Đứa Con Của Ban Mai

Chương 1: Chương 1




Tháng Mười hai năm 1307, Pháp

Những bức tường đá của căn hầm bí mật dưới lòng đất lạnh lẽo và ẩm ướt, cái lạnh thấm qua lớp len, vải lanh và da thuộc, xông vào tận trong xương tuỷ. Hai cây đuốc toả khói cung cấp ánh sáng duy nhất trong phòng, nhưng chúng toả ra ít nhiệt đến nỗi chẳng ăn thua gì. Tuy nhiên hai người đàn ông được ánh sáng lập loè soi tỏ chẳng hề để tâm đến cái lạnh, vì sự khó chịu như thế chỉ là một vấn đề nhỏ nhặt.

Người đàn ông đầu tiên đang đứng, người kia quỳ trước mặt ông ta trong một tư thế đáng lẽ sẽ mang vẻ phục tùng, nếu như thái độ đó không quá xa lạ với cái đầu kiêu hãnh và đôi vai rộng kia một cách rõ ràng như thế. Người đàn ông đang đứng trông mong manh hơn nhiều trước sinh lực của người còn lại, và thực tế là đầu của người đàn ông đang quỳ cũng cao tới ngực của người đang đứng. Thực vậy, Valcour yếu ớt hơn nhiều so với thời ngài còn là chiến binh, và so với người đang quỳ trước ngài, nhưng tuổi tác và nỗi thất vọng đã tác động lên ngài. Ngài đã năm mươi mốt tuổi, qua cái tuổi mạnh mẽ về thể chất từ lâu lắm rồi. Râu và tóc ngài bạc nhiều hơn nâu, khuôn mặt gầy nhăn nheo vì những gánh nặng ngài phải mang. Đã tới lúc truyền lại trách nghiệm, nghĩa vụ đã là của ngài trong suốt những năm dài đằng đẵng. Chúng sẽ được an toàn trong vòng tay của con sư tử trẻ và mạnh mẽ này, ngài nghĩ. Trong Hội không còn chiến binh nào tài giỏi hơn, cũng tức là nói trên toàn lãnh thổ của Chúa không còn chiến binh nào giỏi hơn, bởi vì họ là - đã là – một tập đoàn chiến binh, giỏi nhất trong những người giỏi nhất, là lớp kem được gạn lọc từ những trận chiến và đấu trường trên khắp Châu u.

Không còn nữa. Chỉ hai tháng trước, vào Thứ Sáu, ngày Mười ba tháng Mười năm 1307 theo lịch của Chúa, một ngày chắc chắn sẽ được ghi lại trong nhiều năm sau là một ngày đen tối, Vua Philip IV của Pháp và con rối của hắn, Giáo hoàng Clement V, đã nhượng bộ lòng tham của chúng và bằng một cuộc đột kích bất ngờ đã tiêu diệt toàn bộ hội chiến binh hùng mạnh nhất từng tồn tại: Các Hiệp sĩ Thánh chiến. Một vài đạo hữu đã trốn thoát, nhưng những người khác đã chết những cái chết khủng khiếp, và sẽ còn nhiều cái chết nữa khi những người bị bắt từ chối phủ nhận lòng tin của họ.

Đại thủ lĩnh[1] chỉ nhận được những lời cảnh báo muộn màng, và đã chọn dùng những giây phút ít ỏi đó đảm bảo cho sự an toàn của Kho báu thay vì của chính mình. Có lẽ Jacques de Molay đã cảm nhận được thảm hoạ đang đến, vì ông ta đã nói chuyện với Valcour vài lần về việc giữ những hạm đội của họ ở xa tầm tay Philip, nhưng trên hết mối quan tâm của ông ta, cũng như của chiến binh vĩ đại Geoffroy de Charney, là giữ bí mật Kho báu. Sau nhiều giờ cân nhắc Người bảo vệ đã được chọn ra: chiến binh mạnh mẽ và đích thực, Niall của Scotland. Chàng đã được chọn lựa hết sức cẩn trọng, không chỉ vì kĩ năng dùng gươm không có đối thủ của chàng, mà còn vì sự bảo vệ đi cùng với cái tên của chính chàng. Kho báu sẽ được an toàn ở Scotland.

Đại thủ lĩnh không chắc sự lựa chọn của ngài là đúng, thậm chí cả khi đã cân nhắc những mối quan hệ của Niall. Có cái gì đó hoang dã và nhẫn tâm trong con người Scot này, bất chấp lòng trung thành không hề lung lay của chàng với Chúa và với Hội, và bất chấp những lời thề chàng đã thề với cả hai. Đại thủ lĩnh chắc chắn một vài lời thề đã không được đưa ra một cách tự nguyện, đặc biệt là lời thề chay tịnh. Niall đã bị ép phải gia nhập Hội, vì tất nhiên một thầy tu không bao giờ có thể thành vua; một vị vua ít nhất phải có khả năng sinh con, vì các vương quốc được xây dựng nên cha truyền con nối. Việc chàng là con hoang đáng lẽ sẽ là một trở lực không thể vượt qua nổi, nhưng thậm chí từ khi còn rất trẻ Niall đã cao lớn và kiêu hãnh, thông minh, khôn khéo, tàn bạo, có tài lãnh đạo bẩm sinh; nói tóm lại, chàng đã có tất cả những phẩm chất của một vị vua vĩ đại. Các lựa chọn rất đơn giản: hoặc giết chàng, hoặc khiến chàng không thể thành vua. Niall được cả cha và anh trai cùng cha khác mẹ yêu thương, vì thế thực sự chẳng còn lựa chọn nào khác. Chàng trai trẻ buộc phải trở thành tôi đòi của Chúa.

Đó là một cú đòn độc địa. Vì nếu Niall phản lại lời thề của mình với Dòng Đền thánh[2], việc đó cũng sẽ khước từ cơ hội thành vua của chàng, bởi vì chàng là kẻ bất trung. Không, việc đặt Niall dưới sự bảo vệ của Đền thánh đã từng một lần cứu mạng chàng, và giờ đây cũng như mãi mãi sau này sẽ đặt chàng ra khỏi ngai vàng của Scotland – đúng như mục đích của nó.

Nhưng Niall không thích hợp với cuộc sống của một thầy tu bao nhiêu thì chàng lại hoàn hảo với cuộc đời của một chiến binh bấy nhiêu. Chàng đã đem ham muốn nhục dục với thân xác đàn bà của mình biến thành sự mạnh mẽ trên chiến trường, và nếu đôi mắt chàng có đôi khi lưu luyến quá lâu nơi những thứ đã bị cấm ngặt với chàng, thì Đại thủ lĩnh vẫn biết chắc chắn rằng chàng chưa từng phá bỏ lời thề của mình. Chàng là một người đàn ông trọng danh dự.

Điều đó, cùng với khả năng chiến đấu của chàng, chính là thứ cuối cùng đã thuyết phục de Chamay chọn Niall là Người bảo vệ tiếp theo, và mặc dù Đại thủ lĩnh là thủ lĩnh của Hội, de Chamay chắc chắn là Hiệp sĩ tiền bối quyền lực nhất. Hơn nữa, de Chamay đã là người chịu trách nhiệm về sự an toàn của Kho báu suốt nhiều năm liền, và lời nói của ông ta là quyết định cuối cùng. Ông ta đã chọn Niall của Scotland, và Valcour toàn tâm toàn ý ủng hộ. Người Scot này sẽ bảo vệ Kho báu bằng sinh mạng của chàng.

“Mang chúng đi,” lúc này Valcour thì thầm với cái đầu đen đang cúi gằm, cảm nhận được cơn giận đầy cay đắng của người đàn ông trẻ tuổi và biết rằng không có cách nào xoa dịu được nó. “Bất kể chuyện gì xảy ra, không được để Kho báu rơi vào bàn tay nào khác. Hội[3] đã dâng chính mình để bảo vệ Chúa chúng ta và những con chiên của Người, và chúng ta không được nản lòng trước nghĩa vụ của mình.”

Sàn đá lạnh giá cứng ngắc dưới đầu gối Niall, nhưng chàng gần như không để ý. Mái tóc đen dày buộc phải cắt ngắn của chàng ánh lên vì mồ hôi bất chấp cái lạnh của căn hầm dưới mặt đất. Hơi ẩm cuộn lên từ người chàng. Chàng từ từ ngẩng đầu lên, đôi mắt khắc nghiệt, và đen như màn đêm vì sự cay đắng trong đó. “Ngay cả lúc này sao?” chàng hỏi, nỗi đau bị bội phản nằm trong giọng nói trầm, khẽ rào rạo của chàng.

Valcour cười nhẹ. “Đặc biệt là lúc này. Chúng ta phục vụ Chúa, chứ không phải Rome. Ta cho rằng Đức Giáo Hoàng[4] đã quên mất có sự khác biệt này.”

“Khái niệm đó đến với ông ta quá dễ dãi,” Niall gầm lên. “Ông ta không phục vụ Chúa, mà thay vào đó bợ đít Philip mỗi lần hắn giơ mông ra.” Ánh mắt tối đen của chàng lang thang tới chỗ những cổ vật đã được tìm thấy trong Thánh đường ở Jerusalem hơn một thế kỉ trước. Chàng quan sát chúng, và cảm thấy nỗi cay đắng dâng trào. Nhiều người đàn ông tốt đã phải chết thật kinh khủng để bảo vệ những… thứ kia. Đức vua của nước Pháp và Giáo hoàng quyết tâm xé toạc Hội vì những kho báu trần tục hơn của nó, vì vàng bạc châu báu, nhưng vòng bảo vệ của Hội lại tập trung quanh những thứ này chứ không phải chỉ là vàng. Ôi, đã có rất nhiều vàng – Niall đã có chúng. Nhưng mục đích duy nhất của nó chỉ là để cung cấp sự che chở cho Kho báu thực sự, một bộ sưu tập những Vật đáng chán và hùng mạnh này. Một chiếc cốc[5], thô sơ và sứt sẹo. Một tấm vải liệm[6], mang theo những bí mật ẩn dấu trong từng thớ vải của nó. Một chiếc ngai[7], cập kênh và thuộc về ngoại giáo – có phải vậy không? Một quân kỳ[8], dày dặn và đẹp đẽ bất chấp tuổi tác của nó, được cho là mang theo những quyền năng kì lạ trong những thớ vải xơ mòn. Và một văn tự cổ, được viết bằng hỗn hợp ngôn ngữ Hebrew và Hi Lạp, mang theo một bí mật, và một quyền năng vượt xa sự tưởng tượng.

“Con có thể trở lại,” Niall nói, nghĩ về văn tự. Chàng nâng ánh mắt chiến binh không chút vị tha của mình lên gặp ánh mắt Valcour. “Cả Philip và Clement sẽ gục ngã dưới lưỡi gươm của con, và việc này sẽ được xoá bỏ như chưa từng có, và các đạo hữu của chúng ta sẽ sống.”

“Không,” Valcour nói. Khuôn mặt ngài mang cái nhìn u sầu, cao quý của một người đã vượt ra khỏi ranh giới sợ hãi, đau thương. “Chúng ta không được mạo hiểm làm việc gì vì lợi ích của chính ta. Điều bí mật chỉ được dùng để phục vụ ý Chúa mà thôi.”

“Có Chúa Trời thực sao?” Niall cay đắng hỏi. “Hay chúng ta chỉ là những kẻ đần độn?”

Bàn tay gầy gò, trắng bệch của Valcour giơ lên, khẽ khàng chạm vào đầu Niall trong một cử chỉ vừa mang nghĩa chúc phúc lại vừa mang nghĩa ngăn trở. Ngài cảm thấy hơi nóng ẩm ướt toát ra từ thân thể cường tráng của chiến binh này, vì Niall chỉ vừa mới bỏ mũ ra và vẫn còn mặc bộ giáp nặng nề. Ước gì ông có một phần nhỏ trong nguồn sức mạnh to lớn của Niall, Valcour mệt mỏi nghĩ. Người Scot này rắn như thép, không thể bẻ gãy cũng không thể hạ gục bất kể chàng phải đối mặt với khó khăn gì. Cánh tay vung gươm không biết mệt mỏi, ý chí không gì lay chuyển được. Không còn một chiến binh nào khác có thể phục dịch Chúa Trời hơn chàng trai Scot dữ dội này, người mang dòng máu hoàng gia trong huyết mạch của một đứa con hoang. Không phải quý tộc, mà là hoàng tộc. Chính dòng máu đó đã đưa chàng gia nhập vào Hội, vì danh gia vọng tộc là một yêu cầu bắt buộc. Trong trường hợp này, Đại thủ lĩnh đã thông thái quyết định rằng mối ràng buộc huyết tộc quan trọng hơn là luật lệ.

Và vì dòng máu ấy, Niall sẽ được bảo vệ. Clement sẽ không thể đặt bàn tay tham lam đẫm máu của hắn lên người Scot này, bởi vì chàng sẽ được an toàn nơi quê hương mình, trong lòng những dãy núi lởm chởm của vùng Cao nguyên.

“Chúng ta tin,” cuối cùng Valcour nói, trong câu trả lời giản đơn cho câu hỏi của Niall. “Và, vì tin tưởng, chúng ta đã dùng mạng mình để bảo vệ. Con được cởi bỏ tất cả các lời thề khác, nhưng con phải thề trên máu của anh em mình, rằng con sẽ dâng hiến đời con để bảo vệ những thánh tích này.”

“Con thề,” Niall dữ dội nói. “Nhưng vì họ. Không bao giờ là vì Ông ta nữa.”

Đôi mắt Valcour buồn rầu. Mất lòng tin là một điều kinh khủng – và thường thấy, trong những ngày đen tối này. Sẽ còn nhiều người đàn ông nữa đánh mất lòng tin, hay mạng sống của họ. Không phải tất cả Đạo hữu đều kiên định vững lòng; một vài người đã quay lưng lại với Hội, và với vị Chúa mà họ hết lòng phục vụ nhưng đã để cho điều kinh khủng này xảy ra với họ. Bạn bè, n hem bị tra tấn, bị chặt chân tay; bị chết thiêu trên cọc, Hội đã bị huỷ hoại hoàn toàn chỉ vì lòng tham vàng bạc. Thật khó có thể đặt lòng tin vào bất kì điều gì ngoại trừ sự phản bội, và trả thù.

Vậy mà Valcour vẫn cố gắng giữ một phần nhỏ, phần cốt lõi của mình thanh sạch, để trân trọng lưu giữ lòng tin của mình ở đó, vì không còn lòng tin thì không còn gì cả. Nếu ngài không tin, thì ngài sẽ phải chấp nhận rằng biết bao nhiêu chàng trai tốt đẹp đã chết một cách vô ích, và ngài không thể làm gì, không thể sống với điều đó. Vì thế, ngài tin, bởi điều ngược lại là không thể chịu đựng nổi. Ngài ước mong Niall có thể có được sự an ủi đó, nhưng chàng trai Scot quá kiên quyết, trái tim chiến binh của chàng chỉ có thể nhìn thấy trắng và đen. Chàng đã kinh qua quá nhiều trận chiến nơi sự lựa chọn chỉ đơn giản là giết hay bị giết. Valcour đã chiến đấu vì Chúa, nhưng ngài chưa bao giờ là một chiến binh như Niall. Sự sôi sục của chiến trường thường làm tầm nhìn của một người trở nên rất rõ ràng, chắt lọc cuộc sống tới những lựa chọn đơn giản nhất.

Hội cần Niall, để hoàn thành lời thề vĩ đại nhất, cẩn mật nhất của nó. Hội đã đi đến hồi kết, ít nhất là trong kiếp sống này, nhưng nghĩa vụ thiêng liêng của nó sẽ còn tồn tại, và Niall là người bảo vệ đã được chọn ra.

“Vậy thì vì lý do gì cũng được,” Valcour lẩm bẩm. “Hãy bảo vệ chúng thật tốt, vì chúng là những vật báu đích thực của Chúa chúng ta. Nếu chúng rơi vào bàn tay của quỷ dữ, thì máu của các đạo hữu sẽ đổ xuống vô ích. Hãy làm như vậy đi: nếu không phải vì Người, hãy vì họ.”

*

Tháng Mười hai năm 1309

Creag Dhu, Scotland

“Có thêm ba Hiệp sĩ nữa đã tìm được đường tới đây kể từ chuyến viếng thăm cuối cùng của huynh,” Niall lầm rầm với anh trai chàng khi hai người ngồi trước ngọn lửa tí tách trong phòng riêng của Niall. Một ngọn nến mỡ động vật cao, dày đặt trên chiếc bàn nơi họ vừa mới nạp đầy dạ dày, ngọn lửa của nó thêm ánh sáng vàng vào ngọn lửa lò sưởi. Trừ hai ánh sáng đó, căn phòng chìm trong bóng tối, và hơi ấm vui thích. Không có cơn gió nào luồn qua các bức tường đá để khuấy động không khí với những hơi thở lạnh giá của nó; những khe nứt đã được trát lại cẩn thận bằng đất sét, các tấm thảm thì dày và nặng. Cánh cửa dẫn tới phòng của Niall rất khoẻ, và đã được lèn cẩn thận. Ngoài tất cả những việc đó, hai người đàn ông còn giữ giọng nói nhỏ, và nói bằng tiếng Pháp, để nếu kẻ nào đó nghe lén được họ bằng cách nào đó thì chúng sẽ không hiểu được. Không một tên hầu người Scot nào nói được ngôn ngữ đó; phần lớn quý tộc nói được, nhưng đây lại là một pháo đài bất khả xâm phạm, trong một góc hẻo lánh của Cao nguyên, họ chỉ cần phải lo ngại tới đám tôi tớ và binh lính mà thôi.

Cả hai đều cầm những cốc rượu nặng chứa đầy rượu Pháp hảo hạng, và giờ Robert đang uống rượu của mình một cách trầm tư. Ông ta ngồi trên một chiếc ghế gỗ lớn, trạm trổ, trong khi Niall đã kéo một chiếc ghế dài nặng trịch và đặt nó nghiêng nghiêng so với ngọn lửa, để cho chàng đối mặt với vị khách của mình thay vì với ngọn lửa. Robert theo dõi ngọn lửa nhảy múa trong khi ông ta uống rượu của mình; khi ông ta liếc trở lại Niall, phải mất một lúc ông ta mới điều chỉnh được tầm nhìn của mình, và đột nhiên ông ta nhận ra lý do tại sao Niall lại đặt cái ghế dài như thế. Thậm chí cả ở đây, trong lâu đài của chính chàng, ngồi an toàn trong phòng riêng với anh trai mình, những bản năng của Niall vẫn là của một chiến binh và chàng đã bảo vệ tầm nhìn của chàng. Nếu kẻ thù bằng cách nào đó tấn công bất ngờ, thì chàng sẽ không bị ngăn trở vì tầm nhìn hạn chế.

Nhận thức ấy khiến miệng của Robert cong lên nhăn nhó. Sau hàng năm trời chiến đấu với người Anh, cả ông ta cũng đã học cách bảo vệ tầm nhìn ban đêm của mình, nhưng tại nơi chốn an toàn này ông ta đã cho phép mình thả lỏng. Niall thì không. Chàng không bao giờ thả lỏng; chàng luôn luôn cảnh giác.

“Có Hiệp sĩ nào tìm nơi trú ẩn khác không?”

“Không. Họ vẫn ở lại đây, vì chẳng còn nơi nào chắc chắn hơn cả. Nhưng họ biết rằng họ phải ra đi, sớm thôi, nếu không số lượng của họ có thể khiến Creag Dhu lôi kéo sự chú ý không mong muốn.” Đôi mắt đen của Niall sắc bén khi chàng nhìn chằm chằm vào anh trai mình. “Tôi không hỏi cho mình, vì tôi không mong chất thêm gánh nặng cho huynh, nhưng vì họ tôi phải biết: huynh có định áp dụng sắc lệnh của Clement lên chúng tôi không?”

Nhức nhối, Robert lùi lại. “Đệ hỏi thế à!” (từ đây những đoạn đối thoại bằng tiếng Gaelic mình sẽ để font chữ nghiêng) ông ta gầm gừ, đủ giận để nói bằng tiếng Gaelic, nhưng ánh mắt Niall không hề chần chừ và trong một thoáng chàng đã kiềm chế cơn giận của mình.

“Huynh cần sự liên minh với người Pháp,” Niall bình thản nói. “Nếu Philip phát hiện ra danh tính của tôi, hắn sẽ không từ thủ đoạn gì để bắt tôi, bao gồm cả việc gia nhập lực lượng của hắn với Edward[9]. Huynh không thể mạo hiểm như thế.” Điều chàng đã không nói là, Scotland cần liên minh ấy; không cần thiết phải phân biệt, bởi vì anh trai chàng chính là Scotland, là hiện thân của tất cả những hi vọng và mơ ước của nó.

Robert hít một hơi dài, bình tĩnh. “Phải,” ông ta thừa nhận, lại nói tiếng Pháp. “Đó sẽ là thế gọng kìm. Nhưng ta đã mất ba trăm người anh em bởi những tên đồ tể Anh; vợ và con gái ta, các chị em gái của chúng ta đã bị bắt ba năm rồi và ta không biết có bao giờ được trông thấy họ còn sống nữa không. Ta sẽ không để mất cả đệ.”

“Huynh gần như không biết tôi.”

“Đúng thật là chúng ta không gần gũi nhau mấy, nhưng ta biết đệ,” Robert không đồng ý. Biết chàng, và yêu chàng. Chỉ đơn giản như thế. Không một người anh em nào khác của ông ta có thể thách thức ông giành ngai vàng, nhưng ông ta và cha mình đã biết kể từ khi Niall vẫn còn là một thằng nhóc mười tuổi cao ráo, khỏe mạnh rằng người anh em cùng cha khác mẹ không hợp pháp của ông có tố chất của vua chúa, một sự bạo dạn và trí tuệ xuất chúng vốn là những phẩm chất của chính Robert. Vì lợi ích của Scotland, họ không thể mạo hiểm với một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, và cho dù Niall lớn lên có minh chứng được phẩm chất trung thành của mình thì dân chúng cũng vẫn sẽ hướng về chàng. Hoàn cảnh sinh thành của chàng đã được giữ bí mật, nhưng bí mật luôn luôn bị tiết lộ, vì lúc ấy chính Niall đã chứng minh điều đó bằng cách mạnh dạn tiếp cận với Robert để hỏi xem có phải họ là anh em hay không.

Việc những người khao khát ngai vàng dọn đường bằng cách giết những kẻ có thể cản trở họ không có gì là bất bình thường, nhưng cả Robert lẫn cha ông ta, Bá tước[10] Carrick, đều không thể chịu đựng được ý nghĩ ấy. Giống như là triệt tiêu một ngọn lửa rực sáng, đẩy họ chìm vào đêm đen. Niall đã toả sáng bằng sinh lực của chàng, ngập tràn niềm vui và sự liều mạng, lôi kéo mọi người về với chàng như một viên đá nam châm. Chàng đã luôn là thủ lĩnh của đám trai trẻ, gan dạ đưa đám tuỳ tòng của mình vào những trò nghịch ngợm tinh quái, và cũng gan dạ như thế nhận lấy toàn bộ trách nhiệm về mình bất kể khi nào họ bị bắt.

Năm chàng lên mười bốn, các thiếu nữ cũng bắt đầu đi theo chàng, với đôi mắt sáng ngời và thân hình mềm mại của họ. Giọng chàng đã bắt đầu trầm đục, bờ vai rộng, ngực nở nang khi dáng vóc cao lớn của chàng dễ dàng chuyển sang thời kì trưởng thành. Chàng đã chứng tỏ tài khéo léo không bình thường với đôi tay mình, và việc luyện tập liên tục với những thanh gươm nặng nề càng làm tăng sức mạnh của chàng. Robert không nghĩ cậu nhóc dành nhiều đêm cô độc, bởi vì không chỉ có những cô nàng trẻ tuổi theo đuổi cậu, mà cả những cô già hơn, bao gồm cả những thiếu phụ đã có chồng.

Mặc dù vậy chàng đã thay đổi. Robert không ngạc nhiên, khi nghĩ đến tai hoạ đã giáng xuống các Hiệp sĩ Thánh chiến. Khả năng thu hút của chàng không hề giảm đi, nhưng giờ đây đã khắc nghiệt hơn, đôi mắt đen của chàng vẫn còn u ám kể cả khi miệng chàng đã cười. Khi còn trẻ chàng không bao giờ ngơi nghỉ với nguồn năng lượng vô tận, nhưng giờ chàng đã là một người đàn ông trưởng thành, một chiến binh không biết sợ hãi. Chàng đã học được nghệ thuật nhẫn nại, và sự điềm tĩnh của chàng giống như của một con thú săn mồi đang chờ đợi bữa ăn tiếp theo của nó.

Giờ Robert khoan thai nói, “Scotland sẽ không tham gia vào việc tiêu diệt các Hiệp sĩ Thánh chiến.” Một lần nữa ánh mắt Niall khoan vào ông ta, giống như một lưỡi gươm đen sắc lẻm. “Huynh có lòng biết ơn của tôi… và nhiều hơn nữa, nếu huynh muốn dùng tới nó.”

Điều Niall để lửng không nói treo nặng nề trong căn phòng tối. Ánh mắt đen cảnh giác không bao giờ lung lạc, và Robert nhướng cặp lông mày lên. “Nhiều hơn?” ông ta hỏi, một lần nữa uống rượu của mình. Ông ta rất tò mò về cái “nhiều hơn” này. Ông ta gần như không dám hi vọng…có lẽ Niall đang nói đến vàng. Hơn tất cả, Scotland cần vàng để trang trải cho cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Anh.

“Các Hiệp sĩ[11] là những chiến binh tốt nhất trên thế giới. Họ sẽ không được ở lại đây, nhưng tôi không thấy có lý do gì cần phải để những tài năng của họ bị hoài phí.”

“A.” Robert lại đăm chiêu nhìn vào ngọn lửa. Giờ ông ta đã biết mục đích của Niall, và thực sự nó cũng rất hấp dẫn. Không phải vàng, nhưng là một thứ cũng gần giá trị bằng: sự huấn luyện, và kinh nghiệm. Những Hiệp sĩ kiêu ngạo, đã bị rút phép thông công[12] này không còn mang hình thập tự đỏ của họ nữa, nhưng đương nhiên họ vẫn giống y hệt như trước khi Giáo hoàng và Vua nước Pháp hiệp lực huỷ diệt họ: những chiến binh tốt nhất trên thế giới. Trận chiến bất tận với người Anh đã rút cạn những nguồn lực của Scotland đến mức độ mà đôi khi họ đã thực sự phải chiến đấu bằng đôi bàn tay không. Dù người dân của ông ta dũng cảm như thế nào, đặc biệt là những người Cao nguyên hoang dã, Robert cũng biết rằng họ thực sự cần nhiều hơn thế: nhiều tiền hơn, nhiều vũ khí hơn, nhiều sự huấn luyện hơn.

“Cho họ trà trộn vào trong quân đội của huynh,” Niall lẩm bẩm. “Cho họ lãnh trách nhiệm huấn luyện người của huynh. Tham vấn các chiến lược với họ. Sử dụng họ. Đổi lại, họ sẽ trở thành người Scot. Họ sẽ chiến đấu đến chết vì huynh, và vì Scotland.”

Các Hiệp sĩ Thánh chiến! Chỉ ý tưởng đó thôi cũng đã choáng ngợp. Dòng máu chiến tranh của Robert reo lên trong huyết quản ông ta trước ý tưởng có đội quân như thế dưới quyền. Nhưng, một nhóm người thì làm được gì, cho dù họ có được huấn luyện tốt đến đâu đi nữa? “Có bao nhiêu người tất cả?” ông ta nghi ngại hỏi. “Năm à?”

“Năm ở đây,” Niall nói. “Nhưng còn có hàng trăm người cần nơi trú ẩn.” Hàng trăm. Niall đang đề nghị làm cho Scotland trở thành thánh địa của các Hiệp sĩ đã thoát hiểm và đang lẩn trốn khắp Châu u. Nếu họ bị bắt, họ sẽ phải lựa chọn giữa việc phản bội Đạo hữu của họ, hay là chịu đựng sự tra tấn trước khi bị thiêu sống trên cọc. Vài người đã hợp tác và vẫn phải mất mạng.

“Đệ có thể mang họ tới đây?”

“Tôi có thể.” Niall nhổm dậy từ chiếc ghế dài và đứng quay tấm lưng rộng lại với ngọn lửa, đôi vai to lớn của chàng tạo ra một chiếc bóng khổng lồ ngang qua căn phòng. Mái tóc đen dày chạm đến vai, và theo kiểu của người Celtic chàng đã tết hai bím tóc nhỏ ở hai bên thái dương. Trong chiếc váy[13] len đi săn và áo trắng, với một con dao dắt ở thắt lưng, trông chàng giống người Cao nguyên hoang dã đến từng phân. Khuôn mặt chàng u ám. “Điều tôi không thể làm là tham gia cùng với họ.”

“Ta biết,” Robert khẽ nói. “Ta cũng sẽ không đòi hỏi đệ điều đó. Ta không hỏi rõ thêm điều gì, nhưng ta biết rằng đệ còn bị nguy hiểm hơn ngàn lần những người đệ mong giúp đỡ, và đó không chỉ vì đệ là em trai ta. Bất kể Đền Thánh đã giao cho đệ nhiệm vụ gì, thì đó cũng là một nhiệm vụ mà không người đàn ông nào yếu đuối hơn đệ có thể làm được. Nếu có bao giờ đệ cần sự trợ giúp của ta, hay của những Hiệp sĩ đệ đã đặt dưới quyền ta, đệ chỉ cần phải gửi tin.”

Niall cúi đầu với một cử chỉ truyền đạt sự chấp thuận, nhưng Robert vẫn biết rằng ngày đó sẽ không bao giờ đến. Niall đã tạo lập được một thành trì ở cái nơi hoang dã nhất, hẻo lánh nhất của vùng Cao nguyên, những dãy núi phía Tây Bắc lởm chởm này, và chàng sẽ dùng nó chống trả lại mọi mối đe doạ. Chàng đã tập hợp được quanh mình một lực lượng mạnh mẽ gồm các hiệp sĩ và binh lính đầy tính kỉ luật, và đã biến Creag Dhu thành một pháo đài không thể công phá.

Những người dân miền núi đã bắt đầu thì thào về chàng, thậm chí họ tập hợp lại gần Creag Dhu hơn để trông chờ vào sự bảo vệ của chàng. Họ gọi chàng là Nial Đen. Người Scot thường gọi bất kì ai râu tóc tối màu là đen, nhưng những lời xì xào về Niall nói rằng đó là cách mô tả trái tim chàng, chứ không chỉ là vì mái tóc và đôi mắt đêm đen của chàng.

Vốn biết rõ nguồn gốc của Niall, Robert có thể nhìn thấy những điểm tương đồng giữa người em trai cùng cha khác mẹ này với bạn thân của chính ông ta, Jamie Douglas, Douglas Đen nổi danh, và sự trùng hợp về màu tóc và cái tên này khiến cho ông ta khó chịu. Mẹ của Niall vốn là một Douglas; chàng và Jamie là anh em họ gần. Jamie cao lớn và vai rộng, mặc dù không cao hay lực lưỡng bằng Niall. Nếu có ai đó nhìn thấy họ ở gần nhau, liệu người ta có nhận ra điểm tương đồng không? Liệu lúc ấy người ta có thấy rằng Niall còn có cả sức khoẻ phi thường của gia tộc Bruce, cũng như vẻ đẹp trai trần tục được nhiều người biết đến của Nigel, một trong những anh trai cùng cha khác mẹ khác của Niall hay không? Dòng máu nhà Bruce và nhà Douglas đã kết hợp lại trong Niall để tạo ra một người đàn ông có vẻ ngoài và sức mạnh phi thường, kiểu người trăm năm mới xuất hiện một lần trên đời. Chàng sẽ không bao giờ lẩn khuất. Vì an toàn của chính chàng, và vì nhiệm vụ đã được Hội hiệp sĩ không còn tồn tại giao cho chàng, không ai được phép biết rằng Niall Đen nổi tiếng lại chính là người em trai cùng cha khác mẹ được Vua Scotland yêu thương, và là đứa con hoang của Catriona Douglas xinh đẹp, vì chồng của Catriona vẫn còn sống và sẽ không từ cách gì để giết chết kết quả sự phản bội của vợ ông ta.

Niall cũng là một Hiệp sĩ Thánh chiến, đã bị rút phép thông công, và bị tuyên án tử hình theo lệnh của Giáo hoàng nếu có khi nào chàng bị bắt. Nhìn từ bên ngoài, mạng sống của chàng thực sự rất bấp bênh.

Mặt khác, chỉ có một kẻ ngu ngốc mới cố xuyên thủng lớp bảo vệ của Creag Dhu. Hội đã chọn nhà quán quân của nó rất đúng.

Robert thở dài. Không còn gì ông ta có thể làm cho em trai mình trừ việc tôn trọng sự kín đáo của chàng, và dành vương quốc của ông ta để làm thánh địa cho những Hiệp sĩ đã bị ngược đãi, tan tác. Một việc làm nhỏ nhoi, nếu so với những gì Scotland có được để đổi lại điều đó.

“Đã đến lúc ta quay về,” ông ta nói, uống cạn ly rượu của mình và đặt nó sang một bên. “Đã muộn rồi, và cô nàng xinh đẹp đang chờ đệ ở bên dưới có thể sốt ruột, và đi tìm một chiếc giường khác.” Niall đã hoàn toàn huỷ bỏ những lời tuyên thệ của các Hiệp sĩ Thánh chiến về nghèo khổ, chay tịnh và tuân lệnh, nhưng đặc biệt nhất là chay tịnh. Lúc này Robert tự hỏi làm sao mà em trai ông ta có thể chịu đựng được suốt tám năm không có đàn bà, vì mặc dù bản thân ông là đàn ông, ông ta vẫn có thể thấy được bản năng giới tính hừng hực mạnh mẽ trong con người Niall. Robert không thể tưởng tượng được có người đàn ông nào lại ít thích hợp với đời sống tu hành hơn chàng. (haha)

Miệng Niall cong lên. “Có thể,” chàng điềm tĩnh nói, không mảy may ghen tuông hay nghi ngại, vì không đời nào Meg lại làm thế; nàng ta hoàn toàn thích thú với việc hiện tại được làm bạn chung giường yêu thích của chàng, mặc dù không cách nào là người duy nhất.

Robert cười lớn và vỗ tay vào bờ vai rộng của chàng. “Khi ta cưỡi ngựa xuyên qua đêm đen lạnh giá, ta sẽ ghen tị với chuyến đi giữa cặp đùi ấm áp của đệ. Chúa phù hộ cho đệ.”

Khuôn mặt Niall không hề thay đổi, nhưng Robert ngay lập tức ý thức được sự lạnh lùng, và một cách bản năng ông ta biết lời nói cuối cùng của ông ta đã gây ra phản ứng ấy. Ông ta lo lắng siết chặt bàn tay lên vai em trai. Đôi khi tín ngưỡng là tất cả những gì mà con người, bất kể thường dân hay vua chúa, có để chống đỡ cuộc sống, và Niall đã quay lưng lại với bức tường thành ấy như cách Nhà thờ đã quay lưng lại với chàng.

Nhưng chẳng còn gì để nói, chẳng có lời an ủi nào để đưa ra ngoại trừ lời hứa mà ông ta đã hứa. “Mang họ tới đây,” ông ta khẽ nói. “Ta sẽ chào đón họ.” Rồi Robert Bruce, Vua của Scotland, ấn vào một hòn đá đặc biệt ở bên tay trái lò sưởi lớn, và toàn bộ chỗ ấy lùi vào trong. Ông ta cầm lấy cây đuốc đã bỏ lại ngay phía trong đường hầm, và giơ vào ngọn lửa cho đến khi nó lại bốc cháy. Ông ta rời khỏi Creag Dhu như cách đã bước vào, trong bí mật.

Niall theo dõi cánh cửa đóng lại, ngay lập tức trở nên vô hình trong bức tường đá. Khuôn mặt chàng bình thản khi chàng cầm chiếc cốc anh trai chàng vừa dùng và lau sạch mép cốc, rồi lại đổ đầy rượu vào trong. Cốc của chàng vẫn gần đầy; chàng đặt cả hai chiếc cốc cạnh giường, rồi mở then cửa và đi vào trong tìm Meg. Tâm trạng chàng xấu đi, bất chấp việc Robert đã đồng ý thu nhận những Hiệp sĩ bỏ trốn. Cơn giận dữ vẫn luôn ở đó, bị kiểm soát trong suốt hai năm nhưng không bao giờ giảm đi. Clement khốn kiếp, Philip khốn kiếp, và hơn hết thảy, Chúa trời khốn kiếp, kẻ đã được các Hiệp sĩ phục vụ hết mực trung thành, nhưng đã từ bỏ họ khi họ cần đến Ông ta nhiều nhất. Nếu chàng có bị đày xuống địa ngục vì lời báng bổ như thế, thì cũng mặc, nhưng Niall không còn tin vào địa ngục nữa; chàng không còn tin vào bất kì điều gì nữa.

Chàng sẽ kết thúc tâm trạng đen tối này trên thân hình gợi tình, tự nguyện của Meg, sẽ được bao bọc thật chặt bằng tay và chân nàng ta. Cuộc chơi tình ái càng mạnh bạo thì nàng ta sẽ càng thích thú.

Tìm ra Meg chẳng cần chút nỗ lực nào; nàng ta đang núp ở gần cuối cầu thang cuốn bằng đá to lớn, và tiến tới trước với một nụ cười khi chàng xuất hiện ở đầu cầu thang. Niall dừng bước, chỉ đứng ở đó, chờ đợi. Meg nâng váy và vội chạy lên cầu thang, ánh sáng ngọn đuốc nhấp nháy càng làm tăng thêm nét ửng hồng trên má nàng ta. Niall quay người trước khi nàng ta tới được chỗ chàng để bước trở vào phòng. Những bước chân nhanh nhẹn, nhẹ bẫng của nàng ta theo sau, và chàng có thể nghe được tiếng thở gấp gáp của nàng ta, cả vì vội vã và ước đoán.

Nàng ta đã tháo khăn choàng ra, giắt vào thắt lưng, khi nàng ta đi theo chàng qua cánh cửa vào phòng chàng. Chàng đóng lại và nhìn nàng ta luống cuống cởi quần áo, hé lộ thân thể màu mỡ cho chàng. Cái ấy của chàng cương lên và thoi thóp, dựng lều phía trước váy của chàng.

Nàng ta nhìn hai cốc rượu và một nụ cười cong cớn trên môi. Chàng biết nàng ta sẽ coi đó như một biểu hiện của sự mê đắm của chàng với nàng ta, nhưng cứ để nàng ta nghĩ cái gì nàng ta thích, còn hơn là nghi ngờ chàng có một người khách bí mật, hoặc nghi ngờ đó chính là Đức vua. Mặc dù chàng sẵn lòng vuốt ve sự kiêu hãnh của nàng ta với những cử chỉ nhỏ nhặt, và còn hơn cả sẵn lòng đáp trả gấp đôi những vui thú thể xác mà nàng ta cho chàng, mối quan tâm duy nhất của chàng với nàng ta chỉ là sự thoả mãn chàng tìm thấy trong thân thể mềm mại, hào phóng của nàng ta mà thôi.

Trần truồng, nàng ta cầm một cốc rượu lên và nhấp một ngụm, hài lòng gấp đôi khi thấy nó chứa một loại rượu vang hảo hạng chứ không phải là loại chua lèm, toàn nước mà nàng ta vẫn uống. Ánh lửa nhảy múa trên gò bồng đảo căng mọng, biến hai núm vú của nàng ta thành màu rượu vang hảo hạng, làm chiếc rốn và chỗ lông xoăn giữa hai đùi nàng ta càng thẫm màu hơn.

Chàng không muốn phải đợi. Chàng tiến tới và lấy chiếc cốc từ bàn tay nàng ta, đặt nó xuống với một tiếng thịch làm sánh chút rượu qua vành cốc. Nàng ta phát ra một tiếng kêu nhỏ ngạc nhiên khi chàng nhấc bổng nàng ta lên và ném nàng ta lên chiếc giường rộng lớn của chàng, nhưng tiếng kêu biến thành tiếng cười ngay khi chàng nằm lên trên nàng ta.

Chàng dùng gối tách hai chân nàng ta ra. “Ít nhất chàng cũng phải tháo ủng ra chứ?” nàng ta hỏi, cười khúc khích. Nàng ta vươn tới nắm lấy gấu áo của chàng.

Mùi của nàng ta nồng nàng và ngon lành, đậm chất đàn bà. Lỗ mũi nhỏ của chàng nở rộng, hít vào mùi hương. “Tại sao?” chàng hỏi bằng giọng đều đều.

“Chúng ở trên chân ta, không phải con gà trống của ta.” Tiếng khúc khích biến thành một tiếng cười phá lên. Niall vươn tay xuống dưới váy và nắm cái cương cứng của chàng, hướng dẫn nó vào khe ẩm ướt của nàng ta.

Chàng thúc tới trước, để nó bao bọc mình, rùng mình vì nhẹ nhõm, và tiếng cười của Meg đột ngột tắt đi, chết ngất khi cơ thể nàng ta thu lấy sức mạnh của cú đâm.

Bóng tối bao quanh chàng lùi dần, bị niềm vui thuần tuý đẩy lui. Chừng nào mà chàng còn ôm một người đàn bà trong tay, chàng có thể quên đi sự phản bội, và cái gánh nặng tránh nhiệm mà chàng đang mang.

27 tháng Tư, 1996

Một tiếng gầm trầm trầm thông báo cho khu phố biết rằng Kristian Sieber đã đi học về. Cậu ta lái một chiếc Chevelle 1966, đã được âu yếm khôi phục tất cả sức mạnh tám xi-lanh ngốn xăng của nó. Thân xe là một sự kết hợp nhiều màu sắc, vì các phần của nó đã được ghép lại từ những xác xe Chevelle khác nhau, nhưng bất kể khi nào có ai đó bình luận về màu sắc lộn xộn của chiếc xe, Kristian sẽ gắt gỏng nói rằng cậu ta “đang sửa.” Sự thực là cậu ta chẳng thèm để tâm đến vẻ ngoài của nó. Cậu ta chỉ quan tâm làm sao chiếc xe chạy đúng như khi nó còn mới toanh, khi một tay nam nhi may mắn nào đó làm mọi cô gái ở quanh đều phải phát run vì tiếng gầm động cơ của nó. Theo cách nghĩ bản năng, đơn giản và lạc hậu của cánh đàn ông, cậu ta chắc chắn rằng đám mã lực ấy sẽ gạt bỏ được hình ảnh mọt sách của cậu ta, và tất cả các cô gái sẽ ùa về phía cậu, vì muốn được ngồi trên chiếc siêu xe ấy. Từ trước đến giờ chuyện đó chưa xảy ra, nhưng Kristian còn chưa thôi hi vọng.

Khi chiếc xe ồn ào lái qua nhà nàng và rẽ ở góc phố, Grace St. John[14] vội vã ăn miếng thịt hầm cuối cùng nàng đã làm cho bữa tối. “Kristian về rồi,” nàng nói, nhảy ra khỏi bàn.

“Không đùa chứ[15],” Ford trêu. Anh nháy mắt với nàng khi nàng chộp lấy cặp đựng laptop và một đống giấy tờ nàng đang dịch. Hai bên chiếc cặp phình ra vì đầy chặt những ghi chú và đĩa mềm. Lúc nãy nàng đã tháo cái modem ra, quấn dây quanh nó rồi đặt nó lên trên chiếc cặp. Nàng ôm chiếc cặp và modem trong tay khi nàng cúi xuống vươn tới miệng Ford. Nụ hôn của họ ngắn ngủi, nhưng ấm áp.

“Có thể mất vài giờ đấy, ít nhất là thế,” nàng nói. “Sau khi cậu ta tìm ra vấn đề là gì, cậu ta sẽ muốn chỉ cho em xem vài phần mềm mới của cậu ta.”

“Trước thì là các bản khắc,” anh trai Bryant của nàng lẩm bẩm. “Giờ thì là các chương trình.” Ba người bọn họ ăn hầu hết các bữa tối cùng nhau, một sự thuận tiện mà cả ba đều thích. Khi Bryant và Grace được thừa hưởng ngôi nhà từ cha mẹ họ, họ đã biến nó thành một căn hộ đôi; Grace và Ford sống ở một bên, và Bryant ở bên kia. Ba người họ không chỉ làm việc cho cùng một tổ chức khảo cổ, mà Ford và Bryant còn là bạn thân từ hồi đại học. Bryant đã giới thiệu Ford với Grace, và vẫn còn huênh hoang vì kết quả của cuộc giới thiệu ấy.

“Anh chỉ ghen tị bởi vì anh không thể hack được nó,” Grace nói, làm mặt hề, và Bryant ca cẩm vì trò chơi chữ.[16]

Vì hai bàn tay nàng đã bận, nên Ford đứng dậy mở cửa bếp cho nàng. Anh cúi xuống hôn nàng lần nữa. “Đừng mải mê với các chương trình của Kristian quá mà quên mất thời gian,” anh cảnh báo, đôi mắt nâu của anh gửi cho nàng một thông điệp riêng mà sau gần tám năm hôn nhân vẫn còn làm nàng run rẩy tới tận ngón chân.

“Không đâu,” nàng hứa, rồi bắt đầu bước ra, chỉ để dừng lại nơi ngưỡng cửa. “Em quên ví rồi.”

Ford nhặt nó từ trên tủ bếp và vòng dây đeo quanh đầu nàng. “Sao em lại cần ví?”

“Trong đó có cuốn séc,” nàng nói, thổi một lọn tóc bay khỏi mắt nàng. Nàng luôn luôn trả tiền cho những lần giúp đỡ của Kristian, mặc dù cậu ta sẽ vui vẻ làm miễn phí cho nàng chỉ vì niềm vui được quẩn quanh chiếc máy tính của người khác.

Những thiết bị của cậu ta rất đắt tiền, và khả năng của cậu ta thì tốt hơn bất kì công ty máy tính hay phần mềm nào nàng biết. Cậu ta đáng được nhận thù lao. “Thêm nữa có thể em sẽ mua cho cậu ta một cái pizza.”

“Nếu mà chúng ta ăn như thằng nhóc đó thì phải nặng đến bốn trăm pound (180kg) rồi ấy,” Bryant nhận xét.

“Cậu ta mười chín. Tất nhiên là phải ăn nhiều rồi.”

“Anh không nghĩ anh từng ăn nhiều thế. Cậu nghĩ sao, Ford? Khi bọn mình học đại học, mình có ăn nhiều như Kristian không?”

Ford dành cho anh cái nhìn không tin nổi. “Cậu hỏi tớ ấy hả, trong khi cậu là gã đã từng ăn sáng bằng mười ba cái bánh kếp và một pound (450g) xúc xích?”

“Thế cơ á?” Bryant nhíu mày. “Tớ không nhớ vụ đó. Còn cậu thì sao hả? Tớ đã trông thấy cậu hạ một lần bốn cái Macs và bốn xuất khoai tây chiên cỡ bự thì sao.”

“Cả hai anh đều ăn như là bị bệnh sán ấy,” Grace nói, giải quyết vụ tranh luận khi nàng bước xuống bậc thềm. Ford đóng cánh cửa phía sau nàng, tiếng cười rúc rích của anh vẫn còn vang trong tai nàng.

Lớp cỏ dầy, đàn hồi làm êm tiếng bước chân của nàng khi nàng bước qua vườn sau nhà họ, rồi rẽ vào lối đi tắt ngang qua hàng rào cỏ tươi tốt của nhà Murchison. Họ đã đi nghỉ một tháng ở Nam Carolina, và sẽ không về tới tận cuối tuần này. Thật là đáng xấu hổ; khi tìm kiếm không khí ấm áp và mùa xuân, vì họ đã bỏ lỡ nó ở nhà mình.

Đó là một tháng Tư ấm áp khác thường, và mùa xuân đã về trên Minneapolis. Cỏ xanh hơn và tươi tốt hơn, lá cây đâm chồi, hoa đua nở. Mặc dù mặt trời đã lặn và chỉ còn lại những tia sáng cuối cùng của buổi chạng vạng, không khí buổi tối vẫn ấm áp và ngát hương. Grace hít vào với niềm vui sâu sắc. Nàng yêu mùa xuân. Thực ra, nàng yêu tất cả các mùa, vì mỗi mùa đều có niềm vui riêng.

Kristian đứng ở cửa sau nhà Sieber, đang chờ nàng. “Hi,” cậu ta nói bằng giọng vui vẻ chào mừng. Cậu ta luôn vui mừng trước viễn cảnh được thọc tay vào laptop của nàng.

Cậu ta còn chưa bật đèn. Grace bước vào qua căn phòng giặt tối đen, đi ngang qua bếp. Audra Sieber, mẹ của Kristian, đang trượt một khay bánh mỳ vào trong lò. Bà nhìn lên với một nụ cười. “Chào Grace. Tối nay bọn cô có món sườn cừu; muốn ăn cùng không?”

“Cám ơn, nhưng cháu vừa mới ăn xong.” Nàng thích Audra, một phụ nữ ngoài năm mươi, hơi quá cân, và hoàn toàn hiểu nỗi ám ảnh của cậu con trai với gigabytes và bảng mạch. Về hình dáng, Kristian giống hệt Errol, cha cậu: cao, gầy, tóc đen, mắt xanh bị cận, và cục yết hầu nổi bật trên cần cổ. Kristian không thể nào giống một con mọt máy tính hơn được nữa dù cậu ta có khắc chữ ấy lên trán.

Nhớ tính háu ăn của cậu ta, Grace nói, “Kris, việc này có thể chờ đến lúc em ăn xong.”

“Em sẽ lấy một đĩa và mang lên gác,” cậu ta nói, đỡ chiếc cặp từ tay nàng và âu yếm ôm nó trong tay. “Thế cũng được phải không mẹ?”

“Tất nhiên. Cứ lên gác vui vẻ đi con.” Audra dành nụ cười điềm đạm của bà cho cả hai người, và Kristian lập tức chuồn khỏi bếp để lên lầu, mang theo phần thưởng lên hang ổ chất đầy đồ điện tử của cậu ta.

Grace chậm rãi bước theo cậu, vừa đi lên cầu thang vừa nghĩ rằng nàng thực sự cần phải giảm bớt hai mươi pound thừa mà nàng đã có thêm kể từ khi lấy Ford. Vấn đề là, công việc của nàng phải ngồi quá nhiều; với tư cách là một chuyên gia và dịch giả các ngôn ngữ cổ, nàng phải dành rất nhiều thời gian với chiếc kính lúp để săm soi bản sao của những tài liệu cổ, và thường xuyên là chính những tài liệu cổ ấy, vì phần lớn chúng đều quá mong manh khó xử lý. Phần còn lại nàng làm việc trên máy tính, sử dụng một phần mềm dịch thuật mà nàng và Kristian đã phát triển. Thật khó để đốt được nhiều calo trong lúc làm công việc trí óc.

Trong ngày hôm nay nàng đã đang làm chính cái việc đó, cố gắng truy cập vào thư viện của trường đại học để tải về vài thông tin, thì chiếc máy tính không chịu tuân lệnh của nàng. Nàng không chắc là bản thân chiếc laptop có vấn đề, hay là modem có vấn đề. Nàng đã gặp được Kristian lúc cậu về nhà ăn trưa, và sắp xếp để cậu xem nó cho nàng lúc tan học về.

Việc chậm trễ khiến nàng gần điên đầu vì sốt ruột. Nàng đang bị cuốn hút vào một tập tài liệu nàng đã bắt đầu dịch cho người thuê nàng, Tổ chức Amaranthine Potere, một tổ chức khảo cổ học và chứng tích lớn. Dù thế nào nàng cũng rất yêu công việc của mình, nhưng lần này rất đặc biệt, quá đặc biệt đến nỗi nàng gần như sợ phải tin rằng những gì nàng đã dịch là đúng. Nàng cảm thấy gần như bị… lôi kéo, chìm đắm vào trong tập tài liệu theo một cách chưa từng có. Đêm trước, Ford đã hỏi nàng tập tài liệu có gì, và nàng đã rụt rè kể anh nghe một chút về chúng – chỉ là phần chủ đề. Thông thường nàng thoải mái nói với Ford về công việc của nàng, nhưng lần này lại khác. Nàng có cảm giác mạnh mẽ về những tài liệu cổ xưa lạ lùng này đến nỗi khó mà cất thành lời, và vì thế nàng đã hơi hạ thấp mọi thứ, như thể nó không là gì đặc biệt thú vị.

Ngược lại, nó… cực kì đặc biệt, theo những cách mà nàng còn chưa hoàn toàn hiểu rõ. Nàng mới dịch được chưa tới một phần mười, vậy mà những khả năng đã khiến nàng phát điên vì dự đoán, quay cuồng không hiểu nổi, giống như một bức tranh ghép hình phức tạp mới chỉ ghép được phần ngoài rìa. Mặc dù trong trường hợp này nàng không hề biết sản phẩm cuối cùng sẽ như thế nào, chỉ biết rằng nàng không thể ngừng lại cho đến khi nàng biết.

Nàng lên đến bậc thang trên cùng và vào trong phòng Kristian. Đó là một mê cung gồm các thiết bị điện tử và dây nhợ, chỉ chừa lại chỗ vừa đủ cho chiếc giường của cậu ta. Cậu ta có bốn đường điện thoại riêng, ba đường gắn với một chiếc laptop và hai chiếc máy tính, và một đường khác gắn với máy fax. Hai máy in chia sẻ nhiệm vụ giữa ba chiếc máy tính. Một trong hai máy bàn vẫn bật, với một ván cờ vua hiện trên màn hình. Kristian liếc nhìn vào nó, gầm gừ, và dùng con chuột di chuyển một quân tượng. Cậu ta quan sát kết quả một lúc, trước khi kích vào con chuột và trở lại với đống lộn xộn trước mắt. Cậu ta gạt đống giấy tờ sang một bên và để đống kia lên trên giường. “Nó đang làm gì?” cậu ta hỏi khi mở cặp và lấy laptop của nàng ra.

“Không làm gì cả,” Grace nói, ngồi xuống một chiếc ghế khác và theo dõi cậu ta nhanh chóng tháo những dây cáp trung tâm của một chiếc máy bàn khỏi cổng nguồn và modem và cắm vào máy nàng. Cậu ta bật nó lên và nó liền khởi động, màn hình sáng lên màu xanh nhạt. “Sáng nay chị đang cố vào trang thư viện của trường, nhưng không được. Chị không biết là do máy hỏng hay modem hỏng.”

“Giờ chúng ta sẽ biết ngay thôi.” Cậu ta rành rẽ menu của nàng như chính nàng vậy; cậu ta kích vào cái mình muốn, rồi kích đúp vào biểu tượng điện thoại. Cậu ta đang gọi vào số của thư viện điện tử của trường đại học, và mười giây sau thì vào được. “Tại modem,” cậu ta tuyên bố. Nhưng ngón tay gần như run rẩy khi nó lướt trên bàn phím. “Chị muốn tìm gì?”

Nàng cúi lại gần hơn. “Lịch sử Trung Cổ. Cụ thể là cuộc Thập tự chinh.”

Cậu ta cuốn màn hình xuống theo danh sách các địa chỉ hiện ra. “Cái đó,” Grace nói, và cậu ta kích chuột. Bảng mục lục hiện đầy màn hình.

Cậu ta tránh ra xa. “Đây, chị tự xem trong lúc em cố tìm hiểu xem modem của chị bị hỏng sao.”

Nàng chiếm chỗ của cậu ta trước mặt máy tính, và cậu ta bật một chiếc đèn bàn, lơ đãng đẩy kính lên trên sống mũi trước khi bắt đầu tháo chiếc modem.

Có vài sách tham khảo về những tổ chức quân sự tôn giáo thời bấy giờ, các Hiệp sĩ Hospitaller[17] và các Hiệp sĩ Thánh chiến. Nàng muốn tìm hiểu về các Hiệp sĩ Thánh chiến[18]. Nàng kích vào mục tương ứng, và những dòng thông tin lấp đầy màn hình.

Nàng chăm chú đọc, tìm kiếm một cái tên cụ thể. Nó không xuất hiện. Những dòng chữ là một bản biên niên sử và phân tích về đóng góp của các Hiệp sĩ thánh chiến với cuộc Thập tự chinh, nhưng trừ vài vị Đại Giáo Trưởng không có cái tên nào được nhắc tới nữa.

Họ bị xen ngang một lát khi bà Audra mang một đĩa đầy thức ăn lên cho Kristian. Cậu ta đặt nó ngay cạnh cái modem bị mở toang và vừa vui vẻ ăn nhồm nhoàm vừa làm việc. Grace trở lại mục lục chính và chọn một tài liệu khác.

Một lúc sau nàng phát hiện ra rằng Kristian hoặc đã sửa xong cái modem cho nàng hoặc đã từ bỏ, bởi vì cậu ta đang đọc qua vai nàng. Thật khó để kéo nàng ra khỏi những mưu đồ và mối hiểm nguy trong thời kì Trung Cổ, để trở lại với thế giới điện toán hiện đại. Nàng chớp mắt để định hướng cho bản thân, nhận thức được sức quyến rũ đầy ma lực một cách kì lạ của thời đại xa xưa ấy. “Em sửa được không?”

“Chắc rồi,” cậu ta lơ đãng trả lời, vẫn còn đang đọc. “Chỉ là một mối hàn bị lỏng thôi. Mấy gã Hiệp sĩ Thánh chiến này là ai vậy?”

“Họ là một tổ chức quân sự tôn giáo trong thời Trung Cổ; em không biết lịch sử của em sao?”

Cậu ta đẩy cặp kính lên mũi và cười toe toét với nàng. “Thời gian chỉ bắt đầu từ năm 1946[19].”

“Còn có cuộc sống trước cả các máy tính nữa chứ.”

“Ý chị là cuộc sống cơ học chứ gì. Thời kì tiền sử.”

“Thế những thiết bị đo trong cái thứ giật tung người mà em gọi là ô tô đấy thì là gì?”

Trông cậu có vẻ chán nản, chợt nhận ra một cách xấu hổ rằng chiếc xế hộp yêu quý của cậu lạc hậu hết thuốc chữa, với những thiết bị cơ học thay vì màn hình kĩ thuật số. “Em còn đang sửa,” cậu ta lẩm bẩm, hơi khom tấm lưng gầy. “Dù sao, mấy gã Hiệp sĩ này là thế nào. Nếu họ sùng đạo đến thế, sao lại bị thiêu sống trên cọc như là phù thuỷ hay cái gì gì đó?”

“Dị giáo,” nàng lẩm bẩm, quay trở lại với màn hình. “Lửa là hình phạt cho rất nhiều tội ác, không chỉ cho các trò phù thuỷ.”

“Đoán là người thời đó coi trọng tín ngưỡng của họ lắm.” Kristian chun mũi trước hình ảnh man rợ mô tả ba người đàn ông bị trói vào một chiếc cọc trong khi ngọn lửa liếm quanh đầu gối của họ. Cả ba người đàn ông đều mặc những bộ chùng màu trắng với hình thập tự trang trí trên ngực. Miệng họ là những hố sâu tối đen, mở ra để gào thét đau đớn.

“Ngày nay người ta vẫn bị hành hình vì tôn giáo,” Grace nói, hơi rùng mình một chút khi nàng nhìn chằm chằm vào bức tranh nhỏ, tưởng tượng nỗi kinh hoàng của việc bị thiêu sống. “Trong thời Trung Cổ, tôn giáo là trung tâm cuộc sống của tất cả mọi người, và bất kì ai chống lại nó đều là một mối đe doạ với họ. Tôn giáo cho họ những qui tắc văn minh, nhưng nó còn hơn cả thế. Có quá nhiều sự việc còn chưa được biết đến, hay chưa hiểu được; họ sợ nhật thực, sợ sao chổi, sợ bệnh tật tấn công bất ngờ, sợ những thứ mà ngày nay chúng ta biết là bình thường nhưng họ thì không cách nào hiểu được. Tưởng tượng xem với họ bệnh viêm ruột thừa, hay nhồi máu cơ tim đáng sợ đến đâu, thậm chí còn gây chết người. Họ không biết chuyện gì đang xảy ra, cái gì đã gây ra, hay làm cách nào để ngăn chặn nó. Ma thuật là một thứ rất thực với họ, và tôn giáo cho họ cái gọi là sự bảo vệ chống lại những lực lượng vô hình, đáng sợ đó. Thậm chí nếu họ chết, Chúa sẽ vẫn tiếp tục chăm sóc họ, và những linh hồn ma quỷ sẽ không chiến thắng.”

Lông mày cậu ta nhíu lại với nhau trong lúc cố tưởng tượng cuộc sống trong thời đại ngu dốt hủ lậu như thế. Với đứa trẻ của thời đại máy tính này, việc đó gần như là ngoài tầm nhận thức của cậu ta. “Em đoán truyền hình hẳn sẽ làm họ nhảy lên hử?”

“Đặc biệt là khi họ xem một chương trình trò chuyện,” nàng lẩm bẩm. “Giờ có rất nhiều linh hồn ma quỷ.”

Kristian cười khúc khích, làm cho cặp kính trượt xuống mũi cậu. Cậu đẩy chúng lên lần nữa và liếc mắt về phía màn hình. “Chị tìm được cái chị cần không?”

“Không. Chị đang tìm những ghi chép về một Hiệp sĩ Thánh chiến cụ thể - ít nhất chị nghĩ ông ta là một Hiệp sĩ Thánh chiến.”

“Có tham chiếu chéo nào để kiểm tra không?” Nàng lắc đầu. “Chị không biết họ của ông ta.” Niall của Scotland. Nàng đã tìm thấy tên ông ta vài lần trong những phần tài liệu viết bằng tiếng Pháp cổ. Tại sao họ của ông ta lại không được ghi lại, trong một thời đại mà gia đình và phả hệ quá quan trọng đến như vậy? Từ những gì nàng lượm lặt được từ bản dịch của nàng cho tới bây giờ, ông ta đã là một người đặc biệt quan trọng với các Hiệp sĩ Thánh chiến, bản thân là một Hiệp sĩ, tức là ông ta phải xuất thân danh gia vọng tộc chứ không phải là một nông nô. Một phần của tài liệu bằng tiếng Gaelic, càng củng cố thêm mối dây liên hệ chưa rõ với Scotland. Nàng đã đọc về lịch sử Scotland trong từ điển bách khoa của nàng, nhưng không hề có gì nhắc nhở đến ông Niall bí ẩn này chút nào, chứ chưa nói đến trong khung thời gian của các Hiệp sĩ Thánh chiến.

“Vậy thì ngõ cụt rồi,” Kristian vui vẻ nõi, rõ ràng quyết định là họ đã phí đủ thời gian vào một người đã chết thậm chí trước cả thời đại cơ khí. Đôi mắt xanh của cậu ta lấp lánh khi di chuyển chiếc ghế của mình lại gần hơn một chút. “Muốn xem chương trình kế toán rất tuyệt mà em mới làm ra không?”

“Chị không nghĩ từ rất tuyệt và kế toán đi chung với nhau,” Grace bình luận, giữ khuôn mặt mình trơ trơ.

Bị sốc, Kristian nhìn chằm chằm vào nàng. Cậu ta chớp mắt vài lần, làm cho cậu ta trông như một con sếu cận thị. “Chị đùa phải không?” cậu ta thốt lên. “Nó cực đỉnh! Chờ tới khi chị thấy – chờ đã. Chị đang đùa. Em biết mà.”

Môi Grace cong lên khi nàng êm ái gõ các phím, thoát khỏi hệ thống thư viện trường. “Ô, thế á? Như thế nào?”

“Chị luôn luôn mím chặt môi để ngăn không cười.” Cậu ta liếc xuống miệng nàng, rồi nhanh chóng nhìn đi chỗ khác, hơi đỏ mặt một chút.

Grace cảm thấy má mình cũng nóng lên và cẩn thận dán mắt vào màn hình. Kristian hơi hơi phải lòng nàng, chủ yếu là vì lòng nhiệt thành của cậu ta với chiếc laptop cấu hình mạnh, đắt tiền của nàng, nhưng trong vài dịp hiếm hoi cậu ta cũng nói hay làm việc gì đó cho thấy sự nhận thức về thân thể nàng.

Việc đó luôn làm nàng bối rối; nàng đã ba mươi tuổi, vì Chúa, và chắc chắn không phải là một phụ nữ hấp dẫn chết người theo bất kì sự tưởng tượng nào. Nàng tự xem mình rất bình thường, không có gì ở nàng kích thích dục vọng nơi một cậu thanh niên mười chín tuổi đầu – mặc dù có Chúa biết, gần như bất kì cái gì thuộc nữ giới và còn thở đều có thể khơi dậy dục vọng nơi một cậu thanh niên mười chín tuổi. Nếu như Kristian là khuôn mẫu điển hình của một con mọt máy tính, thì nàng luôn nghĩ vẻ ngoài của nàng là của dạng trí thức điển hình: tóc nâu đậm, thẳng đuồn đuột đến nỗi từ lâu nàng đã bỏ nỗ lực làm xoăn và giờ chỉ còn kéo ra đằng sau tết lại thành bím thật dày; mắt xanh nhạt, gần như xám, thường thường đeo một cặp kính đọc sách; không trang điểm, bởi vì nàng không biết làm sao để trang điểm; quần áo thực dụng, thường là quần nhung hoặc váy bằng vải din. Nàng không thể là đối tượng của những giấc mơ gợi dục.

Nhưng Ford đã luôn nói rằng nàng có đôi môi đáng hôn nhất mà anh từng thấy, và nàng thấy xấu hổ vì Kristian đã nhìn rất chăm chú vào môi nàng. Để làm cậu ta sao lãng, nàng nói, “Okay, hãy đi xem chương trình hay ho này nào.” Nàng hi vọng chiếc Chevelle sẽ nhanh chóng thực hiện phép màu của nó, và lùa vào trong mắt Kristian một cô gái thông minh nào đó thích cả mã lực và máy vi tính.

Trông có vẻ biết ơn về sự chuyển đề tài này, cậu ta mở một hộp nhựa ra và lấy một chiếc đĩa mềm, rồi cho nó vào trong ổ đĩa. Grace tránh sang bên để cho cậu ta dễ gõ bàn phím hơn. Cậu ta chỉ cho máy truy cập vào ổ A, có tiếng kêu ro ro, và một menu hiện ra trên màn hình. (giờ đọc lại mấy cái thao tác từ hồi máy tính thô sơ thế này thấy kì kì sao ta)

“Chị dùng ngân hàng nào?” Kristian hỏi. Grace nói tên cho cậu ta, nhíu mày khi nàng nhìn xuống dưới menu. Kristian kéo con trỏ vào mục cậu ta muốn, kích vào nó, và màn hình lại thay đổi. “Bingo,” cậu ta la lên khi một menu mới xuất hiện, lần này là các dịch vụ của ngân hàng. “Em có giỏi không, hử?”

“Em đang phạm pháp, đó là việc em đang làm!” Kinh hoàng, Grace theo dõi cậu ta chọn một mục khác, kích vào đó, rồi gõ “St. John, Grace” vào. Ngay lập tức một ghi chép về các giao dịch tài khoản séc của nàng hiện lên trên màn hình. “Em đang hack mạng máy tính của ngân hàng! Ra khỏi đó ngay trước khi em gặp rắc rối lớn. Chị bảo ra ngay, Kris! Đây là trọng tội đấy. Em bảo chị là em có một chương trình kế toán, chứ không phải là một cửa sau để vào mọi ngân hàng trong khu vực này.”

“Chị không muốn biết em làm thế nào à?” cậu ta hỏi, rành rành thất vọng vì nàng đã không chia sẻ sự thích thú với trò ma mãnh này. “Em không ăn trộm hay gì cả. Cái này sẽ cho chị xem mỗi tấm séc cần bao lâu mới được thanh toán, để chị có thể lập một khung thời gian. Vài nơi chỉ nhận tiền một tuần một lần. Chị có thể kiểm soát dòng tiền mặt của mình tốt hơn nếu chị biết mỗi tấm séc cụ thể cần bao lâu mới được thanh toán. Bằng cách đó, nếu chị có một tài khoản séc chịu lãi, chị có thể điều chỉnh thời gian chi trả của mình để cho số dư trung bình của chị không bao giờ dưới mức tối thiểu.”

Grace chỉ đơn giản nhìn chằm chằm vào cậu ta, kinh ngạc trước cách bộ não cậu ta làm việc. Với nàng, các vấn đề về tiền nong rất dễ hiểu: bạn thu vào số tiền X, và bạn phải giữ các chi phí của mình dưới con số đó. Đơn giản. Từ lâu nàng đã quyết định có hai loại người trên trái đất: những con người toán học, và những con người phi toán học. Nàng là một phụ nữ thông minh; nàng đã có bằng Tiến sĩ. Nhưng sự phức tạp của toán, dù là liên quan tới tài chính hay vật lý lượng tử, đơn giản là không bao giờ hấp dẫn với nàng. Từ ngữ, chà… nàng hân hoan trong từ ngữ, đầm mình hết mức trong những sắc thái ý nghĩa, vui sướng trong ma thuật của chúng. Ford thậm chí còn ít quan tâm tới toán học hơn nàng, đó là lý do vì sao nàng quản lý cuốn sổ séc. Bryant đã cố gắng; anh đọc phần tài chính trong các tờ báo, mua dài kì tạp chí đầu tư – trong trường hợp có lúc nào anh đủ tiền để đầu tư – nhưng anh không thực sự ham thích với chúng. Sau mười lăm phút ngụp lặn trong những tạp chí đầu tư của mình, anh sẽ vứt nó sang một bên và với tới cái gì đó, bất kể cái gì, viết về khảo cổ học.

Nhưng Kristian là một con người toán học. Grace không nghi ngờ gì việc cậu ta sẽ thành tỷ phú vào tuổi ba mươi. Cậu ta sẽ viết một chương trình phần mềm tuyệt vời nào đó, đầu tư một cách khôn ngoan để kiếm lời, và nghỉ hưu một cách hạnh phúc để lao vào những chương trình sáng tạo hơn.

“Chị chắc nó sẽ là một lợi ích thực sự đối với những người gửi tiền,” nàng nói khô khan, “nhưng cái này bất hợp pháp. Em không thể rao bán nó.”

“Ồ, nó không phải để tung ra công khai, chỉ để chơi chơi thôi. Chị sẽ nghĩ đáng lẽ các ngân hàng phải có hệ thống bảo mật tốt hơn, nhưng em chưa tìm thấy một cái nào thực sự là thử thách.”

Grace tựa cằm lên tay và nhìn cậu ta. “Nhóc ơi, hoặc em sẽ nổi tiếng, hoặc sẽ vào tù.”

Cậu ta cúi đầu, cười toe toét. “Em còn có thứ khác cho chị xem,” cậu ta nhiệt tình nói, những ngón tay lia qua bàn phím khi thoát khỏi các ghi chép kế toán của ngân hàng.

Grace nhìn theo khi màn hình nhanh chóng thay đổi, chuyển từ mục này sang mục khác. “Họ có thể biết em đã vào trong hồ sơ của họ không?”

“Không với cái này. Nhìn này, em đã vào bằng một mật khẩu chuẩn. Về cơ bản, em đã khoác vào tấm lông cừu điện toán, và họ sẽ không bao giờ biết có một con sói đang lùng sục xung quanh.”

“Làm sao em lấy được mật khẩu?” “Rình mò. Bất kể thông tin được mã hoá thế nào, cũng luôn có một cửa sau. Không có nghĩa là ngân hàng có hệ thống bảo mật tốt lắm đâu,” cậu ta nói với sự không bằng lòng rõ ràng. “Nếu em là chị, em sẽ cân nhắc chuyển tài khoản đi.”

“Chị sẽ nghĩ về việc đó,” nàng đảm bảo với cậu ta, với một cú lườm đe doạ làm cho cậu ta lại cười toe toét.

“Đó chỉ là một phần của chương trình thôi. Đây mới là hệ thống kế toán.” Cậu ta kéo một màn hình khác lên và ra hiệu cho Grace tới gần hơn. Nàng ngoan ngoãn kéo ghế lên trước mấy phân, và cậu ta lao vào đứa con phần mềm phức tạp của mình. Grace tập trung chú ý, bởi vì nàng có thể dễ dàng thấy rằng đây là một hệ thống rất tốt, bề ngoài thì rất dễ thao tác. Cậu ta đã thiết kế để nó so sánh các thu chi hiện tại với thu chi trong quá khứ của cùng một tài khoản, để nếu ai đó vô tình gõ $115 thay vì $15 chẳng hạn, chương trình sẽ báo động với người dùng số tiền không nằm trong phạm vi đã thiết lập từ trước, và kiểm tra xem có bị nhập nhầm số không.

“Chị thích nó,” nàng đùa. Nàng đã luôn trả các hoá đơn và làm việc kế toán theo cách cũ, bằng tay và trên giấy trắng mực đen. Tuy nhiên, nàng hoàn toàn thoải mái với máy tính, vì thế không lý do gì nàng không làm những việc tính toán tài chính trong gia đình trên máy cả.

Kristian sáng mắt lên. “Em biết chị sẽ thích mà.” Những ngón tay dài của cậu gõ vào phím, tải chương trình vào ổ đĩa của nàng. “Tên nó là Go Figure (khám phá xem).”

Nàng rên lên trước sự mưu mẹo cũ rích của nó, và tiếng rên nửa chừng biến thành tiếng cười. “Làm ơn làm phước. Khi em bị bắt vì mọ mẫm các máy tính của ngân hàng, đừng nói với Cục điều tra là chị có một bản copy của chương trình nhé?”

“Em bảo chị rồi, nó an toàn mà, ít nhất là đến khi các ngân hàng thay đổi toàn bộ mật khẩu của họ. Lúc ấy thì chỉ đơn giản là chị không vào được. Em có thể vào,” cậu ta huênh hoang, “nhưng hầu hết mọi người thì không. Đây, để em cho chị một danh sách các mật khẩu.”

“Chị không muốn,” nàng vội nói, nhưng Kristian lờ nàng đi. Cậu ta lục lọi một chồng giấy tờ và kéo ba tấm giấy in chữ dày đặc ra nhét vào trong cặp của nàng.

“Đó. Giờ chị sẽ có khi nào cần.” Cậu ta dừng lời, nhìn chằm chằm vào máy tính với ván cờ đang tiếp diễn. Đối thủ của cậu ta vừa mới đi. Cậu ta quan sát bàn cờ, đầu hơi nghiêng sang một bên, rồi cười như nắc nẻ. “A ha! Em biết trò thí tốt đó, nhưng không được đâu.” Cậu ta vui vẻ di chuyển một quân Mã và kích chuột.

“Em đang chơi với ai đấy?”

“Không biết,” cậu lơ đãng nói. “Anh ta tự gọi mình là Fishman.”

Grace chớp mắt, nhìn chằm chằm vào màn hình. Không, không thể nào. Kristian đang chơi với người nào đó có lẽ là đã chọn tên trên mạng như thế với suy tính sâu xa, để lừa mọi người đi đến chính cái giả định ấy. Bobby Fisher[20] thực sự sẽ không lướt Net để tìm đối thủ; ông ta có thể chơi với bất kì ai, ở bất kì nơi nào, và được trả những khoản tiền lớn để làm việc ấy.

“Thường thì ai thắng?”

“Bọn em hoà. Anh ta giỏi phết,” Kristian công nhận khi cắm lại dây vào máy tính khác của cậu ta.

Grace mở ví và kéo cuốn sổ séc của mình ra. “Muốn ăn pizza không?” nàng hỏi.

Đầu cậu ngẩng lên khi kéo tâm trí khỏi thế giới ảo để kiểm tra tình trạng cái dạ dày. “Trời, em có bao giờ muốn đâu,” cậu ta tuyên bố. “Em đang chết đói đây.”

“Vậy thì gọi đi; để chị trả cho.”

“Chị có ở lại và ăn cùng em không?” Nàng lắc đầu. “Chị không thể. Chị có việc đang chờ ở nhà.” Nàng gần như không kìm nổi đỏ mặt. Ford sẽ rống lên cười nếu anh nghe được nàng.

Nàng viết một tờ séc năm mươi đô, rồi kéo một tờ hai mươi ra để trả cho bánh pizza. “Cám ơn cưng. Em là phao cứu sinh đấy.”

Kristian cầm tờ séc và tiền boa, toe toét cười khi nhìn thấy chúng. “Đây sẽ là một nghề nghiệp tốt đấy nhỉ?” Cậu ta nói, mắt sáng lên.

Grace phải cười lớn. “Nếu em có thể ở ngoài nhà tù.” Nàng đặt chiếc laptop vào trong cặp và đặt cái modem đã được sửa xong lên trên chiếc túi chưa kéo khóa. Kristian cầm lấy cái cặp nặng từ tay nàng một cách hào hoa và mang nó xuống nhà cho nàng. Nàng không thấy cả bố và mẹ cậu ta, nhưng tiếng súng và ô tô rượt đuổi nhau vẳng lại từ phòng làm việc đã chỉ ra vị trí của họ; cả hai người lớn nhà Sieber không ngại ngùng thích những bộ phim hành động của Arnold Schwarzenegger.

Sự hào hoa của Kristian chỉ tới được đúng chỗ bếp, khi ở gần với thức ăn nhắc cậu ta nhớ tới chiếc pizza còn chưa gọi. Grace lấy lại cái cặp đựng máy tính từ tay cậu khi cậu dừng lại ở điện thoại treo trên tường. “Cám ơn, Kris,” nàng nói, và rời đi cùng đường với lúc đến, ngang qua căn phòng giặt tối đen và ra cửa sau. Nàng dừng lại một lát để mắt quen với bóng tối. Trong thời gian nàng ở chỗ Kristian, mây đã kéo tới chắn gần hết ánh sao, mặc dù đây đó vẫn còn những khoảng trời trong. Dế kêu rí rắt, và một làn gió mát lạnh thổi quanh nàng, mang theo mùi cơn mưa.

Ánh đèn từ cửa sổ nhà bếp của nàng, cách năm mươi yard về phía tay phải, giống như một ngọn hải đăng. Ford đang ở đó, chờ nàng về. Nàng thấy lòng mình ấm áp và nàng mỉm cười khi nghĩ về anh. Nàng đã bắt đầu bước về phía nhà nàng, cẩn trọng trong bóng tối để không bị vấp vào những mố trên mặt đất, cỏ mềm mùa xuân làm êm bước chân nàng.

Nàng đang ở sân sau nhà Murchison khi nhìn thấy ai đó trong bếp nhà nàng, thoáng hiện nơi cửa sổ khi anh ta di chuyển. Grace dừng chân, hơi nhíu mày; người đó trông không giống Ford hay Bryant.

Ôi, Chúa, họ có khách. Nàng nhíu mày hơn nữa. Có thể là ai đó quan tâm tới khảo cổ học hay là làm việc với Tổ chức. Những sinh viên cao đẳng đang cân nhắc về nghề nghiệp này thi thoảng cũng qua chỗ họ để nói chuyện, và đôi khi nàng là người mà họ muốn gặp, nếu họ có vấn đề với những khoá học tiếng Latin hay Hi Lạp. Không quan trọng. Nàng không muốn nói chuyện phiếm, nàng muốn đi ngủ với chồng nàng.

Nàng miễn cưỡng bước vào, mặc dù tất nhiên nàng phải vào; nàng không thể đứng chờ trong bóng tối tới khi người nào đó đi về, có thể mất đến hàng giờ. Nàng ngó nghiêng bên phải, cố nhìn xem có nhận ra chiếc xe của người khách không, hi vọng rằng nó thuộc về một trong những người bạn của Bryant. Nếu thế, nàng có thể ra hiệu cho anh trai mang bạn sang bên nhà anh ấy.

Chiếc Buick quen thuộc của nàng nằm ở nhà để xe, và bên cạnh đó là chiếc Jeep Cherokee đen của Bryant. Chiếc xe bán tải Chevrolet bốn bánh dẫn động xước xát và móp méo của Ford, vốn được dùng để làm việc, đậu một bên. Không có chiếc xe nào trên lối lái xe nhà họ.

Thật kì lạ. Nàng biết họ có khách, bởi vì người đàn ông nàng thoáng thấy có mái tóc vàng cát, và cả Ford và Bryant đều có tóc tối màu. Nhưng trừ khi đó là một người hàng xóm ghé qua, nàng không biết làm sao anh ta tới đây được. Mặc dù vậy nàng biết hầu hết hàng xóm của họ, và không ai phù hợp với nhân dạng của người nàng vừa nhìn thấy.

Chà, nàng sẽ tìm ra anh ta là ai khi vào trong nhà. Nàng bước một bước về phía ngôi nhà và đột ngột dừng lại lần nữa, ngó nghiêng trong bóng tối. Cái gì đó di chuyển giữa nàng và ngôi nhà, cái gì đó đen tối và lén lút.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống nàng. Sự báo động lạnh như băng chạy trong huyết mạch nàng, làm nàng bất động tại chỗ. Những khả năng điên rồ nháng qua trí óc nàng: một con vượn thoát khỏi vườn thú … hay một con chó rất, rất to trong sân sau nhà nàng.

Rồi nó lại di chuyển lần nữa, tiến tới cửa sau nhà nàng êm ái như ma. Đó là một người đàn ông. Nàng chớp mắt kinh ngạc, tự hỏi tại sao ai đó lại lẩn lút quanh sân nhà nàng, và đi vào cửa sau thay vì cửa trước. Một vụ cướp? Sao lại có tên trộm nào có nửa bộ óc mà đột nhập vào một căn nhà sáng đèn và rõ ràng là có người ở nhà thế chứ.

Rồi cửa sau mở ra, và nàng nhận ra gã đàn ông vừa mới gõ lên cửa, mặc dù rất khẽ, bởi vì nàng chẳng nghe thấy gì cả. Một gã khác đứng trên cửa, một người đàn ông nàng biết. Có một khẩu súng, nòng súng dài và dày khác lạ trong tay hắn.

“Không có gì,” gã đầu tiên nói, giọng nói thấp, nhưng không khí ban đêm mang tiếng nói đi xa.

“Chết tiệt,” gã kia lẩm bẩm, bước sang một bên để gã đầu tiên đi vào. “Tôi không thể dừng lại được. Chúng ta phải làm nốt cho xong.”

Cánh cửa đóng lại đằng sau họ. Grace nhìn chằm chằm ngang khoảng sân tối vào cánh cửa sau trơ trọi của nhà nàng. Tại sao Parrish Sawyer lại ở đây, và tại sao ông ta lại có súng? Ông ta là sếp của họ, và nếu ông ta gọi đến báo trước là sẽ ghé qua, vì bất kể lý do gì, thì Ford sẽ gọi nàng về ngay. Họ có mối quan hệ thân ái với Parrish, nhưng họ chưa bao giờ giao tế với nhau; Parrish sống trong tầng lớp tách biệt của những người giàu có và nhiều quan hệ, những phẩm chất mà gia đình Grace không có.

“Làm đi” – là những gì ông ta nói. Làm cái gì? Và tại sao ông ta không thể dừng lại?

Choáng váng và khó chịu, Grace rời bỏ bóng tối của sân nhà Murchison và bước ngang qua sân nhà nàng. Nàng không biết đang có chuyện gì, nhưng nàng chắc chắn sẽ tìm ra.

Hồi nãy trong lúc nấu ăn nàng đã mở một cửa sổ bếp để có thể thưởng thức bầu không khí trong lành của mùa xuân, và nó vẫn còn mở. Nàng nghe rõ ràng Ford nói, “Khốn kiếp, Parrish, chuyện này là vì cái gì?”

Giọng Ford thô ráp, giận dữ, với một âm điệu nàng chưa từng nghe thấy. Grace đông cứng lần nữa với bước chân đặt trên bậc thềm đầu tiên.

“Cô ta đâu?” Parrish hỏi, lờ đi câu hỏi của Ford. Giọng ông ta lạnh nhạt và lạnh lùng, và âm thanh của nó khiến tóc tai nàng dựng đứng cả lên.

“Tôi nói rồi, ở thư viện.” Nói dối. Ford đang cố tình nói dối. Grace đứng bất động, nhìn chằm chằm vào cửa sổ mở toang và cố hình dung ra cảnh đang diễn ra bên kia bức tường. Nàng không thể trông thấy ai, nhưng nàng biết có ít nhất bốn người trong nhà. Bryant và người đàn ông nàng nhìn thấy qua cửa sổ ở đâu?

“Đừng có trêu ngươi tao. Xe của cô ta ở đây.”

“Cô ấy đi cùng bạn.”

“Tên người bạn là gì?”

“Serena, Sabrina hay cái gì đại loại thế. Hôm nay là lần đầu tiên tôi gặp cô ta.”

Ford luôn luôn ứng biến rất nhanh. Những cái tên hơi khác thường một chút đủ để lời nói dối thêm trọng lượng, trong khi một cái tên Sally đơn giản không làm được. Nàng không biết tại sao Ford đang nói dối, nhưng thực tế anh đang nói cũng đủ với nàng. Parrish có một khẩu súng, và Ford không muốn hắn ta biết Grace đang ở đâu; có cái gì đó rất sai.

“Được rồi.” Nghe như là Parrish thở ra qua hai kẽ răng. “Mấy giờ cô ta sẽ về?”

“Cô ấy không biết. Cô ấy nói họ có rất nhiều việc phải làm.”

“Tao đoán là đến khi thư viện đóng cửa. Và cô ta đã mang tất cả tài liệu theo cùng.”

“Chúng ở trong cặp đựng máy tính của cô ấy.”

“Cái cô Serena-Sabrina này có biết gì về các tài liệu không?”

“Tôi không biết.”

“Không thành vấn đề.” Giờ nghe Parrish có vẻ chán nản. “Tao không thể mạo hiểm. Đuợc rồi, đứng dậy mau, cả hai.”

Nàng nghe thấy tiếng ghế bị kéo lùi, và nàng khẽ di chuyển sang phải, để có thể nhìn bên trong cửa sổ. Nàng cẩn thận đứng lùi lại để bất kì ai liếc qua cửa sổ không nhìn thấy nàng trong vòng ánh sáng.

Nàng thấy Bryant, không mặc áo, tóc tai ướt nhẹp; chắc hẳn anh đã bị lôi ra khỏi buồng tắm, điều đó cho nàng biết Parrish và gã đàn ông kia chỉ vừa mới tới không bao lâu. Khuôn mặt anh trai nàng buồn bã và nhợt nhạt, đôi mắt trống rỗng kì lạ. Grace di chuyển thêm một bước, và nhìn thấy bốn người nữa.

Có Ford, cũng nhợt nhạt như Bryant, mặc dù đôi mắt anh ánh lên một nét giận dữ mà nàng chưa từng thấy. Parrish, cao lớn và sành điệu, mái tóc vàng được tạo kiểu cầu kì, đứng quay lưng về phía cửa sổ. Gã đàn ông nàng thấy lúc nãy đứng bên cạnh hắn, và một gã khác đứng ngay bên trong cửa vào nhà bếp. Gã đàn ông ở lối vào bếp có vũ khí; khẩu súng của hắn, cũng như của Parrish đã được gắn giảm thanh. Grace nghĩ gã thứ ba cũng có vũ khí, vì hai gã kia đều có.

Nàng không biết đang có chuyện gì, nhưng nàng chắc chắn một điều: nàng cần cảnh sát. Nàng sẽ gọi họ từ nhà Sieber. Nàng cẩn thận lùi lại một bước.

“Đi vào trong phòng ngủ, cả hai đứa,” nàng nghe Parrish nói. “Và đừng làm việc gì ngu ngốc, giống như là nhảy bổ vào một trong chúng tao. Tao không thể nói bị bắn thì đau đến mức nào, nhưng tao sẽ buộc phải minh hoạ nếu chúng mày không hợp tác.”

Tại sao hắn lại bắt họ vào trong phòng ngủ? Nàng đã nghe đủ để biết rằng nàng mới là người hắn thực sự muốn, và dường như hắn quan tâm tới những tài liệu nàng đang cầm.

Nếu Parrish muốn tập tài liệu, tất cả những gì hắn phải làm là nói ra; hắn là sếp của nàng, và nàng đang làm công việc hắn giao cho nàng. Nàng sẽ tan nát trái tim khi phải từ bỏ những tài liệu đáng kinh ngạc này, nhưng nàng không thể ngăn hắn lấy nó. Tại sao hắn không chỉ việc gọi điện đến, và bảo nàng trả lại hắn vào sáng ngày mai? Tại sao hắn lại tới nhà nàng với một khẩu súng trên tay, và mang theo hai gã khác cũng có súng đi cùng? Vô lý hết sức.

Nàng đã bắt đầu rảo bước trở lại nhà Sieber, nhưng sự bốc đồng mang nàng tới góc nhà nơi nàng có thể nhìn qua cửa sổ phòng ngủ. Nàng chờ cho ánh sáng bật lên, chờ nghe thấy giọng nói trong phòng, nhưng không có gì, và đột nhiên nàng nhận ra Parrish mang họ lại phòng ngủ của Bryant, ở phía kia của ngôi nhà. Theo kết cấu của ngôi nhà lúc họ phân chia, phòng ngủ của Bryant ở phía sau cùng với nhà bếp. Parrish chắc đã mang họ đi theo hành lang tới phía trước ngôi nhà, rồi ngang qua cửa thông tới nhà của Bryant và trở lại phòng ngủ.

Grace lùi bước nhanh hết mức có thể, cẩn thận để vẫn ở trong bóng tối. Một ống nước cuộn tròn như một con rắn dài, thân mỏng dẹt quấn quanh vòi nước nhô lên bên ngoài; nàng đi men theo nó, và cũng bước ngang qua một cái sàng đất to mà một trong hai người đàn ông đã dựa cạnh nhà. Đây là nhà nàng; nàng biết tất cả những đặc tính của nó, những cái bẫy nhỏ cho những người không để ý. Nàng biết chỗ nào trên sàn bị ọp ẹp, chỗ nào trên trần bị nứt, chỗ nào trên sân có rễ cây.

Đèn đã sáng từ cửa phòng Bryant. Nàng dựa lưng vào tường và bước ngang cho đến khi nàng ở ngay bên dưới cửa. Nàng quay đầu, chầm chậm, cố di chuyển vừa đủ để nhìn vào trong.

Một trong những gã đàn ông bước tới cửa sổ. Grace giật đầu trở lại và đứng hoàn toàn bất động, thậm chí không dám thở nữa. Hắn giật màn cửa, che chắn cửa sổ và làm mờ ánh sáng từ đó phát ra.

Máu phập phồng trong tai nàng, và nỗi kinh hoàng làm nàng yếu đi. Nàng vẫn không thở được; tim nàng như đã nhảy lên cổ họng, làm nàng nghẹt thở. Nếu gã đàn ông thấy nàng có thể nàng đã bị bắt, vì nàng không thể nào di chuyển được.

“Ngồi lên giường,” nàng nghe Parrish nói qua tiếng tim đập thình thịch.

Cuối cùng phổi của Grace cũng hoạt động lại. Nàng hít vào không khí để bình ổn các dây thần kinh, rồi một lần nữa chuyển vị trí.

Tấm rèm không hoàn toàn rủ hết. Nàng di chuyển để có thể nhìn qua khe, thấy Ford và Bryant.

Parrish bình thản nâng khẩu súng giảm thanh của hắn lên và bắn vào đầu Ford, rồi nhanh chóng chuyển sang nhắm và bắn Bryant. Anh trai nàng chết trước cả khi thi thể chồng nàng ngả sang một bên.

Không. Không! Nàng bám lấy chỗ đó, tê liệt. Bằng cách nào đó cơ thể nàng đã chết, đã biến mất; nàng không thể cảm nhận được gì, không thể nghĩ gì. Một màn sương tối đen quẩn trước mặt nàng và cảnh tượng không thể tin được ấy lùi dần cho đến lúc giống như nàng nhìn thấy nó ở cuối một đường hầm dài. Nàng nghe thấy bọn chúng nói chuyện, giọng chúng méo mó một cách kì cục.

“Chẳng phải ông nên chờ? Sẽ có khác biệt về thời điểm của cái chết.”

“Không cần quan tâm.” Giọng của Parrish; nàng biết thế. “Trong một vụ giết người-tự tử, đôi khi tên sát nhân chờ một lúc trước khi hắn tự giết mình – hay trong trường hợp này là cô ta. Bị sốc, anh biết đấy. Thật là tội nghiệp, chồng và anh trai cô ta tằng tịu với nhau trong một mối quan hệ đồng tính luyến ái ngay dưới mũi cô ta. Chẳng trách sinh vật tội nghiệp đau khổ và quá khích.”

“Còn người bạn thì sao?”

“À, phải. Serena-Sabrina. Vận rủi cho cô ta; cô ta sẽ gặp một tai nạn không may trên đường về nhà. Tôi sẽ chờ Grace ở đây, còn anh chờ trong xe, theo dõi Serena-Sabrina.”

Màn sương dần dần tan ra khỏi tầm nhìn của Grace. Nàng ước chi nó không tan. Nàng ước chi nàng đã chết ngay tại chỗ, ước chi trái tim nàng đã ngừng đập. Qua khe hở trên tấm màn cửa nàng có thể nhìn thấy chồng nàng nằm ngửa, mắt mở lớn và bất động, mái tóc đen đẫm… đẫm… m thanh dâng lên đến ngực nàng, và một tiếng kêu buốt nhói câm lặng bị chặn ngang cổ họng. Nàng cố nén nó lại bằng cách nghiến răng, nhưng dù thế nó vẫn trào ra, nguyên thuỷ, hoang dại.

Đầu Parrish quay ngoắt ra sau. Trong một phần mười giây - không hơn – nàng nghĩ rằng ánh mắt họ đã chạm nhau, bằng cách nào đó hắn có thể nhìn xuyên qua khoảng hở nhỏ hẹp vào trong đêm tối. Hắn nói gì đó, gay gắt, và lao đến bên cửa sổ.

Grace lao mình vào bóng đêm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.