tận xương tuỷ. Không phải nỗi cô đơn; nàng không khao khát người đồng hành, không cần một đôi tai chia sẻ, không cần những cuộc nói chuyện hay tán dóc hay cười đùa. Nàng cô đơn theo một cách trước đây nàng chưa từng tưởng tượng được, đơn độc như thể nàng là một nhà du hành vũ trụ đã bị lạc khỏi con tàu mẹ, trôi nổi vô định trong khoảng không bao la vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Nàng đã tìm được một thoáng tình bạn với Harmony Johnson, nhưng ở lại đó quá nguy hiểm cho Harmony, và trong suốt sáu tháng nàng trở lại Minneapolis nàng không thực sự nói chuyện với bất kì ai. Nàng tỉnh dậy một mình, làm việc trong sự đơn độc về mặt tinh thần nếu không phải là thể xác, và nàng đi ngủ một mình. Một mình. Thật là một từ tiêu điều, trống rỗng.
Trong giấc mơ của nàng, Niall cũng một mình. Cô đơn ở trong lòng, giống như nàng. Chàng có thể ở giữa mọi người nhưng vẫn cô đơn, bởi vì có cái gì đó không thể chạm tới nơi chàng; cái gì đó mà không ai biết được là có tồn tại. Ánh sáng vàng của ngọn lửa phác thảo những đường nét cứng rắn, rõ ràng của mặt chàng, phủ bóng lên đôi mắt sâu và hai gò má cao. Những cử động của chàng không phát ra tiếng khi chàng cẩn thận lau và sửa vũ khí, những ngón tay dài di theo lưỡi gươm và tìm những chỗ mẻ làm giảm hiệu quả của nó. Chàng mang dáng vẻ mải mê, điêu luyện và xa cách.
Một lần chàng ngẩng đầu lên và ngồi rất yên, như thể lắng nghe cái gì hay ai đó không hiện hữu trong giấc mơ. Mái tóc đen chảy xuống bờ vai rộng, đôi mắt đen nheo lại, chàng là hình ảnh của một con thú cảnh giác, đề phòng và cẩn trọng. Không có mối nguy hiểm nào xuất hiện và dần dần chàng thả lỏng, nhưng nàng có ấn tượng rằng người đàn ông này không khi nào thực sự hạ thấp sự cảnh giác của mình. Chàng là Người bảo vệ.
Nàng đã muốn chạm vào vai chàng, và ngồi lặng lẽ bên cạnh chàng bên đống lửa trong khi chàng chăm sóc những dụng cụ chiến tranh của mình, dành cho chàng sự an ủi từ hơi ấm và sự hiện diện của nàng để chàng biết cuối cùng chàng không cô đơn – và có lẽ, trong khi làm thế, nàng cũng sẽ tìm được niềm an ủi và tình bạn. Nhưng trong giấc mơ này nàng bị khoá vào vị trí người quan sát, không thể tới gần hơn, và cuối cùng nàng tỉnh dậy mà không thể chạm vào chàng.
“Nếu em ở đó với chàng…” Giật mình, nàng nhìn chằm chằm vào những gì nàng vừa gõ. Những câu chữ tuôn ra không hề định trước; ngón tay nàng đơn giản tự di chuyển trên bàn phím và chúng hiện ra. Đột nhiên thấy sợ, nàng đóng tệp tin và nhật kí lại. Hai bàn tay nàng run run. Nàng phải ngừng nghĩ về Niall như thể chàng còn sống. Sự gắn kết với chàng quá sống động, quá mạnh. Đầu tiên tập trung vào chàng có vẻ như là việc nên làm, một cách để giữ cho đầu óc nàng tỉnh táo, nhưng lỡ như nó phản tác dụng và nàng đánh mất mình trong ảo tưởng thì sao? Sau khi đọc những dòng nhật kí của nàng, bất kì nhà tâm thần học nào cũng nghĩ nàng đã mất liên lạc với thực tế.
Nhưng thực tế là nhìn thấy chồng và anh trai nàng bị giết, là ngồi xổm trong cơn mưa lạnh, quá sợ hãi không thể sang đường, là bị đói và rét, là ngủ trong nhà kho và đánh nhau với kẻ cướp. Thực tế là chết cứng vì kinh hoàng trước giọng nói của Parrish. Nàng còn lại gì ngoại trừ lối thoát tìm thấy trong những giấc mơ?
Nàng nhìn vào chồng tài liệu, vào từng trang từng trang bản thảo của nàng. “Mình có công việc,” nàng lẩm bẩm, và âm thanh giọng nói của chính nàng bình thường một cách vững tâm. Nàng có thể cảm thấy như mình sắp bị xẻ ra làm hai, nhưng nàng vẫn còn có công việc. Nó đã cứu vớt nàng trong tám tháng qua và sẽ tiếp tục cứu nàng trong vài ngày tới, mặc dù cái đám Xen-tơ mắc dịch gần như đã hạ gục nàng.
Chỉ một hoặc hai tuần làm việc nữa, và rồi câu chuyện về các Hiệp sĩ thánh chiến và Người bảo vệ, Niall Đen sẽ chấm dứt. Khi nàng không còn dành hàng giờ vật lộn với bản dịch mỗi đêm trước khi đi ngủ, những giấc mơ về chàng sẽ chấm dứt.
Sự cô độc không ngờ vây lấy nàng trước ý nghĩ ấy. Không có Niall, nguồn ánh sáng khiến nàng thấy mình đang sống, cho dù chỉ là trong mơ, sẽ bị dập tắt. Sẽ không còn bản dịch nào, bởi vì nàng quá nổi tiếng trong lĩnh vực của mình để kiếm được một công việc với một tổ chức khảo cổ học khác, cho dù là dưới cái tên giả. Sẽ không còn tấm tranh ghép khó hiểu nào, điều đó không có nghĩa là có bất kì công việc nào nàng từng làm thu hút nàng nhiều bằng Niall và các Hiệp sĩ thánh chiến.
Nàng sẽ chẳng còn gì ngoài báo thù. Nhu cầu báo thù đốt cháy lòng nàng, nhưng nàng cảm nhận được sau thù hận sẽ chẳng có gì ngoài sự trống rỗng vô tận, xám xịt, đó là nếu nàng còn sống. Nàng sẽ phải chạy trốn suốt phần đời còn lại, mất danh tính, không có gì để trông mong, và không bao giờ biết đến niềm vui có con với Ford và cùng già đi với anh, ôm ấp cháu chắt, có lẽ cuối cùng cũng thấy Bryant ngừng kháng cự với tình yêu và kết hôn.
Phát điên còn tốt hơn. Nàng kéo tập tài liệu tiếng Xen-tơ lại gần, mở từ điển Xen-tơ/Anh ngữ ra và cầm bút lên.
Như mọi khi, nàng gần như ngay lập tức ngụp lặn trong điều kì diệu của tập tài liệu, cảm giác như đang đọc cái gì đó cực kì hấp dẫn và quan trọng.
“Loài người không được biết về Quyền năng thực sự,” vài phút sau nàng đọc. “Chiếc Cốc và Tấm vải sẽ che mắt họ trước mặt trời, Ngai vàng và Quân Kỳ bị chối bỏ, nhưng Quyền năng thực sự sẽ được Người bảo vệ dùng trong tên của Đức Chúa Trời, để vượt qua Tấm màn Thời gian và bảo vệ Kho báu khỏi Quỷ dữ.
“Không gì ngoài Kho báu có thể đánh bại Quỷ dữ, và không ai ngoài Người bảo vệ có thể sử dụng Quyền năng.”
Đọc giống như một đoạn trong Kinh Thánh, nhưng nàng chắc chắn không có gì như thế này từng ở trong Kinh Thánh. Chiếc Cốc… có thể liên quan tới Cốc Thánh, và Tấm Vải rất có thể là tấm vải liệm thân thể Chúa Jesus sau khi bị hành hình. Tấm Vải Liệm thành Turin được cho là tấm vải liệm của Chúa, nhưng bao quanh nó còn nhiều cuộc tranh cãi; có những tham chiếu về sự tồn tại của nó từ rất lâu trước thế kỉ mười bốn, khoảng thời gian phương pháp các-bon[34] được đặt nền móng. Tất nhiên, những tham chiếu trước đó có thể là về một tấm vải liệm khác, có lẽ là tấm vải thực sự… nhưng việc đó không thể nào giải thích được làm sao một kẻ giả mạo ở thế kỉ mười bốn có thể tạo ra tấm vải mang hình dáng không thể chối cãi của một người bị đóng đinh lên thập tự giá, năm thế kỉ trước khi phát minh ra thuật nhiếp ảnh.
“Chiếc Cốc và Tấm Vải sẽ che mắt họ trước mặt trời,” nàng đọc lại lần nữa. Nếu Cốc Thánh vẫn còn tồn tại thì nó chưa từng được tìm thấy. Nhưng có lẽ những tranh cãi về giá trị của tấm vải liệm quả thực đã che mắt mọi người khỏi bản chất thực sự của đức tin; họ quá mải mê đưa ra ý kiến và phản bác đến nỗi cuộc tranh cãi trở thành tâm điểm và họ không thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh.
Chắc chắn các Hiệp sĩ thánh chiến có liên quan tới tấm vải. Họ đã chiến đấu với người Moor[35] và chiếm đóng Jerusalem cho Đội quân Thập tự một thời gian, và chính họ đã chiếm được Đền Thánh[36] còn lâu hơn thế. Trong suốt cuộc chiếm đóng, họ đã quyết tâm đào xới càng nhiều phần của Đền Thánh càng tốt, có lẽ để tìm mọi cổ vật của thời kì đầu Đền Thánh, tới nơi khởi thủy của đạo Do Thái. Thực ra họ đã tìm được những kho báu nào…. Kho báu nào?
Một trong những cáo buộc chống lại các Hiệp sĩ thánh chiến là họ thờ phụng tà thần, vì trong mỗi nhà nguyện các Hiệp sĩ xây dựng sau khi chiếm được Đền Thánh đều có một khuôn mặt đàn ông, một khuôn mặt cứng rắn, khoẻ mạnh mà nhiều thế kỉ sau đã hiện ra trong Tấm vải liệm thành Turin.
Từ đó cho thấy họ đã khai quật tấm vải; cũng có nghĩa là vị trí trong Đền Thánh đã nói lên giá trị của nó. Nhưng họ còn tìm thấy gì nữa? Chiếc “Cốc” và “Tấm Vải” đã được nêu tên, cũng như “Ngai vàng” và “Quân kì,” nhưng còn “Quyền năng thực sự” là một thứ khác, một thứ chưa từng được mô tả.
“Người bảo vệ sẽ bảo vệ thế giới chống lại Tổ chức của Quỷ.”
Grace thở dài trước một câu tối nghĩa nữa. Tổ chức của Quỷ rõ ràng là nói về Quỷ Satan, nhưng tại sao tác giả không nói thẳng ra thế? Rõ ràng cả những người ghi chép thời trung cổ cũng mắc chứng bệnh dài dòng văn tự.
Chỉ từ Tổ chức cũng cũng khiến nàng nghĩ về những ngày tươi đẹp, với Ford và Bryant khéo léo và hạnh phúc sàng từng lớp đất đá trong những cái sàng, tìm kiếm từ mảnh bé nhất của một bình gốm; hay ngồi trên mặt đất quét chiếc chổi nhỏ trên một khúc xương bị vùi một nửa. Ba người họ đều yêu thích công việc, và Tổ chức Amaranthine Potere là một trong số rất ít nơi trên thế giới thuê một nhà khảo cổ học trọn đời. Với nguồn tài chính độc lập, Tổ chức không tập trung vào những cuộc khai quật đặc biệt quan trọng, mà vào các cuộc khai quật nhỏ hơn cung cấp các thông tin thay vì những sự kiện kịch tính. Bryant đã từng nói rằng có vẻ như Tổ chức quyết tâm không để lại một xăng ti mét đất nào trên thế giới này chưa bị sàng lọc.
Grace cứng người, đồng tử co lại vì sốc. Potere… Quyền năng. Tổ chức Amarathine Potere, Tổ chức Quyền năng Vô tận.
Tại sao trước đó nàng không hề nhận ra mối liên hệ? Ngôn ngữ và dịch thuật là lĩnh vực chuyên môn của nàng. Đáng lẽ nàng phải thấy, phải nhận ra.
Đó là một khả năng, một khả năng thực sự. Thật là kì cục. Một tổ chức to lớn chỉ để khai quật Kho báu của Dòng Đền Thánh? Số tiền bỏ ra chắc chắn vượt xa giá trị của bất cứ chỗ vàng nào tìm được.
“Giá trị của Kho báu vượt xa cả vàng,” nàng thì thầm. Vậy là không phải tiền; tài liệu đã nói rõ ràng. Quyền năng. Các Hiệp sĩ thánh chiến sở hữu một thứ quyền năng kì bí, đã dâng hiến đời họ để bảo vệ nó.
Nàng đứng dậy và đi lại, nhẩm trong óc con đường vượt qua mớ bòng bong này. Có thể nào Tổ chức tồn tại chỉ để ngăn người ta biết về Quyền năng, bất kể nó là gì? Có thể nào Parrish, vì lý do méo mó nào đó, nghĩ rằng hắn phải giết tất cả những ai biết về tài liệu hòng giữ Quyền năng đó trong vòng bí mật? Có phải hắn đang đóng vai trò Người bảo vệ không?
Không, nàng có thể lái cả một chiếc xe tải qua các lỗ hổng trong giả thuyết đó. Vì thứ nhất, Tổ chức chẳng có gì mà bảo vệ cả. Tập tài liệu đã biến mất vài thế kỉ trước và ai đó biết bất kì điều gì về khảo cổ học cũng có lý do để trông chờ chúng không còn tồn tại. Giấy bị mục nát rất nhanh; đó là lý do tại sao còn rất ít tài liệu gốc tồn tại từ hai thế kỉ trước, huống hồ chi gần bảy thế kỉ.
Không, quên chuyện quyền năng kì bí đi, quên cuộc chiến đấu giữa thiện và ác đi. Nàng đã mệt, và sự kiệt sức đang che mờ trí óc. Động cơ nhiều khả năng nhất là tiền, thuần tuý và đơn giản. Chắc hẳn Parrish có lý do để tin rằng Kho báu của các Hiệp sĩ thánh chiến lớn vượt sức tưởng tượng, và với tư cách là Giám đốc Tổ chức hắn có thể tiêu tốn bất kể khoản tiền nào hắn muốn trong nỗ lực tìm kiếm nó. Chắc hắn đã tìm ra cách nào đó để bòn rút số vàng cho chính hắn. Tổ chức có thể chỉ đúng như vẻ bề ngoài, một tổ chức khảo cổ học, mà không có bất kì một động cơ độc địa nào đằng sau sự tồn tại của nó. Parrish là kẻ xấu, chứ không phải bản thân Tổ chức.
Nhưng Tổ chức được thành lập năm 1802, và được đặt tên là “Quyền năng Vô tận,” từ rất lâu trước khi Parrish sinh ra trên đời này.
Trong suốt những thập kỉ qua guồn tài chính tới từ đâu? Ai là người đã thành lập nên Amarathine Potere? Giờ nó duy trì hoạt động bằng cách nào? Theo chỗ nàng biết, không hề có một hoạt động quyên tiền nào.
Nàng đã biết rằng Tổ chức có một hệ thống máy tính rất phức tạp, phức tạp hơn mức nàng trông đợi ở một tổ chức khảo cổ học rất nhiều; rút cuộc tại sao danh sách các nhà tài trợ, giả sử như có một thứ như thế, lại là bí mật và riêng tư? Tổ chức được cho là phi lợi nhuận; giả sử các khoản quyên góp là để giảm thuế thì bất kì một danh sách đóng góp nào cũng sẽ phải được công khai.
Nếu nàng có thể vào được trong hệ thống của nó thì sẽ rất tuyệt, chỉ để xem nàng có thể tìm được gì.
Làm như vậy đòi hỏi những kĩ năng của hacker, và nàng không giỏi đến thế.
Kristian Sieber rất giỏi. Ngay khi ý tưởng ấy xuất hiện nàng gạt bỏ nó. Không chỉ rất mạo hiểm khi để bất kì ai biết nàng đang ở đâu, mà còn nguy hiểm cho Kristian khi lại kéo cậu ta vào chuyện này.
Dù thế thì nàng có thể biết được gì nào? Một danh sách nhà tài trợ, chỉ có thế. Nó chẳng giúp được nàng. Sẽ rất tuyệt nếu nàng biết được thời gian biểu của Parrish…
Nàng cắn môi. Không. Nàng sẽ không gọi cho Kris. Grace ngồi xuống và buộc mình trở về với tập tài liệu. Sau một lúc, nàng lại mải mê như cũ.
Luôn luôn tới một thời điểm, trong khi nàng đang học một loại ngôn ngữ, có vẻ như đột ngột đầu óc của nàng “hiểu” được nó. Nàng có thể phải vật lộn với cú pháp và động từ hàng tháng trời, rồi những kiến thức chất đống và sự tương đồng dồn tới cực điểm, các điểm ăn khớp sẽ nối lại và úm ba la[37]! Từ giây trước tới giây sau nàng sẽ đi từ chỗ vật lộn tới chỗ đọc trôi chảy, ngôn ngữ mở ra cho nàng như thể các chữ cái tự sắp xếp từ đống lộn xộn thành những từ có nghĩa.
Ba phút sau khi nàng ngồi xuống, các điểm ăn khớp của ngôn ngữ cổ tự liên kết.
“Người bảo vệ nắm giữ Kiến thức để hạ bệ Nhà Thờ Lớn, và chàng Sẽ giữ nó Phong kín, vì Quyền năng của Chúa chúng ta To lớn hơn ý nghĩ của Con người, và vì thế chàng Sẽ phục vụ Chúa chúng ta suốt cả cuộc đời.
“Tới lúc chàng Phải Du hành vượt Thời gian, cơ thể chàng phải được Chuẩn bị bằng thức ăn và đồ uống, và Năm tháng không còn là gì với chàng. Cho dù là Một ngàn năm, đồng ý, chàng vẫn Sẽ đi tới để Chiến đấu với Tổ chức của Quỷ, vì chỉ có chàng vận hành được Quyền năng.”
Du hành vượt thời gian? Grace chớp mắt trước cụm từ đó. Người bảo vệ được coi là gì, một người du hành vượt thời gian ư? Nàng không nhận ra điều ngớ ngẩn ấy lại tồn tại lâu như thế. Các học giả thời Trung cổ thậm chí còn không hiểu được khái niệm trái đất tròn; họ vẫn còn tưởng tượng ra rồng ẩn núp trong các miệng vực, chờ chực để ngấu nghiến ai đó đủ ngu ngốc để trượt ngã.
Nhưng rõ ràng các Hiệp sĩ thánh chiến không chỉ tin vào đó, họ còn phát minh ra một công thức ăn kiêng đặc biệt để chuẩn bị cơ thể cho chuyến đi. Thực đơn cho Thời gian còn có thể là gì khác được?
Tò mò, nàng kéo mảnh giấy nàng đã dịch thực đơn ăn kiêng ra. Nhìn thoáng qua, hay trong lần thứ hai hoặc thứ ba, chẳng có bất kì điều gì kì diệu ở đó. Đầu tiên một người phải tính toán chính xác trọng lượng của họ bằng cách ngồi vào một thùng nước; thật là thông thái, dùng lượng nước trào ra để tính toán. Rồi, tuỳ theo trọng lượng đó, có một công thức để tính lượng muối, gan bê, và nhiều loại thức ăn khác mà người đó phải ăn, và lượng nước chính xác phải uống.
Nàng để ý thấy đó là một thực đơn giàu na-tri, sắt, và các dư khoáng. Không tồi, trừ phần gan; nó sẽ làm tăng độ cholesterol của người du hành thời gian đến mức chóng mặt.
Nàng lăm lăm tờ giấy đó trong tay, và trở về với những tài liệu tiếng Xen-tơ.
“Cơ thể chàng khi đó được chuẩn bị bằng cách mài Thép vào Đá để tìm Tia Chớp sẽ Mang chàng tới Thời điểm Lựa chọn.”
Grace gần như bị sặc. “Những gã ngốc nghếch này định làm gì thế?” nàng bật ra, nhìn chằm chằm vào trang giấy. “Tự chích điện chính mình?” Họ đã cố ý làm ngập cơ thể mình với sắt và nước, rồi tạo nên một kiểu nguồn điện nào đó. Ai đã là chuột bạch cho cuộc thử nghiệm này, và có ai sống sót được không?
Phần còn lại của trang giấy là các công thức toán học. Rõ ràng, họ đã nghĩ sẽ kiểm soát được số năm du hành bằng khối lượng nước họ uống và lượng điện phát ra. Một khái niệm thú vị, nhưng họ thì biết gì về điện, chưa nói đến kiểm soát nó?
Nàng giở sang trang, và máu nàng đông cứng. “Và Quỷ sứ sẽ mang cái tên Parrish.”
“Ôi lạy Chúa,” nàng thì thầm.
*
“Kris, chị Grace đây.”
Có một khoảng lặng ở đầu dây bên kia, rồi cậu ta vỡ oà, “Chị Grace!”
“Suỵt,” nàng cảnh cáo. Nàng lo lắng vặn vẹo sợi dây thép trên máy điện thoại công cộng, tự hỏi một lần nữa liệu nàng có quyền gì mà lôi kéo Kris vào đống lộn xộn này. Nàng đã thức gần trọn đêm, đọc đi đọc lại tập tài liệu, cố dùng lý lẽ thông thường để phân tích tình huống, nhưng cuối cùng chỉ đi tới một kết luận là những sự kiện phi thường đòi hỏi những hành động phi thường. Không có gì trong cuộc đời tám tháng qua của nàng là bình thường cả. Có thể nàng sẽ tìm thấy gì đó trong hệ thống máy tính của Tổ chức, có thể không, nhưng nàng không thể bỏ mặc bất kì một con đường nào không khám phá.
“Ổn mà. Bố mẹ em đi Florida rồi. Chị ở đâu? Chị ổn không?”
“Chị ổn,” nàng tự động nói. Ổn là một khái niệm tương đối. Nàng không chết, không bị thương, không bị đói. Về mặt thể chất, có vẻ như nàng ổn; mặt tinh thần lại là một câu chuyện khác. “Em có bất kì rắc rối gì sau lần nói chuyện trước với chị không? Parrish hay người của hắn có tra hỏi em không?”
“Có thể. Em không biết,” cậu ta nói. “Ngày hôm đó có một thanh tra tới nhà em, nhưng ông ta không phải người em đã nói chuyện trước đó. Ông ta chìa thẻ cho em xem, chị biết đấy, nhưng làm sao em biết thẻ thật thì nhìn như thế nào? Ông ta hỏi em một đống câu hỏi mà em đã trả lời rồi, và em bám vào câu chuyện. Em làm việc với cái modem của chị, chỉ cho chị chương trình em đang làm, chị trả tiền cho em và bỏ đi. Đó là tất cả. Chị không hề nhắc gì tới công việc của chị cả.”
Nàng thở ra một hơi nhẹ nhõm. “Viên thám tử” có thể là thật, và cũng có thể là một trong những người của Parrish tới kiểm tra câu chuyện của Kris. Kristian đã gạt đi những ngờ vực, được bảo vệ bởi vẻ ngoài mọt máy tính của cậu ta. Không ai từng gặp cậu ta mà lại nghĩ cậu dính líu tới bất kì cái gì ngoài byte và các chương trình máy tính.
“Chị đang ở đâu?” cậu ta hỏi lại.
“Sẽ an toàn hơn cho em nếu em không biết.”
“Vâng, vậy sao nào?” Nghe giọng cậu ta già hơn trước, chững chạc hơn và chắc chắn hơn.
“Em biết chị không làm việc đó, nên nếu chị cần giúp đỡ, tất cả những gì chị phải làm là hỏi.”
Sự trung tín bất dịch bất dịch của cậu ta đánh vào nàng mạnh tới nỗi mất một lúc nàng mới có thể bật ra khỏi chỗ nghẹn trong cổ họng.
“Em sẽ phạm luật nếu giúp chị.” Nàng cảm thấy buộc phải thông báo cho cậu ta, bởi vì lương tâm của nàng vẫn đang gặm nhấm nàng vì đã gọi…
“Em biết,” cậu ta bình tĩnh nói. “Em đã phạm luật vì không kể với họ mọi điều em biết đêm đó, và em đã phạm luật khi em đột nhập vào hệ thống máy tính của ngân hàng để chị có thể rút tiền ra. Thêm một trọng tội nữa vì bạn bè thì là gì?”
Nàng hít một hơi thật sâu. “Được rồi. Có cách nào em vào được hệ thống máy tính của Tổ chức mà không bị báo động không?”
“Chắc rồi,” cậu ta nói, hoàn toàn tự tin. “Em đã bảo chị rồi, luôn luôn có một cửa sau. Tất cả những gì em phải làm là tìm ra nó. Nhưng nếu nó là một hệ thống kín, em sẽ phải đi tới tận nơi mới vào được. Có vấn đề gì không?”
Grace hít thở sâu, cố nhớ lại những phần của hệ thống máy tính mà nàng từng nhìn thấy những khi tới văn phòng Tổ chức, mà thực ra là không nhiều lắm. “Chị nghĩ đó là một hệ thống kín.”
“Chúng ta sắp thực hiện một cú đột kích ban đêm và thâm nhập phải không?” Cậu ta nghe có vẻ háo hức; Kris là một hacker thực sự, sẵn sàng làm mọi việc để biểu diễn nghệ thuật phi pháp của cậu ta.
“Không.” Harmony chưa cho nàng một lời khuyên nào về chuyện đột nhập vào một toà nhà bảo an chuyên nghiệp mà không bị báo động, nhưng nàng tự cho mình vài điểm trong chuyện trốn ở nơi đồng không mông quạnh. “Chúng ta sẽ đi vào lúc ban ngày, như một công nhân bảo trì. Chị không biết làm sao chúng ta lên được tầng đó mà không bị nhìn thấy, nhưng chúng ta sẽ nghĩ ra cái gì đó.”
“Em đã bảo chị rồi mà,” Kris nói. “Luôn luôn có một cửa sau.”