Tinh mơ
hôm sau, tiếng kẹt cửa làm tôi thức giấc. Tôi gắng gượng hé đôi mắt vẫn đang
đói ngủ của mình và lơ mơ thấy một bóng dáng cao gầy đang đứng giữa căn phòng
ngập ánh sáng.
- Rajiva,
sao đến sớm vậy…
- Tôi…
tôi… xin lỗi.
Ngược
sáng, không thấy rõ biểu cảm trên gương mặt cậu ấy, chỉ nghe trong giọng nói có
chút ngượng ngùng. Rajiva vội vã lui ra ngoài, lại một tiếng kẹt cửa trả lại
bóng tối cho căn phòng.
Tôi
nhìn đồng hồ, mới bảy rưỡi sáng. Chết thật, tôi quên mất, ngày nào cậu ấy cũng
thức dậy lúc hơn bốn giờ, từ năm giờ đến sáu giờ là thời gian tụng kinh buổi
sáng, sau đó mới đến bữa sáng. Giờ này, với cậu ấy, đã không còn sớm sủa gì
nữa. Nhưng tôi vẫn còn muốn ngủ, lại ngả xuống vớt vát thêm vài phút, sau đó
mới uể oải xuống giường.
Khoảng
chín giờ tôi cùng Rajiva ra khỏi nhà. Thành phố Subash bé nhỏ khi ấy đã tấp nập
người qua lại, nhà sư, cư sĩ, thương nhân đủ cả, dòng người đông đúc trên phố
xá chật chội. Tôi không muốn Rajiva khó xử, nên ý tứ giữ khoảng cách với cậu
ấy. Rajiva đi trước, tôi theo sau, chốc chốc cậu ta lại dừng bước, ngoảnh đầu
quan sát, rồi mới đi tiếp.
Có vẻ
như Rajiva rất được lòng người dân nơi đây. Trên đường đi, hầu hết mọi người
đều lại gần chắp tay hành lễ với cậu ấy. Một đôi vợ chồng ẵm theo đứa trẻ sơ
sinh đến xin Rajiva cầu phúc. Cậu ấy xoa đầu em bé, lầm rầm đọc một đoạn kinh
văn. Vợ chồng nọ vui mừng khôn tả, chắp tay tạ ơn, vẻ mặt hân hoan, mãn nguyện
khi ra về. Rajiva quay lại nhìn tôi cười rạng rỡ, rồi tiếp tục bước đi, chốc
chốc lại dừng bước đáp lễ với người đi đường.
Ra khỏi
thành Subash là đến cổng chính của khu chùa Cakra phía tây. Ấn tượng ban đầu
của tôi về ngôi chùa này là những vọng lâu được trang trí rất bắt mắt phía trên
bức tường bao quanh. “Khâu Từ có hơn mười nghìn nhà sư, chiếm một phần mười dân
số trong thành”. Chỉ riêng ở chùa Cakra đã có đến năm nghìn sư. Sự hưng thịnh
của Phật giáo ở Khâu Từ được thể hiện sống động qua hình ảnh ngôi chùa Cakra
nguy nga, đồ sộ. Tuy vậy, thời điểm này vẫn chưa phải là giai đoạn cực thịnh
của Chiêu Hộ Li tự. Quy mô ngôi chùa vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với thời nhà
Đường, khi Huyền Trang đi lấy kinh qua đây. Khi mang thai Rajiva, “năng lực
giác ngộ của Jiva tăng lên gấp bội. Bà nghe danh tiếng ngôi chùa Cakra đã lâu,
lại nghe nói trong chùa có nhiều vị cao tăng đắc đạo, bèn cùng với những tín nữ
quý tộc khác và các ni cô ngày đêm nhang khói lễ bái, ăn chay niệm Phật”. Hẳn
là, ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Rajiva đã “thấm nhuần” giáo lý Phật pháp.
Trí tuệ siêu phàm của cậu ấy phải chăng có được từ bối cảnh đặc biệt này?
Ý nghĩ
đó khiến tôi bật cười.
Chúng
tôi bước đến một bức tường thành thấp hình vuông bên ngoài cổng chính. Bên
trong có một điện thờ đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lập tức dập tắt những
ý nghĩ lan man, lấy lại tinh thần chuyên nghiệp thường ngày, chuẩn bị lôi cuốn
tập ra và bắt tay vào công việc.
- Ngải
Tình, không cần vội. Để tôi đưa cô đi tham quan hết một vòng, rồi quay lại vẽ
cũng chưa muộn.
- Thật
không?
Tôi
mừng quýnh!
- Đúng
rồi! Cậu là chủ trì, cậu có đặc quyền mà! Vậy, ngày nào tôi cũng đến đây vẽ
nhé?
- Được
chứ!
Rajiva
mỉm cười. Những chùm nắng đầu hạ rực rỡ chiếu rọi làm bừng sáng cả con người
cậu ấy, toát lên thứ hào quang khiến tôi không dám nhìn thẳng.
Tôi ép
mình ngoảnh đi hướng khác.
- Rajiva,
khối ngọc khổng lồ dưới chân tượng Phật nằm ở đâu vậy? Đưa tôi đến đó xem đi!
- Cô biết
về khối ngọc này?
Rajiva
có vẻ ngạc nhiên, ánh mắt nhìn tôi như thăm dò.
- Đây là
báu vật của chùa Cakra kia mà!
Làm sao
tôi biết được ư? Đơn giản thôi! Câu trả lời là: Huyền Trang đã được tận mắt
chứng kiến và ghi chép lại trong “Đại Đường Tây vực ký”. Cuối thế kỷ XIX, một
nhà sưu tầm đồ cổ người Nga đã đào được khối ngọc này, ông ta còn ngu xuẩn hết
mức khi đập vỡ nó làm đôi với ý đồ sẽ vận chuyển về nước. Nhưng người dân địa
phương đã kịp thời ngăn chặn và bảo vệ được khối ngọc quý. Sau giải phóng, khối
ngọc đã được đưa về trưng bày tại Viện bảo tàng tự nhiên Bắc Kinh. Nửa khối to
nặng khoảng hơn một nghìn hai trăm kilôgam, nửa khối nhỏ hơn nặng khoảng hơn
bảy trăm kilôgam. Còn bây giờ, không cần thiết phải đến Bắc Kinh, tôi vẫn có
thể chiêm ngưỡng khối ngọc ấy và là khối ngọc hoàn chỉnh, bạn nói xem, tôi có
nên sung sướng hay không? Bởi vậy, khi Rajiva đưa tôi vào một điện thờ nhỏ
nhưng được trang trí nguy nga, tráng lệ phía sau gian thờ chính và tận mắt nhìn
thấy khối ngọc khổng lồ trong suốt, giống hình một con ngao biển với hai màu
trắng và vàng đan xen ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ vì không mang theo máy ảnh. Khối
ngọc rộng khoảng hơn ba mươi centimét, dài hơn nửa mét, cao hơn mười centimét.
Dấu chân Phật tổ được in thành hình hai vết lõm rất tự nhiên giữa khối ngọc.
Những hình ảnh phác họa dấu ấn như thế này có rất nhiều. Bạn có thể bắt gặp dấu
chân của đại sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) ở bất cứ đâu trên khắp vùng Tây
Tạng, chỉ khác đó là hình phác họa trên những cây cối và sỏi đá tự nhiên, để
Phật tử có thể cảm nhận được một cách chân thực pháp lực vô biên của Phật.
Nhưng
tôi không nói điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước Rajiva,
chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi
điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy hút về phía
sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u kỳ lạ và cảm
giác như nó kéo dài đến vô tận.
Thấy
tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhẹ nhàng lên
tiếng:
- Đó là
nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó.
Thọ đại
giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt nghiệp
đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi đã thọ giới
Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành một Tỷ khâu
(Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và sự giác
ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai bì kịp. Nhưng, cho dù
đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ
những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Rajiva đã
thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc
giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi.
Tôi đã
từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện
Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa được xây dựng từ
thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi
chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy
mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới.
Bước
chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di không khỏi
dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn bó với kinh kệ,
khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, sẽ gánh
vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó sẽ theo các Sa di
chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới đàn (nơi tăng sĩ thọ
giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa,
những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi
sự sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục…
Tôi
quay đầu nhìn Rajiva đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt
chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần
ai, thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva?
Chúng
tôi bước vào một gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Rajiva liền
cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng
tiếng Phạn. Gian thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn
phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì
trên tay ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng:
“Chúng
sinh độ tận, phương chứng bồ đề
Địa
ngục vị không, thệ bất thành Phật”.
Nghĩa
là:
Cứu độ
chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ
Địa
ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật.
Điều đó
có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội lỗi dưới
Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh
hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền
và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa
Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài.
Tôi
đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ
Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú tiểu từ bên
ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva rồi lẳng lặng lui
ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ trên
tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi
chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt người, là đủ
mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ!
Những
bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn.
Chả
trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ
mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn
dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên
đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.
Tôi có
biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã nài nỉ Rajiva
diễn giải.
- Đây là
địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội sa xuống địa
ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi ngoai nỗi thương
nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi
tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ
tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục
chịu sự trừng phạt như lúc trước.
Giọng
nói của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:
- Những
người mắc tội sát sinh, chà đạp lẽ phải, phỉ báng người ngay đều sẽ sa xuống
địa ngục này.
Vừa
ngắm nhìn các bức vẽ tôi vừa gật đầu, bước chân không ngừng di chuyển theo ánh
sáng ngọn đèn dầu trên tay Rajiva. Điện thờ trống trải chỉ còn lại hai chúng
tôi. Giọng nói ấm áp của Rajiva vang giữa không gian trầm mặc, khoảnh khắc ấy,
cảm xúc trong tôi bỗng trở nên thê lương.
- Đây là
địa ngục hắc thằng (nơi chúng sinh bị trói bằng dây sắt), chúng sinh phạm tội
sẽ bị trói lại bằng dây sắt nung nóng, sau đó tứ chi bị chặt hoặc bị cưa đứt.
Nỗi đau đớn, khổ sở lớn gấp mười lần địa ngục đẳng hoạt. Những người phạm tội
sát sinh, trộm cắp đều sẽ sa xuống địa ngục này.
Ánh đèn
tiếp tục được đẩy về phía trước.
- Đây là
địa ngục chúng hợp (nơi chúng sinh bị núi đá ép chặt), người phạm tội bị đẩy
vào giữa hai núi đá và bị ép chặt cho đến khi xương cốt nát vụn. Phàm những
người mắc tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm đều rơi xuống địa ngục này.
- Đây là
địa ngục khiếu hoán (nơi chúng sinh kêu la thảm thiết), người mắc tội sẽ bị
nướng trên vạc dầu hoặc bị đẩy vào lò lửa, hoặc bị dùng kìm nóng banh miệng, đổ
đồng nóng chảy vào bụng khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thiêu hủy. Phàm những kẻ
mắc tội giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu đều sẽ sa xuống địa
ngục này. Nếu đệ tử Phật môn vi phạm năm điều giới luật, thì dù là người xuất
gia hay người tu tại gia đều sẽ bị sa xuống địa ngục đại khiếu hoán (địa ngục
mà sự trừng phạt khiến chúng sinh kêu la thống thiết gấp rất nhiều lần địa ngục
khiếu hoán).
Tôi
bỗng thấy rùng mình, sự trừng phạt đối với người nhà Phật còn khủng khiếp hơn
cả người thường ư!
- Đây là
địa ngục tiêu nhiệt (nơi chúng sinh bị thiêu đốt), kẻ phạm tội nằm trên sắt
nung, toàn thân bị đánh đến bầm dập vỡ nát. Phàm những kẻ vi phạm năm điều giới
luật đều sẽ bị đẩy xuống địa ngục này.
Ánh
sáng ngọn đèn dầu bỗng nhiên dừng lại, bàn tay người giữ đèn run run. Bóng dáng
cao gầy hắt lên tường, khiến cho những hình ảnh thảm thương cho bức vẽ trở nên
mờ ảo, tan loãng trong những dao động lập lòa của ánh sáng.
- Rajiva,
cậu sao thế?
Tôi
ngước mắt lên nhìn cậu ấy, chúng tôi chỉ cách nhau một bước chân, ánh đèn leo
lét rọi vào khuôn mặt ưu tư, một thoáng u buồn ẩn hiện, nhưng tan đi rất nhanh.
Rajiva lấy lại vẻ điềm tĩnh thường thấy, tiếp tục giảng giải.
- Nếu
tăng sĩ phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà tâm sẽ bị sa xuống địa ngục đại tiêu
nhiệt, mức độ trừng phạt tàn khốc hơn rất nhiều lần so với địa ngục tiêu viêm.
Giọng
nói của Rajiva đượm vẻ chua xót, phải chăng vì lòng trắc ẩn đối với những hình
phạt nặng nề dành cho giới tăng lữ. Phật môn quản giáo đệ tử của mình rất
nghiêm khắc, trong số tám địa ngục lớn, có đến hai địa ngục dành để trừng phạt
những tăng sĩ phạm tội.
Rajiva
lấy lại sự bình tĩnh, bàn tay mang theo chiếc đèn dầu khi nãy bất giác buông
xuống, giờ đã lại được nâng cao.
- Đây là
địa ngục vô gián, hay còn gọi là địa ngục a tỳ, người phạm tội bị hành hình
liên tục, chịu đau đớn khổ sở không lúc nào ngơi nghỉ. Phàm những kẻ phạm phải
năm tội đại nghịch (giết mẹ, giết cha, giết A- la- hán, gây chia rẽ tăng sĩ,
phá hoại hình ảnh của Phật tổ), đều bị đày xuống địa ngục này.
Đó là
bức vẽ cuối cùng, chúng tôi cũng vừa đi hết một vòng tròn.
Rajiva
đặt đèn dầu lên hương án phía trước pho tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, cung kính
quỳ xuống vái ba vái, rồi cùng tôi bước ra khỏi điện thờ.
- Mỗi địa
ngục trong số tám địa ngục lớn lại được chia thành mười sáu địa ngục nhỏ. Tội
ác cũng chia thành ba cấp. Những kẻ phạm tội nặng nhất bị đẩy vào địa ngục lớn,
những kẻ còn lại bị đẩy vào địa ngục nhỏ.
Ánh
nắng rực rỡ bên ngoài xua tan đi những ảm đạm trong lòng, tôi giống như chiến
binh Dante vừa dạo hết một vòng địa ngục, cảm xúc đầy vơi. Kết luận rút ra là:
nhân gian thật tuyệt vời!
Gần đến
giờ trưa, Rajiva dẫn tôi đến nhà ăn dành cho các cư sĩ tu tại gia đến chùa
Cakra cúng bái, cậu ấy ngồi ăn cùng tôi. Rajiva ăn uống từ tốn, quả không hổ
danh là con nhà quý tộc. Nhưng điều khiến tôi thiếu tự nhiên là những ánh mắt
đổ dồn về phía chúng tôi, tuy họ không nói gì, nhưng tôi biết họ nghĩ gì. Tôi
bỗng cảm thấy không thoải mái. Một người như Rajiva nếu sống ở thời hiện đại,
cũng chưa hẳn đã là một sự chọn lựa lý tưởng. Mặc dù nếu có cậu ấy ở bên cạnh,
đi đến đâu, tôi cũng có thể hãnh diện với bạn bè và những người xung quanh,
nhưng cậu ấy quá tài trí, thông minh, lại đẹp trai hút hồn như vậy, sẽ làm lu
mờ hình ảnh của tôi. Không những tôi sẽ phải thấp thỏm lo âu từng giây phút,
canh chừng mọi lúc mọi nơi, đề phòng những cô gái trẻ đẹp khác, mà tôi còn phải
đau đầu tìm cách nâng cao tầm vóc trí tuệ của bản thân để có thể theo kịp cậu
ấy. Cuộc sống mệt mỏi như thế, lấy đâu ra vui vẻ, thoải mái chứ! Cho nên, kết
luận của tôi là: tôi – không – thèm!
- Không
thèm gì vậy?
Tôi
giật mình ngẩng lên, bắt gặp hai vực nước sâu hun hút đang xoáy vào mình, xấu
hổ không biết giấu mặt vào đâu, bối rối không biết phải thanh minh thế nào.
- Các
thầy!
May
quá! Có người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là… là người Hán, hai hòa thượng
người Hán!
Họ trò
chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát đồng hương.
Rajiva
giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin nghe
giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn mắt khi
nghe thấy những cái tên đó.
Tăng
Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này!
Họ đến Khâu Từ học đạo, sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền
Tần khi ấy là Phù Kiên rằng, Kumarajiva là vị pháp sư tài trí hơn người, là
người đã truyền bá sâu rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây
vực. Một nhà sư nổi tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Kumarajiva
đã lâu, cũng thuyết phục Phù Kiên mời Rajiva đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết
định tấn công Khâu Từ, nhà vua đã nói với Đô đốc Lữ Quang rằng: “Trẫm nghe nói
Tây Quốc có Kumarajiva, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận âm dương, là một bậc
kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc
gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Kumarajiva về đây”.
Câu
chuyện này đã được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp nơi. Họ cho
rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có được Kumarajiva.
Giống như việc các cô gái tin rằng cuộc chiến thành Troy là vì nàng Helen xinh
đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ
Tô Châu – Trần Viên Viên. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn đã nổ ra và cướp đi
tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì muốn đoạt lấy một người thôi ư,
những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử,
tất nhiên, tôi không tin Phù Kiên phát động chiến tranh chỉ vì muốn có được một
vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực sự hiểu rõ Kumarajiva sẽ mang lại lợi ích gì
cho ông ta hay không? Nhà vua muốn có Kumarajiva chỉ vì cậu ta thông tỏ âm
dương ngũ hành? Một người tài trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng
chỉ vì muốn ông ta coi bói cho mình?
- Ngải
Tình!
Tôi lại
để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại đã thấy hai vị hòa thượng đang hành
lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên mà tôi gặp
sau hai lần vượt thời gian đến đây.
Rajiva
giới thiệu với họ tôi là cháu gái của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ của cậu
và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ, bởi vì
những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những kiến thức
trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử thì nguy.
Sau vài
lời xã giao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng Rajiva. Họ
trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe không hiểu, nên cũng quay đi ngắm nghía
những bức vẽ trên tường.
- Đoạn
kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của chúng sinh
trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy?
Rajiva
giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được một nụ cười
đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc nhiên, nghiêng
tai lắng nghe.
- Đức
Phật nói, mọi tâm niệm đều không thực sự tồn tại, đó chỉ là những ham muốn nhất
thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta đặt cho nó cái hư
danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn trong quá khứ là cái đã
trôi qua, không để lại vết dấu, ta muốn mà không có được. Những ham muốn hiện
tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm bắt. Những ham muốn của tương
lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt.
Trình
độ tiếng Hán của Rajiva đã đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại thêm giọng
nói trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa, khiến mỗi câu mỗi
chữ như làn gió nhẹ vương vào trái tim tôi.
- Vậy
nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn không có Phật pháp để thuyết giảng,
thuyết pháp chỉ là danh xưng. Không những không tồn tại Phật pháp để có thể
thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng không tồn tại.
Dáng
người cao lớn của Rajiva tọa lạc giữa Phật điện, thoáng một nét cười thỏa
nguyện trên vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng thấp nhỏ
chỉ đến vai mình:
- Những
luận giải của Rajiva, không biết hai vị đã nắm rõ hay chưa?
Tăng
Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm đi nhẩm lại lời
Rajiva vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát lên vẻ say mê
trong sự lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Rajiva. Sự tự tin tỏa khắp con người cậu, sức
hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi không dám nhìn thẳng. Tuy tuổi
còn trẻ, nhưng ở Rajiva đã tụ hội đầy đủ phong thái của một bậc danh sư.
Buổi
chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có một quần thể
hang đá, gồm rất nhiều căn phòng tọa thiền của tăng sĩ. Nói là phòng tọa thiền
nhưng thực chất chỉ là một hốc đá nhỏ, đủ chỗ cho một người ngồi lọt vào trong.
Rajiva chỉ cho tôi thấy trên vách tường phía sau có dấu vết in đậm hình hài một
con người. Cậu nói rằng, rất nhiều vị cao tăng theo trường phái tu khổ hạnh đã
từng ngồi thiền ở đây, lâu dần, hình hài của các vị đã in tạc vào vách đá. Phật
giáo Tiểu Thừa coi trọng việc tu hành. Công việc hàng ngày của tăng sĩ chủ yếu
là ngồi thiền trong căn phòng trống không, tĩnh tâm lĩnh hội Phật pháp. Phương
pháp tu hành này xuất phát từ phép thiền Yoga của Ấn Độ. Trước khi giác ngộ,
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã trải qua sáu năm tu hành khổ hạnh. Ngài ngồi
thiền hết ngày này qua tháng khác, ăn uống rất ít, thân xác héo hon. Sau khi
đắc đạo, ngài ăn uống bình thường trở lại và không khoác lên mình chiếc áo cà
sa chắp vá rách rưới nữa. Tuy nhiên, ngài vẫn duy trì thói quen tĩnh tâm tọa
thiền. Điều này đã trở thành một trong những đặc trưng nổi bật của Phật giáo
Tiểu Thừa. Và cũng bởi vậy, trong cấu trúc của các ngôi chùa Phật giáo Tiểu
Thừa, ít hay nhiều đều có những phòng đá tọa thiền dành cho các tăng sĩ.
Có
điều, những căn phòng đó đang hiện ra trống trải không một bóng người trước mắt
tôi. Tôi hỏi Rajiva, cậu mỉm cười.
- Từ khi
tôi tiếp nhận vai trò trụ trì chùa này, đã ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa,
yêu cầu các nhà sư năng ra ngoài giảng đạo, thâm nhập vào đời sống của chúng
sinh, việc tĩnh tâm tọa thiền có thể thực hiện vào lúc thuận tiện.
Mười
năm trước, khi Rajiva vừa tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa đã vấp phải rất nhiều
trở ngại và chịu nhiều lời điều tiếng. Người ta phê phán cậu lén lút học đòi
những giáo lý ngoại đạo sai trái. Trong vòng mười năm, bằng sự thông tuệ, bằng
tài năng thuyết pháp khiến người nghe tâm phục khẩu phục và tận dụng mối quan
hệ với hoàng thất, Rajiva đã dốc toàn tâm toàn sức chuyển hướng tín ngưỡng của
toàn bộ tiểu quốc Khâu Từ sang Phật giáo Đại Thừa. Truyện kể về Rajiva chép
rằng: “Khi ấy số lượng tăng sĩ Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa lên đến hơn
mười ngàn người. Điều này thật đáng kinh ngạc. Từ đó, ai nấy đều tỏ ra kính
trọng và nể phục Kumarajiva”.
- Lại ngơ
ngẩn rồi!
Tôi kéo
lại những suy nghĩ miên man đang vân du tận đâu đâu, đưa mắt lên nhìn khuôn mặt
điển trai của Rajiva.
- Rajiva,
cậu không còn là cậu thiếu niên năm nào lúc còn hoang mang, trăn trở với khát
vọng thay đổi tông phái.
- Đúng
vậy.
Ánh mắt
cậu ấy như phiêu du về với quá khứ, tìm kiếm những những ký ức xa xưa, khóe môi
hé cười.
- Ngải
Tình, nếu không có những lời khích lệ của cô, Rajiva không thể có quyết tâm và
nghị lực mạnh mẽ đến như vậy. Mười năm qua, mỗi khi phải đương đầu với khó khăn,
Rajiva lại nhớ đến những lời cô nói. Phật giáo Đại Thừa xem trọng việc cứu rỗi
chúng sinh, góp phần sửa đổi những khiếm khuyết của Phật giáo Tiểu Thừa. Phải
như vậy, Phật pháp mới được truyền bá rộng rãi, mới cứu độ được nhiều chúng
sinh thoát khỏi bể khổ. Tôi đã dành không ít công sức và tâm sức cho lý tưởng
đó.
Rajiva
đưa mắt dõi nhìn về hướng xa xăm, giọng nói trở nên thanh thoát.
- Phật tổ
phù hộ, đến nay Rajiva đã thuyết phục được triều đình và các bậc tôn sư, Phật
giáo Tiểu Thừa bắt rễ suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ, cuối cùng đã có những cải
biến nhất định.
Đến
trên ngọn đồi này, có thể quan sát toàn bộ quang cảnh chùa Cakra. Sóng nước
dòng sông Tongchang lấp lánh ánh bạc. Bóng chiều đã ngả về tây, phủ lên dáng
hình cao lớn ấy những vệt nắng cuối ngày, gió thổi mạnh làm tung bay vạt áo cà
sa. Con người ấy, thần thái ấy tạc vào không gian của buổi hoàng hôn trên sườn
đồi hình ảnh một chú chim đại bàng đang khát khao tung cánh bay lên bầu trời
bao la. Dưới chân chúng tôi là quần thể đồ sộ, nguy nga những đền đài miếu mạo,
đó là vương quốc của Rajiva và cậu ấy là người cha tinh thần của hàng vạn chúng
sinh trong vương quốc ấy. Đột nhiên tôi nhận ra rằng, mười năm trước tôi vẫn có
thể đàm đạo với cậu ấy về Phật pháp, nhưng giờ đây, tư tưởng của cậu ấy, nhất
là những kiến thức về Phật học, đã vượt lên một cảnh giới cao vời vợi mà tôi
không sao vươn tới được. Tôi chỉ là một người bình thường, nhưng trí thức mà
tôi có, chẳng qua là tích cóp được từ 1650 năm thời gian. Nếu chúng tôi sinh ra
cùng thời đại, tôi cũng sẽ như những người bình thường khác, chỉ có thể lặng lẽ
ngắm nhìn cậu ấy trên đỉnh cao vinh quang và đừng mơ có thể lại gần.
- Rajiva.
Tôi hít
một hơi thật sâu, cùng hướng mắt về khung cảnh nguy nga dưới ngọn đồi.
- Khâu Từ
chỉ có mấy mươi vạn chúng sinh. Còn ở Trung Nguyên, lúc này chiến tranh xảy ra
liên miên, hàng triệu người vẫn đang quằn quại trong bể khổ vô biên, hơn bao
giờ hết, họ đang rất cần sự giải thoát về tinh thần để có thể vượt qua kiếp nạn
này.
- Ngải
Tình, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp luôn là tâm nguyện bấy lâu nay của
Rajiva.
Rajiva
quay lại nhìn tôi, nụ cười ấm áp tựa gió xuân.
- Cô luôn
muốn Rajiva đến Trung Nguyên, Rajiva luôn ghi nhớ điều đó.
Đón lấy
nụ cười dễ làm say lòng người ấy, trái tim khó bảo của tôi lại bắt đầu lạc
nhịp.
Đến giờ
tụng kinh buổi tối, tôi ngỏ ý muốn đi về một mình. Rajiva bây giờ đã là “CEO”
của ngôi chùa lớn nhất Tây vực, cậu ấy không thể tùy tiện như hồi nhỏ, thích
trốn là trốn. Cậu ấy phải biết cân nhắc. Thế nên, Rajiva đã gật đầu, chỉ cho
tôi đường về và dặn rằng hết giờ tụng kinh cậu ấy sẽ đến. Tôi vốn định mở lời
can ngăn cậu ấy đừng đến, vì sợ có điều tiếng không hay. Nhưng ý tứ đã ra đến
đầu lưỡi lại lặng lẽ rút vào. Tôi hiểu rõ tính cách của cậu ấy, Rajiva không
bao giờ để ý đến những lời đàm tiếu. Vả lại, hãy thành thật đi, lẽ nào tôi
không mong chờ gì ư?
Kết quả
là, khi Rajiva xuất hiện trước cổng nhà vào lúc hơn sáu giờ tối thì tôi đang
trong tư thế ngóng đợi, đôi mắt dán vào cánh cổng. Giây phút cánh cổng từ từ mở
ra và một bóng dáng cao gầy hắt lên hàng hiên từ ánh sáng ngọn đèn dầu, tôi
bỗng thấy tiếng trái tim mình đập rộn ràng, tưởng như vang động khắp căn nhà.
Rajiva
tiếp tục chăm sóc vết thương cho tôi. Lại là khoảng cách quá gần ấy, lại là mùi
thơm dìu dịu của gỗ đàn hương ấy. Tôi… say mất…