Mới sáng sớm A La đã bị đánh thức bởi những tiếng lao
xao bên ngoài. Đi một mạch từ Lâm Nam đến Phong thành, ngồi xe ngựa đến phát
ngấy, đang tiết Đại hàn, chăn ấm đệm êm nàng ngủ một giấc thoải mái chẳng mộng
mị gì, đang muốn nằm nán thêm lát nữa thì bị đánh thức.
Lắng nghe tiếng nói bên
ngoài, hình như là giọng a hoàn của đại phu nhân và ngũ phu nhân, hình như còn
có người mang quần áo nào đó đến. A La vươn vai, hít một hơi thật sâu, giọng
chỉ trích: “Mới sáng sớm sao lắm ruồi thế, Lưu Anh?”.
Trong sân, Lưu Anh và
Tiểu Ngọc đau đầu nhìn một đám nữ tỳ tay bê đồ, miệng liến thoắng so bì. Nghe
tiếng A La, Lưu Anh rút thanh kiếm sáng loáng ra, mặt sa sầm nói nhỏ: “Dám vô
lễ với vương phi tương lai của Bình Nam vương? Chẳng biết phép tắc gì hết!”.
Tiếng nói im bặt.
A La nhìn qua bức màn,
thế mới phải, vẫn tưởng ta là cái túi để các ngươi xả giận như xưa chắc? Rồi
nàng lại lười biếng nằm xuống.
Lưu Anh cố nhịn cười, tra
kiếm vào bao, y nháy mắt với Tiểu Ngọc. Tiểu Ngọc vui vẻ, nói giọng từ tốn:
“Các vị, tam tiểu thư của chúng tôi ghét nhất đông người, các vị nhỏ tiếng
thôi, từng người đưa lên”.
A hoàn của đại phu nhân
liếc nhìn Lưu Anh, bê lên một hộp nữ trang, nhẹ nhàng nói: “Phu nhân chúng tôi
nói, tam tiểu thư cần trang điểm sang trọng một chút, đây là nữ trang phu nhân
đưa tặng”.
“Ồ, tôi thay mặt tam tiểu
thư cảm ơn Đại phu nhân đã kỳ công chuẩn bị quà quý như vậy! Tam tiểu thư đã
dặn ý tốt của các phu nhân nhất định phải nhận, phải cảm tạ”. Tiểu Ngọc mở ra
xem, toàn là đồ châu báu lóng lánh vô cùng quý giá.
“Ta về bẩm báo phu nhân
đã”. Nữ tỳ nói xong chạy thẳng.
Lát sau, Tiểu Ngọc bận
rộn thu xếp xong, mỉm cười với Lưu Anh, chạy vào tìm A La: “Tiểu thư, nhiều thứ
đẹp lắm!”.
A La lật chăn nhảy khỏi
giường: “Đi hết rồi à? Nào ra xem của nả thế nào”.
Không lâu sau, A La vẫn
xõa tóc kéo Tiểu Ngọc ra gian chính. Hai người vừa giở ra xem, cười khanh
khách: “Tốt quá, không trả lại một thứ nào hết, tất cả là của chúng ta! Tiểu
Ngọc, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì mang đi đổi ngân phiếu”.
Tiểu Ngọc lanh lảnh đáp
lời. Lưu Anh đang ngạc nhiên, tam tiểu thư này sao lại xõa tóc chạy ra ngoài
như thế? Sao nàng ta cư xử như vậy? Lẽ nào nàng ta chỉ nhằm vào đống tài sản
của chúa thượng?
A La lại vỗ vai Lưu Anh:
“Cả ngươi cũng thế, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì đem đi đổi ngân
phiếu!”.
Lưu Anh giật mình, sao
nàng ta chẳng kiêng kỵ gì thế?
A La cũng không thèm để ý
đến y nữa, cùng Tiểu Ngọc lựa ra mấy tấm vải màu sắc nhã nhặn và ít châu báu
đặt trước mặt Lưu Anh: “Những thứ này đem đổi ra ngân phiếu rồi sai người đưa
đến cho mẹ ta. Nhớ đấy, chủ ngươi đã trao ngươi cho ta, bây giờ ta là chủ của
ngươi, nếu ngươi phản bội ta, suốt ngày báo tin cho chủ cũ như vậy là bất
trung!”. Nói xong nàng cùng Tiểu Ngọc ôm những thứ mình thích đi vào.
Lưu Anh đứng ngây hồi
lâu, nhìn đống đồ bị xáo trộn bừa bãi, thở dài, thu dọn lại từng thứ. Câu tam
tiểu thư vừa nói, nàng ta là chủ mới của mình, Lưu Anh vẫn chưa kịp phản ứng.
A La ngồi trước gương,
Tiểu Ngọc chải đầu cho nàng, cười híp cả mắt: “Tiểu thư, hôm nay đi đến An
Thanh vương phủ, tiểu thư định trang điểm thế nào?”.
An Thanh vương là người
thế nào? A La suy nghĩ, không tiện nói ra, dù sao ông ta cũng không phải là
nhân vật đơn giản.
“Bình thường, không biết
thì cứ trang điểm bình thường, đơn giản một chút. À, gọi Lưu Anh vào đây, ta
suýt quên mất là có thể hỏi anh ta”.
Lưu Anh đứng trước mặt A
La, nét mặt thản nhiên : “Lão vương gia là người tốt!”.
“Hết rồi à?”. A La không
hài lòng. Chỉ có chút thông tin như thế thôi sao? Nàng trợn mắt nhìn Lưu Anh:
“Ngươi đừng quên, nếu ta không nắm được cha Lưu Giác, ồ, nếu An Thanh vương
không thích ta, chủ của ngươi sẽ thế nào?”. A La mặt cười cười nhìn Lưu Anh,
thầm nghĩ, ta không tin là thông tin chỉ có thế.
Suốt dọc đường Lưu Anh đã
bị A La hành hạ, quay như chong chóng, mãi mới có cơ hội được nàng yêu cầu giúp
đỡ, vốn định làm khó một chút đỉnh, thấy A La nói vậy lại mềm lòng: “Lão vương
gia thích rượu! Cũng ít khi trở về vương phủ, cứ trở về là thích chấn chỉnh
tiểu vương gia, thích trêu chọc tiểu vương gia”.
“Chấn chỉnh thế nào?”. A
La thấy hứng thú.
Lưu Anh đỏ mặt: “Đấu võ,
ồ, hai người... hai người đùa vui lắm”. Lưu Anh đánh chết cũng không chịu nói
thêm, nghĩ bụng, nếu sau này Bình Nam vương phát hiện đã tự tay trao cho tam
tiểu thư tên nội gián hạng nhất là mình đây, chắc là mình sẽ chết khó coi lắm.
A La nghi hoặc nhìn Lưu
Anh, cũng không muốn làm khó y, rút cục y vẫn là tâm phúc của Lưu Giác, nàng
cười nhạt: “Biết rồi, không muốn nói, ta cũng không làm khó ngươi. Chỉ có điều,
đã theo ta, tốt nhất sớm quên chủ cũ đi, nếu không đừng theo ta”.
Lưu Anh quỳ sụp xuống,
trả lời dứt khoát: “Lưu Anh là hộ vệ của tam tiểu thư, không có can hệ gì với
Bình Nam vương nữa! Cái mạng này là của tam tiểu thư, tiểu thư không tin cứ
việc lấy đi bất kỳ lúc nào!”.
A La dở khóc dở cười,
lòng cũng hơi hơi cảm động. Thời cổ đại cái gì cũng dở, chỉ có điểm này là tốt,
đó là sự ngu trung của người ở đây! Nàng mỉm cười: “Đã là người của ta, vậy ta
lệnh cho ngươi hãy chăm sóc Tiểu Ngọc, đối xử tốt với nàng ấy, bảo vệ nàng ấy
suốt đời suốt kiếp, ngươi làm được không?”.
Lưu Anh mặt đỏ rần rật,
mắt không dám nhìn Tiểu Ngọc, nói khẽ: “Lưu Anh tuân lệnh”. A La vận một chiếc
váy liền màu xanh bạc, tóc tết bím đi ra cửa. Các phu nhân của Lý tướng ngó
nghiêng phải trái một hồi, cảm thấy trai không ra trai gái không ra gái, nhưng
cũng không dám nói gì, xem ra A La tâm trạng rất tốt, trang điểm mặc dù chẳng
đâu vào đâu, nhưng trông nàng vẫn rất đẹp. Nhất là bím tóc gắn những hạt minh
châu óng ánh, làm cho mái tóc đen tuyền càng óng ả, rất hợp với đôi mắt long
lanh như thủy tinh.
Đại phu nhân âm thầm tiếc
của, chuỗi ngọc minh châu của bà bị nàng tháo ra làm đồ trang sức cho bím tóc?
Bà vốn tưởng A La dùng xong sẽ trả lại, liền buột mồm: “A La à, chuỗi ngọc
đó...”.
“À phải rồi! Cảm ơn chuỗi
ngọc của mẹ cả, A La rất thích. Còn nhớ lúc nhị tỷ xuất giá, mẹ cả còn không nỡ
đưa ra, vậy mà lại tặng A La, mẹ cả tốt quá!”.
Đại phu nhân cười gượng,
không nói gì.
Ra khỏi tướng phủ, A La
mới bật cười. Đại phu nhân đã im miệng, đồ của các phu nhân kia cũng đừng nghĩ
chuyện lấy về. Nàng đắc ý nghĩ thầm, trở về Phong thành, có bao nhiêu người
nịnh bợ, không cần mở quán kinh doanh cũng giàu to.
Tại vương phủ, An Thanh
vương bồn chồn đi đi lại lại. Ông đang tò mò muốn gặp tam tiểu thư của Lý gia.
Cô nương mà tiểu tử ngốc của ông si mê là người thế nào? Thông gia với Lý tướng
không phải là chuyện vui, ông vốn không ưa Lý tướng, trưởng nữ của ông ta đã gả
cho thái tử, Lý tướng đương nhiên ủng hộ thái tử kế vị, còn Ninh vương lại muốn
truyền ngôi cho tứ hoàng tử Lưu Phi. Còn tiểu tử Doãn Chi này lại thích đứa con
gái thà bỏ trốn chứ không chịu lấy nó, ông đã hình dung nỗi khổ sau này của con
trai! Ông đã mật báo nếu Ninh vương chưa băng hà Lưu Giác nhất định không được
quay về Phong thành, nhưng Lưu Giác lại vội vàng sai cao thủ Ô y kỵ chuyển mật
thư khẩn cầu ông chăm sóc tam tiểu thư này, lại còn điều tổ trưởng Thanh tổ Lưu
Anh bảo vệ nàng ta.
An Thanh vương có chút lo
ngại, không gặp tam tiểu thư kia ông quả thực không yên lòng. Ý ông đã quyết,
nếu Lý Thanh La và Lý tướng thông đồng mưu lợi, cùng một giuộc với nhau thì ông
nhất quyết không để Lưu Giác thỏa nguyện. Ông có cách khiến hôn sự không thành.
A La đàng hoàng đi vào
phủ An Thanh vương, gia nhân dẫn nàng đi vào đại sảnh, Tiểu Ngọc và Lưu Anh đi
theo sát. Lưu Anh tuyệt nhiên không dám liếc ngang. Y đã ở trong phủ này hai
mươi mấy năm, đã thông thuộc từng gốc cây ngọn cỏ, nhưng lúc này phải giữ bổn
phận, chỉ coi mình là người lạ.
An Thanh vương uy nghi
ngồi đó, A La vừa bước vào, ông ta đã thầm khen. Tiểu tử kia cũng có con mắt, a
đầu này đích thực là tuyệt thế mỹ nhân, hơn nữa lại không có vẻ e ấp ngượng
ngùng như các nàng thiếu nữ khuê các, ăn vận trang điểm thanh thoát nhẹ nhàng,
cũng rất đặc sắc. Nàng cúi chào tự nhiên, mỉm cười chờ ông lên tiếng. An Thanh
vương đưa mắt nhìn Lưu Anh. Lưu Anh quỳ xuống: “Lưu Anh thỉnh an vương gia!”.
Thi lễ xong y lại lui về đứng sau lưng A La.
An Thanh vương nghĩ, mình
cứ nhằm Lưu Anh khai chiến. Ông hừ một tiếng: “Nuôi ngươi ngần ấy năm, chủ chưa
có lời ngươi đã xa bay? Học thói vô lối ấy từ bao giờ?”.
A La nghĩ, được rồi, giết
gà cho khỉ xem đây. Nàng không giận, mỉm cười: “Nếu y vẫn coi lão vương gia là
chủ, như vậy là bất trung với tiểu nữ. Bình Nam vương là do vương gia dạy dỗ,
lẽ nào lời nói của tiểu vương gia không có giá trị?”.
Nha đầu nay thật to gan,
dám bênh vực Lưu Giác, chĩa mũi tên lên đầu lão già này? Lại còn ẩn ý nói rằng,
dạy con không tốt là lỗi của cha, nha đầu bảo lời Lưu Giác không có giá trị,
chẳng phải đang trách lão già này? An Thanh vương thầm tán thưởng, nhướn mày
nói: “Lưu Anh, đã ra khỏi phủ An Thanh vương, sau này không cần làm đại lễ như
vậy”. Lưu Anh chắp tay cúi đầu: “Tạ ơn vương gia!”.
An Thanh vương thay đổi
nét mặt: “Nha đầu kia, lại đây ngồi!”.
A La nhẹ nhàng đi đến
ngồi bên ông ta, hơi ngửa mặt tươi cười nhìn ông. An Thanh vương và Lưu Giác có
nhiều nét giống nhau. Nàng đột nhiên phát hiện, không chỉ Lưu Giác mà cả Tử Ly
và thái tử cũng có nhiều nét giống ông ta, mũi đều rất thẳng, môi rõ nét. An
Thanh vương nhìn rất uy nghiêm, nhưng đôi mắt lại rất đỗi hiền hòa, có phải ông
ta cũng như Lưu Giác tâm địa đều tốt? Lát sau nghe tiếng An Thanh vương hỏi:
“Nhìn đủ chưa? Nói xem trong mắt ngươi, ta là ngươi thế nào?”.
A La đỏ mặt: “Rất xin
lỗi, nhìn vương gia như thế này quả là thất lễ. Tiểu nữ chỉ hiếu kỳ muốn biết
Lưu Giác có một người cha như thế nào?”.
Sự thật thà và bạo dạn
của A La khiến An Thanh vương thêm yêu mến, có lẽ tiểu tử kia cũng thích tính
thật thà của nàng ta. “Nói thật xem, ngươi thấy vương gia ta là người thế
nào?”.
A La thầm nghĩ, liệu có
phải do có tình cảm với Lưu Giác, cho nên đến phủ An Thanh vương nàng không có
tâm lý đề phòng? Nàng bỗng nảy sinh thiện cảm và thân thiết tự nhiên đối với An
Thanh vương, quyết định khai chiến: “Lão vương gia là người tốt!”. “Nói vậy là
có ý gì?”.
A La nhìn ông với vẻ lạ
lùng: “Con người Lưu Giác rất tốt, ít nhất cũng tâm địa lương thiện, có phải là
được vương gia dạy dỗ từ nhỏ?”.
“Lão phu chinh chiến sa
trường giết người như giết kiến, cũng là người tốt sao?”.
A La nghiêm trang nói:
“Trên chiến trường bậc tôi nào cũng vì chủ, bảo vệ muôn dân lưỡi gươm vô tình,
có người từng làm thơ rằng “Sống làm bậc hiền nhân, thác làm ma anh hùng”. Vì
xã tắc muôn dân bao năm đồn trú nơi biên ải xa xôi chẳng phải là người đáng
kính hay sao?”. A La nghĩ, nếu ở đây có Trường Thành, mình sẽ hát “Trường Thành
ca” cho ông ta nghe.
Câu nói nịnh khiến An
Thanh vương rất đẹp lòng, ông cười tươi rói: “Hay cho câu “Sống làm bậc hiền
nhân, thác làm ma anh hùng” còn gì nữa?”.
“Lão vương gia cũng là
con cáo già!”.
Lưu Anh nghe vậy phát
hoảng, tam tiểu thư này! Vừa rồi còn nịnh như thế, sao lại đổi giọng ngay?
“Lão vương gia rắp tâm
muốn biết con trai vương gia thích điều gì ở tiểu nữ, tìm mọi cách để thăm dò
tiểu nữ!”.
An Thanh vương vểnh râu:
“Nói như vậy ngươi không sợ ta nổi cơn thịnh nộ hay sao?”.
A La cười hồn nhiên:
“Tiểu nữ rất sợ, nhưng lão vương gia là người thế nào? Thống lãnh thiên binh
vạn mã, nếu tiểu nữ nói dối, vương gia sẽ biết ngay. Còn nữa, lão vương gia
cũng sẽ không chấp tiểu nữ chứ?”.
Đã nịnh rồi thì phải nịnh
tiếp. Quả nhiên, An Thanh vương cười ha hả: “Coi như ngươi đang khen ta! Còn gì
nữa?”.
“Lão vương gia, lão vương
gia lại cũng là tiểu nhân!”. A La thay đổi sắc mặt.
Lưu Anh lại hoảng hồn,
toát mồ hôi, tam tiểu thư này đúng là chưa làm người ta tức chết thì chưa chịu
yên!
An Thanh vương đùng đùng
giận dữ, sao nha đầu này càng nói càng khó nghe thế? Ông sa sầm nét mặt: “Ngươi
dám nói bản vương là kẻ tiểu nhân?”.
A La đứng lên, đi mấy
bước: “Thứ lỗi cho tiểu nữ mạo muội, theo vương gia, thế nào là tiểu nhân?”.
“Gian trá, xảo quyệt, hẹp
hòi, ích kỷ, nhỏ nhen!”.
A La cười: “Đó là tiểu
nhân theo quan niệm của vương gia, là những kẻ suốt ngày nhăn nhở xun xoe,
khiến người ta cười khẩy khinh thường. Có điều, tuyệt chiêu đó tuy không dễ bắt
chước, nhưng lại có vô số người bất chấp sự khinh rẻ của người đời vẫn lao vào.
Loại người như vậy tiểu nữ không làm được, lão vương gia càng không phải nghĩ,
nếu bắt người làm vậy, người cũng không làm được”.
An Thanh vương cảm thấy
hơi thuận tai, sắc mặt dịu đi.
A La lại tiếp: “Tiểu nhân
mà tiểu nữ nói ở đây là kiểu người khác. Trong thế gian phức tạp không ai có
thể trong sạch siêu phàm, chỉ có những người trốn tránh cuộc đời. Nhưng phàm
những nơi có con người đều không thế trốn tránh, ẩn dật cũng không trốn tránh
được, cố theo đuổi sự trong sạch hoàn hảo là không tưởng, là lừa mình dối
người! Chúng ta đều là những tiểu nhân tương đối, coi vua là cha, ăn lộc của
vua, lo thay nỗi lo của vua. So với cái lớn lao của đức vua, chúng ta là bé
nhỏ”.
An Thanh vương trầm tư, A
La tiếp tục: “Chúng ta là con người, không phải muông thú, không phải thần
thánh, bản tính con người chính là nhân tính, vốn không khác nhau quá nhiều.
Nhiều lúc trong cuộc sống của chúng ta có bao điều hạn chế, không gian để tự do
hít thở, tự do bay nhảy bị bó hẹp đến mức khiến ta không thể thở, không thể
giương cánh, vậy là đành phải làm cho bản thân trở nên nhỏ bé đi, chỉ có làm
cho mình trở nên nhỏ bé đi mới hy vọng khiến không gian sinh tồn của mình lớn
hơn chút nữa. Nhưng tiểu nhân cũng là đại trượng phu, thân sinh ra giữa đất
trời, có những điều cần làm có những điều không làm!”.
Mặt nàng sáng bừng:
“Vương gia chính là kiểu tiểu nhân mà A La vừa nói, có thể tiến, có thể lùi, có
thể cười, có thể giận đều là tiểu nhân, nhưng ung dung đường hoàng, quang minh
lỗi lạc!”.
Lưu Anh thở phào, ánh mắt
nhìn A La muôn phần kính trọng. Nếu lúc đầu y đi theo A La là do mệnh lệnh của
chúa thượng, thì giờ đây y đã xúc động sâu sắc trước kiến giải mới mẻ của nàng.
Ai chẳng muốn đường đường chính chính làm người? Cuộc sống gian khó buộc người
ta phải nép dưới bờ rào làm một tiểu nhân. Nhưng điều đó không ngăn cản người
ta có tấm lòng, tâm hồn của đấng trượng phu chân chính! Lưu Anh bất giác đứng
thẳng lưng.
An Thanh vương kinh ngạc
nhìn A La. Một tiểu cô nương mười bảy tuổi, đứng giữa phòng, người như tỏa
sáng, đôi mắt hồn hậu, thẳng thắn. Phải, mọi người đều là tiểu nhân, chẳng qua
ai cũng đang giành lấy không gian lớn hơn cho mình và người thân. Người có kiến
giải như thế, đứa con trai của ông quả không nhìn nhầm. Ông cười ha hả: “Bày
rượu, lão phu phải uống vài chén mới được!”.
A La không nói triết lý
nữa, ngoan ngoãn thưa: “Nghe đồn lão vương gia thích rượu, không biết vương gia
có hiểu về rượu?”.
An Thanh vương trợn mắt:
“Rượu có gì phải cầu kỳ? Lão phu chỉ muốn uống cho đã!”. A La cười không trả
lời. Lát sau nữ tỳ mang rượu và thức ăn lên, A La cầm một chén lên uống, ngẫm
nghĩ rồi hỏi: “Đây là rượu là lão vương gia thích nhất sao?”.
An Thanh vương đắc ý:
“Lão phu thích nhất loại rượu ở Biên thành, đủ cay đủ mạnh!”. Loại rượu nước
hai này cũng gọi là rượu? A La thầm nghĩ, nếu có một bình Mao Đài ở đây, có lẽ
ông ta sẽ khoái đến nỗi đêm ngủ cũng ôm trong lòng? Kỹ thuật cất rượu, nàng
cũng không hiểu lắm nhưng có thể thử, bèn nói: “Hôm nào tiểu nữ có thể đem loại
rượu này chế lại một chút được không?”.
Nha đầu này còn biết ủ
rượu nữa sao? An Thanh vương đã thấy bụng ngứa ngáy vô cùng, thằng con trai
mình đúng là bắt được báu vật. Hai người vừa ăn vừa nói chuyện, A La kể cho ông
nghe những kiến thức về rượu mà nàng biết được. Những là bồ đào mỹ tửu dạ quang
bôi, uống rượu nho phải dùng ly thủy tinh; rượu trắng phải dùng chén gốm lam,
rượu tinh phải uống vào tiết hoa lê nở... khiến lão vương gia dỏng tai, trố mắt
ngồi nghe mặt mũi phừng phừng phấn khích, xuýt xoa tiếc không được nếm thử từng
loại rượu đó: “Ngươi đều biết nấu cả chứ?”.
A La cười, lắc đầu: “Tiểu
nữ không biết!”.
An Thanh vương bực mình:
“Thế ngươi nói nhiều như vậy làm gì? Có uống được đâu!”. Đúng thế, chưa được
uống, không uống được mới khen hay! A La lim dim mắt nói: “Hình như tiểu nữ nhớ
có một cách chế rượu gọi là chưng cất, tiểu nữ sẽ cố nhớ lại”. Nàng không dám
chắc, nhưng có thể thử.
Mắt An Thanh vương sáng
lên, nhìn nàng không chớp: “Vậy ngày mai thử?”.
“Ngày mai tiểu nữ phải
vào cung. Tiểu nữ còn chưa trở về, đại tỷ đã giục gọi vào cung. Nhắc đến loại
rượu này, tiểu nữ cũng định chế thử chơi, nếu trong cung giữ lại, biết làm thế
nào?”. Nàng làm bộ phiền não.
“Thì cứ nói vương phủ của
ta có việc”. An Thanh vương vỗ đầu chủ động đứng ra làm lá chắn.
Điều nàng muốn không phải
là câu đó. A La vừa rồi nói một thôi một hồi, làm tiểu nhân quả thật không đơn
giản như vậy. Muốn vào cung muộn một chút, trước tiên phải nắm được An Thanh
vương! Bây giờ ông chính là giấy thông hành đặc biệt! Nàng bất giác cười thầm.
An Thanh vương ngồi trong
thư phòng nhìn A La không chớp mắt. Nàng đang vắt óc nhớ lại: “Muốn nấu rượu,
phải nấu chín cao lương hoặc gạo, rồi ủ cho lên men, tiểu nữ nghĩ lão gia cũng
sốt ruột lắm rồi. Chúng ta sẽ làm đơn giản một chút, ta sẽ đem rượu có sẵn
chưng cất lại, dụng cụ chưng cất này...”. A La nghĩ một hồi, rồi vẽ ra dụng cụ
giống như phin pha cà phê với hai nửa hình cầu trên có nắp đậy, lại có thêm ống
dẫn. A La nhìn An Thanh vương đang nghe rất chăm chú.
“Tiểu nữ cũng không biết
có được không, chúng ta phải thử đã”.
Nàng giải thích: “Lão
vương gia thích rượu mạnh, rượu này chưa đủ mạnh, chúng ta sẽ làm cho nó mạnh
hơn, thông qua chưng cất, tinh chất rượu bốc lên, biến thành hơi nước, dùng dụng
cụ thu lại hơi nước đó sẽ được một loại rượu khác”.
An Thanh vương ngẫm nghĩ,
bật cười: “Có phải chính là phân tách rượu nguyên chất?”.
A La vỗ tay khen: “An
Thanh vương thật anh minh, chính là thế, chúng ta thử xem sao”.
An Thanh vương tươi cười
nhìn A La, ánh mắt cực kỳ tinh anh: “A La nói đi, trong đầu con sao lại chứa
nhiều thứ như vậy? Chưa bao giờ nghe nói, không tin được, ngay đến kiến giải
của con về tiểu nhân cũng thật mới mẻ khiến lão phu sửng sốt bần thần!”.
A La nghĩ, cáo già đã bắt
đầu nghi ngờ. Nàng cười sảng khoái: “Theo đạo lý, tiểu nữ là tam tiểu thư của
tướng phủ, được nuôi dưỡng ở chốn thâm khuê, không ra khỏi cửa ba bước, không
thể biết những thứ không phù hợp với nữ nhi như vậy. Nhưng, lúc A La năm tuổi
đã có một cuộc kỳ ngộ. Một người không biết tại sao bị thương, nhảy vào rừng
trúc phía sau hậu viên tướng phủ, tiểu nữ cho ông ta ăn uống, cũng nhận lời giữ
bí mật cho ông ta, cho nên hàng ngày ông ta dạy tiểu nữ tập võ công, còn kể cho
tiểu nữ nghe bao nhiêu chuyện ly kỳ. Tiểu nữ cũng không biết thật giả thế nào,
cũng chẳng có dịp nào để thử, bây giờ dần nhớ lại, một số điều cũng thấy có lý,
một số điều cũng thấy có lợi ví như cách ủ rượu”.
An Thanh vương mặt nghiêm
túc: “Con cho ta là đứa trẻ lên ba hay sao?”.
A La nghiêm mặt: “Khi chưa
gặp lão vương gia, tiểu nữ còn hành sự tùy tiện, gặp rồi liền bỏ ý định. Lưu
lạc ba năm bên ngoài, tiểu nữ đã không còn là tam tiểu thư yểu điệu yếu mềm.
Vốn đã rất mệt mỏi, lẽ nào vương gia cho rằng tiểu nữ cố tình ra vẻ, đối phó
với vương gia?”.
Nói đến đây mắt nàng nhìn
thẳng An Thanh vương. Phải hoàn toàn thu phục ông, để ông trở thành chỗ dựa của
nàng ở Phong thành, không mạo hiểm dùng độc chiêu sao có thể đạt mục đích?
An Thanh cố bộc lộ uy vũ
của một võ tướng nhiều năm cầm quân, nhưng nàng vẫn đứng thản nhiên, nụ cười
tươi viên mãn như hoa: “Vương gia, tiểu nữ đã nói, tiểu nữ chỉ đang cố sức tự
bảo vệ bản thân mình trong không gian hạn hẹp, chỉ cầu sống yên ổn như một tiểu
nhân mà thôi”.
An Thanh vương thu lại
sát khí của một võ tướng, mắt chớp một cái, khẽ cười: “Nghe nói lúc đầu con
tháo hôn, khiến con trai lão phu suýt chút nữa phát điên?”.
A La chớp mắt: “Nghe đồn
tiểu vương gia nói An Thanh vương phủ cha truyền con nối, cả đời chỉ lấy một
vợ?”.
“Con thích nó ở điểm này
ư?”. An Thanh vương không trả lời, hỏi lại.
“Không, không phải tiểu
nữ chỉ thích tiểu vương gia ở điểm đó!”. A La lắc đầu.
“Ồ, còn gì nữa?”.
A La bỗng cười tươi:
“Tiểu nữ còn thích tính quyết đoán của tiểu vương gia, nói được làm được, một
lòng chân tình với tiểu nữ, quan trọng nhất là tiểu vương gia không chỉ là Bình
Nam vương mà còn có một người cha lão luyện quyền thế, có thể làm được mọi
chuyện như lão gia đây! Có hai vị vương gia làm chỗ dựa, món hời như thế ai
chẳng muốn!”.
An Thanh vương cười ha
hả: “Bản vương rất thích tính cách bộc trực này của con!”. Đột nhiên ông vỗ
đầu,”Suýt thì quên, tiểu tử đó hình như còn gửi cho con một bức thư. Đi! Ta vào
xem thế nào!”.
Lòng A La ngọt ngào,
nhưng mặt lại tỏ ra bất cần: “Không xem!”.
An Thanh vương phấn khởi
nhìn nàng, mặt A La ửng hồng vẻ e thẹn.
“Thế nào? E thẹn ư? Khi
đến gặp ta, có thấy con e thẹn gì đâu?”.
A La cúi đầu ngồi im, lát
sau mới nói: “Tiểu nữ vẫn chưa quyết lấy tiểu vương gia, việc gì phải hồi âm,
cứ để vương gia sốt ruột”.
“Ha ha, tốt, cứ để nó sốt
ruột!”. Nàng ta có kiến giải đặc sắc, ý chí vững như núi, khi yếu đuối khiến
người ta thương cảm, lúc kiên quyết lại khiến người ta khâm phục. Kỳ nữ này,
đừng nói tiểu tử ngốc kia, ngay lão gia ta cũng thật lòng thích thú.
“Cứ thử đọc xem sao!”. A
La chớp mắt, bỗng nảy ra ý nghĩ khác.
An Thanh vương cười đưa
nàng vào thư phòng, trao cho nàng một phong thư. A La mở ra xem, bên trong chỉ
có mấy chữ: “Vẫn còn giận phải không?”. Ở giữa ép một bông hải đường.
A La nhìn An Thanh vương,
cười ranh mãnh: “Lão vương gia, chúng ta bàn xem hồi âm thế nào để tiểu vương
gia tức điên được không?”.
An Thanh vương thầm nghĩ,
tiểu tử ngốc, giấu ta ấn định hôn ước, may mà ta cũng thích con bé, nếu không,
ta sẽ tức muốn chết. Tự dưng ông cũng nảy sinh tính trẻ con, cười: “Nên hồi âm
thế nào?”.
A La nghĩ một lát: “Tam
tiểu thư tướng phủ đích thân đến phủ thoái hôn, đại sỉ đại nhục! Nếu còn nhắc
lại chuyện này, lão phu đánh gẫy chân!”.
An Thanh vương ngẩn
người, nhe răng cười: “Tốt, cứ làm thế! Đợi tiểu tử ngốc về đây, xem nó cầu xin
ta thế nào!”.
A La cười khúc khích,
chìa ngón tay ngoắc coi như thỏa thuận: “Đây là bí mật của hai chúng ta!”
An Thanh vương cười cũng
chìa tay ngoắc, đột nhiên nói: “Nghe nói ngón đàn của con hơn cả tỷ tỷ?”.
A La giật mình, chuyện
này lão cáo già cũng biết sao! Nghĩ một lát trả lời: “Ý tứ tiếng đàn của tiểu
nữ trội hơn, chứ không phải ngón đàn giỏi hơn!”.
“Nhưng khúc “Thu thủy”
lại khiến thái tử xiêu lòng! Có điều thái tử phi là người không đơn giản, thuở
nhỏ đã tinh thông binh pháp, lão phu cũng rất mực khâm phục”.
Đúng thế, Vương Yến Hồi
đích thực là một người đàn bà lợi hại! A La nghĩ, thực ra mình hiểu binh pháp
rất nửa vời. Ba mươi sáu kế nàng còn chưa thuộc hết, sực nhớ Lưu Giác đã nói,
Ninh vương băng hà chàng sẽ dẫn quân về Phong thành, vậy An Thanh vương rút cục
sẽ ủng hộ ai? Lại còn Tử Ly đang nắm binh quyền, ba năm đủ dài để chàng vạch
xong mọi mưu kế. Về chuyện ai sẽ kế vị A La không nghĩ nhiều, dường như ai làm
cũng không can hệ đến nàng, nhưng phủ An Thanh vương thì khác. Lão cáo già suy
nghĩ thế nào chắc sẽ không nói với mình, bây giờ Lưu Giác ở Lâm Nam đang rất
sốt ruột, vào lúc này lão cáo già hỏi đến chuyện đánh đàn là có ý gì?
“Ngày mai tiểu nữ vào
cung thăm Thanh Lôi, vương gia có muốn dặn dò tiểu nữ điều gì chăng?”.
“Chẳng phải đã nói sẽ
viết thư cho tiểu tử nói là con đích thân đến phủ từ hôn rồi thôi, trò phải
diễn đủ, tiểu tử đó mới không nghi ngờ!”. An Thanh vương mặt tươi như hoa.
A La nghĩ, trong đầu
“bung” một tiếng, tuyên bố như vậy mình sẽ sống ra sao? Không những Lý tướng sẽ
đến tận Đường viên hỏi tội, thái tử, thái tử phi và Thanh Lôi cũng sẽ điên
tiết, cái mạng nhỏ nhoi của mình liệu có giữ được không? Cây đại thụ An Thanh
vương này chưa dựa được mấy ngày, ông đã đẩy mình vào vòng xoáy hay sao?
An Thanh vương vẫn cười
nhìn nàng. A La lẩm bẩm: “Cha tiểu nữ sẽ đánh chết tiểu nữ mất! Không đùa
nữa!”.
An Thanh vương cười khà
khà: “Tiểu nha đầu sợ rồi hả?”.
“Đương nhiên, cái mạng
nhỏ của A La phải thận trọng”.
Đúng, đẩy A La vào vòng
xoáy như vậy là hơi tàn nhẫn, An Thanh vương cũng thấy không nỡ, buột miệng
nói: “Thoái hôn đâu có dễ thế? Nhưng con cũng không thích nó, tiểu tử nhà ta
đâu có xứng với con!”.
Ý ông thế nào? A La không
hiểu. Nếu nàng nói không thích Lưu Giác... Nàng cười, nhìn An Thanh vương:
“Vương gia đúng là cáo già! Ngay con trai mình mà cũng đưa vào toan tính!”.
“Như con nói, ta đương
nhiên là cáo già. Nhưng vị hôn thê của tiểu tử kia không thích nó, lại gây
chuyện muốn thoái hôn, nó không sốt ruột sao được! Nếu nó sốt ruột, ha ha,
người làm cha này, đương nhiên cũng đành bất lực!”. An Thanh vương cười tỏ vẻ
vô can.
A La kéo áo ông làm nũng:
“Nếu cha tiểu nữ mắng tiểu nữ, chưa biết chừng tiểu nữ sợ quá bỏ trốn khỏi
tướng phủ, lần này không biết đi đâu, lão vương gia nên chuẩn bị một sơn trang
biệt uyển để cho tiểu nữ nương náu! Còn nữa, nếu Đông cung trở mặt với tiểu nữ,
tiểu nữ tủi thân muốn ra phố mua sắm cho hả giận, không có bạc không xong!”.
Nói mãi nói mãi hai người
cười khe khẽ.
Lúc sắp rời phủ, An Thanh
vương cho A La ba cây pháo hoa: “Nếu tâm trạng không vui, thì đốt pháo hoa mà
chơi, đẹp lắm”.
A La mỉm cười giơ tay đón
nhận, ánh mắt lay động lóng lánh: “Một mình đốt pháo hoa thì buồn lắm, tiểu nữ
thích chen trong đám đông xem pháo hoa, như thế mới vui”.
Phong thành sắp tới chắc
không bình yên, bản thân mình chắc cũng không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy,
đã vậy phải khuấy cho đục ngầu mới không uổng sống một đời ở đây. Lưu Giác, hai
cha con chàng là những con cáo thật sự, còn ta, nàng nghĩ, ta sẽ nhân cơ hội
này chơi thỏa thích một trận. Có hai con cáo một già một trẻ bảo vệ tốt bao
nhiêu. Sau khi A La đi khỏi, An Thanh vương trở về thư phòng, đi đi lại lại suy
nghĩ, thái y mật báo, Ninh vương đã hoàn toàn tê liệt, có thể ra đi bất cứ lúc
nào, ông nhẩm tính thời gian, lệnh cho thái y bất luận thế nào cũng cố duy trì
mạng sống cho Ninh vương thêm nửa tháng nữa.
Ngay từ ba năm trước, khi
Ninh vương triệu ông trở về Phong thành, ngài đã khẩn thiết nói với ông: “Vương
đệ, Ninh quốc sóng yên biển lặng cả trăm năm nay, ta bản tính yếu mềm, lại bình
yên ngự trị trên ngai. Nhưng họ Vương lòng lang dạ sói, thế lực ngoại thích đã
len vào triều đình. Đệ ở xa mãi tận Biên thành, những năm qua Ninh quốc không
xảy ra chuyện gì lớn, nhưng triều chính đa phần đều làm theo ý họ Vương, ta
cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Thái tử vốn cũng rất tốt, nhưng nó rất thân
với họ Vương, để nó kế vị e là thế lực vương tộc họ Lưu chúng ta ngày càng suy
yếu. Nếu lúc thái tử chọn thái tử phi, hoàng hậu không một mực tiến cử con gái
Vương thái úy thì ta cũng thôi, bây giờ nếu thái tử kế vị, lưỡng cung hoàng hậu
đều do con gái họ Vương nắm giữ, ta thực lòng không yên. Ta cũng đã nghĩ đến
chuyện phế thái tử, hiềm nỗi một là Lưu Giám cũng là con trai ta, nó không mắc
sai sót lớn, không có cớ gì để phế truất; hai là, họ Vương nhất định không
phục. Họ Vương nắm đại quyền thống lĩnh cánh quân phía đông, nếu dấy binh, Ninh
quốc đại loạn, e là cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên hủy bại trong tay ta!”.
An Thanh vương chứng kiến
thái tử Lưu Giám và Ly Thân vương Lưu Phi từ nhỏ lớn lên. Hai vị hoàng tử đều
là những người xuất sắc trong các vị hoàng tử, đều có khả năng kế vị. An Thanh
vương hiểu, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, Ninh vương rất lo lắng cho tứ hoàng
tử, nhưng do thế lực họ ngoại rất lớn, đành lập Lưu Giám làm thái tử. Để bảo
tồn thực lực của hoàng tộc, bản thân An Thanh vương đã nắm quyền cai quản Hữu
quân đồn trú tận Biên thành xa xôi, coi như phân chia một phần binh lực, nhưng
đại đa số quân quyền vẫn nằm trong tay Vương thái úy. Nếu thái tử kế vị, binh
quyền, hoàng quyền họ Vương đều có, vận mệnh sau này của hoàng tộc họ Lưu rất
khó lường.
An Thanh vương thận trọng
lên tiếng: “Ý của vương huynh là...”.
Ninh vương trịnh trọng
lấy ra di chiếu, trao vào tay ông, lạy ông một lạy: “Để bảo vệ gia tộc họ Lưu,
ta đã làm khó vương đệ rồi”.
Khuôn mặt dày dạn gió
sương của An Thanh vương trở nên cực kỳ trang nghiêm, ông quỳ xuống thề: “Quyết
không phụ sự ủy thác của vương huynh!”. Khi đứng dậy, một khí phách oai nghiêm
dũng mãnh lạ thường toát lên từ con người ông.
Ninh vương khẽ than: “Nếu
ngày xưa đệ dịu tính một chút, ngôi báu này do đệ làm chủ, Ninh quốc đâu có
nhiều rắc rối như thế!”.
An Thanh vương lắc đầu:
“Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế
vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc
mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã
sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng
làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.
Khuôn mặt gầy yếu của
Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của
họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó,
đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không
phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm này, chắc cũng đã có thể lẳng
lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh
đao”. Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù
trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy
biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống
chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá
xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà.
Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của
Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng
tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái,
Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm
lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi
Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai
vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.
Ba năm nắm binh quyền vừa
rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ
Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành
gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã
lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho
họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay.
Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn
hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.
An Thanh vương nhìn bức
thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng
phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không
biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con
không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.
Ông lại viết cho Tử Ly:
“Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”. Gắn si niêm phong
xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe
đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao
tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người
cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười
lăm ngày phải gặp được thân vương!”.
Xích Phong quỳ sụp xuống,
trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.
Xích Phong đi khỏi, An
Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.
Một bóng đen bay vào thư
phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.
“Ngươi có thân thủ tốt
nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly
Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về
Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.
Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương
gia không tin Xích Phong?”.
“Không phải không tin,
việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải
đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.
Ám Dạ không hỏi nữa, nhận
ấn tín, lẳng lặng lui ra.
Khi Lưu Giác đi Lâm Nam
mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại
ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp
tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.
Mọi việc xong xuôi, An
Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió.
Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông.
Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng
lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho
con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên
cũng thế.
Trở về tướng phủ, Lý
tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.
A La rất bình tĩnh trả lời:
“Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.
Nhìn vẻ mặt tươi cười của
Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không
tồi!”.
Lý tướng kinh ngạc, con
bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như
thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần
thần lắm.
“Đừng quên, con đã định
hôn với Bình Nam vương, đã ra khỏi khuê phòng, bị lỡ mất ba năm! Ngày mai ta sẽ
đến bàn với An Thanh vương chọn ngày thành hôn!”.
A La cười: “Cha à, cha hồ
đồ hay sao? Ninh vương đang bệnh nặng, sao cha dám gả con vào lúc này?”.
Đúng, vương thượng bệnh
nặng, bây giờ mà gả con gái là không thỏa đáng. Lý tướng nghiến răng lẩm bẩm,
đứa con gái này bỏ đi ba năm, khi trở về đã đã không còn nhút nhát như trước,
lời lẽ xem chừng có ý từ hôn, nếu không sớm gả đi, đêm dài lắm mộng. Đầu ông
lóe lên bao toan tính.
Nhìn ánh mắt liếc đảo bất
định của Lý tướng, A La bồi thêm một câu: “Ly Thân vương nắm trọng binh trong
tay, ngộ nhỡ...”.
Lý tướng kinh ngạc, phải
rồi, Ly Thân vương là cá trong ao, hai con hổ đấu nhau, bản thân mình quả thực
đã đem châu báu đặt cả vào thái tử, nhưng nếu ngộ nhỡ? Đằng nào ba đứa con gái
hy sinh đứa nào cũng không quan trọng, quan trọng là mình phải kín kẽ, không
được phép sơ sẩy! Bình Nam vương cũng tốt, nhưng nếu Ly Thân vương chiến thắng
thái tử, kế vị ngôi báu, gả A La cho y, mình chẳng phải càng hời hay sao? Nhưng
nếu hủy hôn, mình biết ăn nói thế nào với lão già An Thanh vương? Lý tướng lại
đau đầu.
“Cha khỏi cần phiền não,
bây giờ con chưa đồng ý lấy ai là được chứ gì? Để mọi chuyện rõ ràng rồi tính
cũng chưa muộn!”.
Mặt Lý tướng tươi tắn lại
ngay lập tức, nghĩ đến Bình Nam vương đang ở Lâm Nam chưa về, Ly Thân vương
cũng ở tận Biên thành, lúc này chưa cần lo vội. Ông thầm khen A La mưu kế: “Ý
hay lắm, thật không hổ là con gái ngoan của ta! Ngày mai vào cung thăm tỷ tỷ,
con nhớ trang điểm thật đẹp đấy!”.