Sáng
sớm hôm sau, chúng tôi thu dọn và lên đường. Tôi đã khỏe lại, ăn của người ta,
ở của người ta thì phải góp công góp sức với người ta chứ nhỉ! Buồn thay, tôi
lại không hiểu họ nói gì, nên khi thu dọn lều bạt, sự lóng ngóng của tôi chỉ
khiến họ thêm vướng chân vướng tay. Nhưng họ rất hiền hòa, không trách mắng gì
cả, vả lại, dĩ nhiên rồi, họ có trách mắng, tôi nghe cũng chẳng hiểu.
Họ dành
riêng cho người lạ từ trên trời rơi xuống là tôi một chú lạc đà. Nhưng bộ xiêm
y người Hán với ống tay rộng thùng thình và chiếc váy dài chấm gót khiến tôi
không làm cách nào trèo lên lưng lạc đà được. Tôi nhìn bộ váy áo lòa xòa lôi
thôi, rồi lè lưỡi nhìn tiểu hòa thượng với vẻ bất lực và cầu cứu.
Hòa
thượng nở nụ cười hồn hậu, quay lại trao đổi một hồi với người phụ nữ đứng
tuổi, lát sau, một bộ trang phục giống như của họ được đem tới. Tôi thay đồ,
hơi rộng, cũng phải thôi, thân hình của họ cao lớn thế kia mà. Áo dài đến đầu
gối, tay phải thắt ống, vai phải xẻ, quần rộng, ống kiểu Alibaba, ủng cao đến
đầu gối, ha ha, hợp mốt đấy chứ! Phụ nữ thời Hán ai mà dám mặc áo hở vai? Nhưng
điều quan trọng là với bộ quần áo như thế này, việc lên xuống lạc đà không còn
khó khăn nữa. Buổi sớm trên sa mạc vẫn giá buốt, tiểu hòa thượng ân cần mang
cho tôi một chiếc khăn quàng.
Tôi
nhẩm tính, cả đoàn cũng phải chừng sáu mươi người, nhưng tính cả tôi cũng chỉ
có tổng cộng năm người phụ nữ. Ngoài tiểu hòa thượng, những người còn lại đều
bận quân phục và giắt bên mình một thanh kiếm dài của tướng sĩ thời xưa. Và với
biểu cảm trên khuôn mặt họ, thì mọi sự tập trung đều dồn cả vào hai mẹ con ni
cô.
Tôi có
đôi chút băn khoăn, trước đây, tôi mới chỉ thấy hòa thượng và ni cô có người
hầu đi cùng, chứ chưa từng gặp hòa thượng và ni cô dẫn theo một đội quân thế
này. Càng quan sát càng nhận thấy vẻ quan cách toát ra từ cử chỉ và lời nói của
họ, rõ ràng hai mẹ con hòa thượng có thân phận không tầm thường. So với những
người khác, trình độ tiếng Hán của tiểu hòa thượng là khá nhất, vượt xa cả
người mẹ xinh đẹp, nên tôi chọn đi cạnh hòa thượng để nghe ngóng tình hình. Tuy
giao tiếp khó khăn, nhưng tôi cũng nắm bắt được khá nhiều thông tin.
Tôi
gặng hỏi hòa thượng có biết hiện ai đang làm vua vùng Trung Nguyên hay không.
Hòa thượng suy nghĩ hồi lâu mới phát âm ra một tiếng gần giống với “Tần/Thanh”.
Vậy hẳn là nhà Tần rồi! Không thể là nhà Thanh, nhóm chuyên gia đã khẳng định,
cỗ máy vượt thời gian chỉ có thể đưa được con người về lại khoảng thời gian hai
ngàn năm trước.
Tôi lại
hỏi hòa thượng học tiếng Hán ở đâu. Hòa thượng hoa chân múa tay hồi lâu tôi mới
hiểu sơ sơ, rằng ở Kuchi hòa thượng có hai thầy giáo người Hán. Hòa thượng thẹn
thùng bộc bạch, là bản thân mới học tiếng Hán được vài tháng mà đã năm năm rồi
không luyện khẩu ngữ, nên trò chuyện không được lưu loát.
Tôi quá
đỗi kinh ngạc. Hòa thượng chưa đến mười sáu tuổi, vậy là cậu bắt đầu học tiếng
Hán khi mới mười, mười một tuổi, năm năm bỏ bẵng, nhưng vẫn có thể giao tiếp
khá thế này, trí nhớ của hòa thượng thật đáng khâm phục. Thời gian học đại học,
tôi lựa chọn học ngoại ngữ tiếng Đức, sau vài năm không ngó ngàng đến, giờ đây tôi
chỉ nhớ mỗi câu ICH LIEBE DICH (Em yêu anh), nếu yêu cầu tôi trò chuyện với
người Đức, sẽ chẳng khác nào như vịt nghe sấm.
Vì tôi
tiếp đất giữa sa mạc mênh mông, nên tôi chỉ có thể suy đoán nơi này hoặc là
thuộc Tây vực hoặc là thuộc Mông Cổ. Tôi thử hỏi về con đường tơ lụa, nhưng hòa
thượng không hiểu. Chỉ khi tôi giải thích, tơ lụa và lá trà được vận chuyển từ
Trung Nguyên đến tiêu thụ tại Đại Thực (nay thuộc các Tiểu vương quốc Ả Rập),
Ba Tư (nay là I- ran), Đại Tần (nay là Roma) trên con đường này, thì hòa thượng
mới gật đầu. Hòa thượng cho biết, Kuchi nằm trên con đường này. Và trong tôi
chợt bừng lên một tia hy vọng.
Tiếp
đó, tôi vắt cạn bộ nhớ để kể ra những địa danh liên quan đến con đường tơ lục:
Yên Kỳ (Yanqi), Thiện Thiện (Shanshan), Sơ Lặc (nay thuộc Kashgar, Tân Cương),
Lâu Lan, Hòa Điền (nay thuộc Hotan, Tân Cương), Ô Tôn (nay thuộc Ili, Tân
Cương), Đôn Hoàng, … Trong số đó có một vài địa danh mà sau khi nghĩ ngợi một
lúc, hòa thượng nhắc lại bằng một âm tương tự, những âm còn lại rất khó nhận
biết. Khi kể đến địa danh Khâu Từ, tôi sững lại. Kuchi, Khâu Từ (Qiu Ci, nay
thuộc huyện Kucha, Tân Cương). Hai âm này rất giống nhau, lẽ nào là quốc gia có
nền văn minh phát triển và giàu mạnh nhất vùng Tây vực thời cổ đại?
Tôi
nhìn hòa thượng và thử đọc lại tên Khâu Từ. Hòa thượng ngập ngừng giây lát rồi
gật đầu và chỉ vào mình. Trời ơi, cuối cùng thì tôi biết mình đang ở đâu rồi.
Tôi đã đến Tây vực, Tây vực đời Tần!
Vậy thì
những người Khâu Từ mà tôi gặp trên đường đi này chính là người Tochari. Tài
liệu lịch sử chép lại rằng, tổ tiên của người Khâu Từ là tộc người Da Yue Zhi,
hay còn lại là người Tochari. Đầu dài, mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, da trắng,
thuộc giống người châu Âu nguyên thủy. Các bộ lạc Tochari đã kết thúc đời sống
du mục vào khoảng một nghìn năm trước Công nguyên và bắt đầu định cư tại Kucha,
Yanqi và Turpan. Tôi đã đến tham quan rất nhiều viện bảo tàng khi đi du lịch
Tân Cương và rất thích thú khi ngắm nghía các xác ướp, những xác ướp được lưu
giữ gần như toàn vẹn sau hơn ba nghìn năm, khuôn mặt xác ướp vẫn hiểu hiện rõ
nét đặc điểm ngoại hình của người châu Âu,
nổi tiếng nhất là xác ướp mỹ nữ Lâu Lan. Nhưng có lẽ vì nằm trên huyết mạch
chính của con đường tơ lụa, là nơi tập trung và lai tạp giữa nhiều tộc người
khác nhau, nên người Khâu Từ có khuôn mặt tròn hơn người châu Âu hiện đại.
Niềm
hứng khởi đang lên cao thì lập tức bị kéo xuống. Những ghi chép về Tây vực thời
kỳ nhà Tần rất ít ỏi, hầu như chỉ tồn tại trong “Tây vực truyện” thuộc sách
“Hán thư”. Lịch sử Tây vực trong trí nhớ của người Hán được bắt đầu từ thời Hán
Vũ Đế: Trương Khiêm đến Tây vực, kết thân với Ô Tôn (Wu Sun), dựng trại làm
ruộng, gây chiến với Hung Nô suốt mấy trăm năm. Nhưng được đến thời kỳ nhà Tần
cũng rất tuyệt. Tôi phải lên đường đi Trường An ngay mới được, để có thể tận
mắt chứng kiến những biến động to lớn cuối đời Tần, để được diện kiến những
nhân vật lừng danh trong lịch sử.
Tôi lặp
đi lặp lại nguyện vọng tha thiết đó với tiểu hòa thượng. Hòa thượng trầm tư một
lát rồi gật đầu và hứa sẽ sắp xếp. Nhưng cũng nói thêm, đường xa vạn dặm, phải
một năm mới đến nơi, hơn nữa hiện đang là thời kỳ chiến tranh loạn lạc, muôn
phần nguy hiểm.
Trời,
chiến tranh xảy ra rồi ư? Vậy thì tôi lại càng không thể chần chừ. Tôi vui vẻ
bảo rằng không sao cả, hòa thượng băn khoăn nhìn tôi, đôi mắt màu xám nhạt lộ
vẻ kinh ngạc. Tôi không biết phải giải thích thế nào để hòa thượng hiểu vì sao
một cô gái như tôi lại hứng thú với chiến tranh đến vậy, nên chỉ cười trừ.
Câu
chuyện giữa chúng tôi kéo dài đến gần trưa. Trời mùa thu lúc chính Ngọ nắng rất
gắt gao, tôi phải trùm kín đầu bằng chiếc khăn quàng vai. Tiểu hòa thượng kéo
thấp chiếc áo choàng dài, để lộ bờ vai phải, dưới ánh nắng rực rỡ, nước da bánh
mật phản chiếu sức sống, nét khỏe khoắn và vẻ tráng kiện của tuổi trẻ. Lối
trang phục để vai trần bên phải này vốn là trang phục phổ biến của giới tăng ni
ở Ấn Độ và Tây vực. Sau đó, Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, kiểu
trang phục này dần được cải biên, có câu “nhập gia tùy tục” mà. Thời tiết Ấn Độ
nóng bức, Tây vực thì nằm trong vùng sa mạc, hoang mạc mênh mông, chênh lệch
nhiệt độ ngày đêm rất lớn, nên kiểu trang phục kín đáo vào buổi sáng và buổi
tối, hở vai vào buổi trưa này rất phù hợp với điều kiện thời tiết nơi đây.
Khuôn
mặt hòa thượng bỗng nhiên ửng đỏ, ánh mắt rời khỏi tôi trôi về phía xa xăm. Lúc
này mới chợt nhận ra tôi đã chăm chú ngắm nhìn hòa thượng rất lâu, xấu hổ hết
chỗ nói! Trang phục đặc biệt này tôi mới chỉ thấy qua các bức bích họa, được
tận mắt chiêm ngưỡng người thật trong trang phục thật thế này, đôi mắt tôi như
bị thôi miên, cứ dán chặt vào, quên cả phép lịch sự. Không thể lôi công tác
nghiên cứu ra để biện bạch cho hành vi của mình, tôi chỉ còn cách duy nhất là
cười khì khì giả ngây ngô.
Chúng
tôi dừng chân nghỉ ngơi tại một rừng dương nhỏ. Những người hầu cận nhanh chóng
dựng lều và nhặt cành dương khô nhóm lửa nấu mì. Sau khi lót dạ bằng một bát mì
nóng và những chiếc bánh Tây vực, tôi bắt đầu thèm ngủ. Hai mẹ con hòa thượng
dùng bữa xong liền vào trong lều tụng kinh, họ đặt trên gối một cuốn kinh thư.
Lòng hiếu kỳ kéo tôi lại gần họ, kết quả là tôi luôn luôn bị bất ngờ.
Kinh
thư được viết trên lụa, chữ viết rất lạ, hình như là những kí tự, bao gồm rất
nhiều đường nét giống hình số 8 được viết thẳng và viết ngang. Tuy đọc không
hiểu, nhưng tôi không hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ này, loại văn tự này có lẽ
là văn tự Tochari đã thất truyền từ rất lâu. Đây là ngôn ngữ Ấn Âu nguyên thủy
cổ xưa nhất được biết đến cho tới nay, ra đời dựa trên sự phát triển những kí
tự của chữ viết Brahmi, Ấn Độ và cho đến nay vẫn chưa được giải mã triệt để.
Tôi run
rẩy bò đến gần và nhấc cuốn kinh thư phủ trên đầu gối tiểu hòa thượng, nghẹn
ngào thốt lên:
- Trời
ơi, đây là văn tự Tochari, là văn tự Tochari đấy!
Nếu có
thể mang cuốn kinh thư này trở về, nó sẽ có giá trị nghiên cứu lớn lao biết
chừng nào!
Ni cô
xinh đẹp hơi chau mày! Tiểu hòa thượng sau một thoáng giật mình, ngạc nhiên
nhìn tôi:
- Cô
biết văn tự này? Đây là chữ Khâu Từ, không phải Tochari[2].
A, đúng
rồi, Tochari là cách đặt tên của người Đức, những người Khâu Từ này chắc chắn
không biết Tochari là tên gọi ngôn ngữ của họ. Nhưng con người ở thế kỉ XXI đã
quen với tên gọi đó. Tôi cười ngượng ngùng nhưng mắt vẫn dán chặt vào những
hình số 8 xiêu vẹo kia, tự nhận thấy nỗi hưng phấn được tận mắt chiêm ngưỡng
những dòng văn tự Tochari sống động đang dâng cao không bút nào tả xiết.
Được
nghe lại và thấy lại một ngôn ngữ đã thất truyền đối với một người nghiên cứu
lịch sử như tôi, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, không thể đo đếm. Để có thể giải
mã những văn tự đã chết, biết bao nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã phải dành cả cuộc
đời để tìm kiếm dấu tích trên những di chỉ, di cảo còn sót lại. Thế kỷ XVIII,
Champollion lần đầu tiên giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, đã vén được bức
màn bí ẩn phủ trên mình lịch sử suốt mấy nghìn năm và ông được lưu danh thiên
cổ. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách nào giải mã hoàn toàn văn tự
Tochari, nếu như tôi có thể đọc hiểu thứ ngôn ngữ này…
Tôi nắm
chặt tay áo thùng thình của tiểu hòa thượng:
- Làm
ơn, dạy tôi tiếng Tochari, à không, tiếng Khâu Từ!
Hòa
thượng sững sờ chốc lát, rồi quay ra hỏi:
- Cô
biết chữ Hán chứ?
- Tất
nhiên rồi.
Đến
phiên tôi ngạc nhiên.
Hòa
thượng quay sang chuyện trò một hồi lâu với ni cô. Ni cô ngước nhìn tôi một lát
rồi nói mấy câu với con trai. Hai mẹ con họ trao đổi khá lâu khiến tôi không
khỏi hụt hẫng. Đang lo sợ bị từ chối, thì tiểu hòa thượng quay lại nhìn tôi,
đôi mắt màu nâu nhạt ánh lên nét tinh nghịch:
- Tôi
sẽ dạy cô, nhưng đổi lại cô phải dạy tôi tiếng Hán.
Tôi thở
phào, thì ra cậu ta muốn có đi có lại, tốt thôi!
- Được
chứ.
Ngập
ngừng giây lát, tôi bổ sung thêm:
- Tuy
tôi không uyên thâm kinh thư Phật pháp, nhưng tôi có thể dạy cậu chữ Hán, giảng
giải “Luận ngữ”, “Kinh thi”, “Tả truyện”, “Chiến quốc sách”.
Tôi
nghiên cứu lịch sử, không phải Phật học. Tôi có tìm hiểu đôi chút về lịch sử
Phật giáo, nhưng đi sâu vào những nội dung cụ thể của Phật giáo tam tạng như:
kinh tạng, luật tạng, luận tạng thì tôi hoàn toàn không biết gì. Tôi thực sự
tiếc nuối, sớm biết sẽ vượt thời gian đến nơi đây, đồng hành cùng mấy vị hòa
thượng ni cô thế này, tôi đã chăm chỉ nghiên cứu về Phật học rồi.
- Không
hiểu kinh Phật cũng không sao, cô dạy tôi những kinh văn kia là đủ.
Tiểu
hòa thượng có vẻ rất vui mừng, vì tôi thấy nụ cười ấm áp lẩn khuất sau hàng
lông mày dài tuyệt đẹp.
Tôi
bỗng nghĩ, kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên đều được dịch từ tiếng Phạn và
một số ngôn ngữ thuộc Tây vực. Hòa thượng là người Khâu Từ, đâu cần phải học
kinh Phật tiếng Hán, hòa thượng người Hán học kinh Phật từ tiểu hòa thượng này
mới đúng chứ!
Hôm đó,
tôi còn phát hiện thêm điều thú vị này nữa: sau bữa trưa, hai mẹ con hòa thượng
không ăn thêm bất cứ thứ gì. Người cổ đại chỉ ăn hai bữa một ngày, giới tăng ni
càng nghiêm khắc hơn.
Hỏi
tiểu hòa thượng thì được trả lời bằng tiếng Hán bập bõm rằng, giới luật quy
định, hòa thượng có thể dùng bữa trong khoảng thời gian từ sáng đến trưa, nhưng
bắt đầu từ buổi chiều cho đến buổi sáng ngày tiếp theo, hòa thượng không được
phép ăn uống bất cứ thứ gì.
Giới
luật này được đặt ra xuất phát từ câu chuyện: một đệ tử của Phật Thích Ca đi
khất thực vào buổi chiều muộn, lúc ấy trời đã nhá nhem tối, một người phụ nữ
mang thai lầm tưởng vị hòa thượng đó là ma, đã quá sợ hãi dẫn đến đẻ non. Từ
đó, Phật Thích Ca đã đặt ra giới luật này. Nhưng những người ốm đau bệnh tật
hoặc những người lao động vất vả, thì vẫn được phép ăn bữa tối, để duy trì sức
khỏe.
Tôi gật
gật đầu. Vào thời đại của Phật Thích Ca, các hòa thượng dành phần lớn thời gian
cho việc ngồi thiền, nên năng lượng tiêu hao không nhiều, không ăn bữa tối cũng
không sao. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào đất Hán, các nhà sư Trung Nguyên
vẫn ăn tối như người thường. Bởi vì, ở Trung Nguyên, nhà sư cũng phải làm
ruộng, nên đã chủ động thay đổi giới luật. Điều đó chứng minh tính linh hoạt
của tín ngưỡng Phật giáo. Có lẽ vì thế, trải qua mấy nghìn năm, Phật giáo vẫn
phát triển mạnh mẽ.
Quan
sát cách họ ăn cơm và uống nước đều nhận thấy nhiều điều thú vị. Đám thị nữ
dùng một vật dụng gần giống với túi lưới, lọc nước rồi mới mang đến cho hai mẹ
con hòa thượng uống[3]. Lúc đầu tôi cứ đinh ninh, hẳn là họ
e ngại nước trên sa mạc chứa nhiều tạp chất, nặng mùi phèn nên lọc qua một lần
rồi mới uống. Nhưng đến khi thấy nước dành chomình
không cần lọc, liền cảm thấy kì lạ.
Tiểu
hòa thượng lại ra sức giải thích cho tôi hiểu: các nhà sư trước khi uống phải
lọc nước để tránh nuốt vào bụng những sinh vật có trong nước, nếu không, sẽ vô
tình mắc tội sát sinh. Bởi vậy, giới luật của nhà Phật quy định, nhà sư phải
luôn mang theo bên mình túi lọc nước, nếu không, họ không được phép rời khỏi
nơi ở quá hai mươi dặm.
Lời
giải thích của tiểu hòa thượng khiến tôi lập tức nhớ tới câu chuyện Trần Huyền
Trang khi xưa một mình đi giữa sa mạc mênh mông không bóng người, mặc dù sắp lả
đi vì khát, nhà sư vẫn đổ hết nước trong túi da của mình đi. Vì Huyền Trang
kiên trì tuân thủ giới luật, không uống nước khi chưa được lọc sạch.
Buổi
tối, tôi ngồi bên đống lửa ngoài lán trại, chăm chú ghi chép lại tất cả những
điều mắt thấy tai nghe mấy ngày qua. Trên cao, ngàn vạn ngôi sao lấp lánh giữa
nền trời xanh thẫm.
Còn nhớ
những ngày tháng du lịch Tân Cương ở thế kỷ XXI, tôi cũng từng ngước lên bầu trời
trong vắt giữa đêm khuya thanh vắng và tự hỏi, phải chăng người xưa cũng từng
ngắm nhìn bầu trời đêm này như tôi? Và, bầu trời sao tôi nhìn thấy đêm nay,
phải chăng cũng là bầu trời sao thuần khiết mà một nghìn năm sau tôi lại được
nhìn ngắm? Tôi cứ đắm chìm trong mối suy từ này không sao dứt ra khỏi. Tôi của
hôm nay và tôi của một nghìn năm về sau đang cùng hướng lên bầu trời thăm thẳm
kia ư? Vậy rốt cuộc, tôi đã xuất hiện và tồn tại như thế nào?